32.4 C
Hanoi
Thứ Tư, Tháng 7 16, 2025

Đời nến

K ý ức con người là một thứ...

Những ánh trăng quê

N hìn ánh trăng chảy tràn trrên...

Chỗ dựa mang tên ba

Ba tôi có một thói quen lạ....
Trang chủ Blog Trang 4

Nụ cười Hà Nội

P hải lâu lắm, tôi mới có dịp trở về Hà Nội vào mùa thu tháng tám. Hà Nội đón tôi bằng nắng cuối hạ sang mùa. Mẹ bảo, mấy nay dịu trời rồi con ạ. Chớm heo may nhưng cũng đủ rộ lên sắc thu .
                           Tôi không sinh ra ở Hà Nội, nhưng người thân chọn Hà Nội để an sinh và lập nghiệp nên điểm đến đầu tiên của tôi bao giờ cũng là Hà Nội mỗi khi có dịp về thăm quê hương. Người ta ví Hà Nội như cô gái tân thời, thay đổi từng ngày, quả thật không sai.

Xuyên suốt các ngả đường từ sân bay vào nội thành, những tòa cao ốc, san sát mọc lên như nấm, trước sự ngỡ ngàng của người lữ khách phương xa. Chỉ sau ba năm tôi quay trở lại, Hà Nội mở rộng hơn, những làn đường vành đai thoáng và dài như đại lộ, từ đó tiếp nối trung chuyển thêm bao nhiêu làn đường đi các ngả. Em trai tôi vừa lái xe, vừa say sưa kể về Hà Nội thay da đổi thịt một cách đầy hãnh tiến. Nào là những dự án của các tập đoàn lớn đang đầu tư vào Hà Nội, nào là doanh nghiệp trong nước đấu thầu, v.v… Thi thoảng cậu đưa tay chỉ dẫn về phía những khu đô thị mới. Những hạ tầng cơ sở hiện đại khép kín trong một quần thể, đang được quy hoạch trong nay mai. Hà Nội phủ đường vành đai bằng những hàng cây xanh mướt.

Em trai tôi nói còn có con đường được trồng toàn hoa ban Tây Bắc, mùa hoa ban bung nở khiến cho phố phường Hà Nội mang hơi thở mới, đẹp lạ thường. Bầu trời xanh dịu mát, hay tiết trời vào thu lâng lâng, dìu ánh mắt tôi lướt qua các khu phố huyên náo sầm uất hai bên đường. Hà Nội đã thực sự hồi sinh sau dịch bệnh Covid -19.

    Tôi trở về lâng lâng tiếng sóng sông Hồng hát, ướm hồn trong chiều gió nổi, hong sắc màu phố thị. Chiều tàn ánh dương, những đường phố mới lộng lẫy ánh đèn, rộn rã đêm trăng Rằm tháng tám. Tôi yêu cơn mưa đến bất chợt, ẩn thêm nét trầm mặc khảm lên 36 phố phường Hà Nội. Màu thời gian như nhắc nhở rằng kim cổ giao thoa là tiếp nối nhân văn để chúng ta trân quý. Tôi đã chạm vào màu thời gian mỗi khi về lại. Lần nào cũng vậy, tôi trèo lên tầng trên cùng, nơi bày những quyển sách quý từ thập niên 90, 80. Vô tình tôi biết tiệm sách cũ này, sau những lần lang thang cùng đám bạn. Người bán hàng là đồng niên, chúng tôi cùng sở thích yêu tiểu thuyết và văn học nước ngoài.

    Thế hệ chúng tôi vùi thời gian vào chữ trên báo giấy và làm bạn với những quyển sách hay, đâu có nhiều sự giải trí công nghệ hiện đại như tụi trẻ bây giờ. Anh kể, mẹ anh là người Hà Nội gốc, cũng là người yêu chữ và truyền cảm hứng cho anh. Bà là giáo viên dạy văn, luôn gìn giữ, trân quý những quyển sách cũ, anh tiếp quản và duy trì hiệu sách này như nỗi nhớ về người mẹ quá cố. Người Hà Nội có nét văn hóa tinh tế, biết cảm nhận hưởng thụ cuộc sống từ nghệ thuật đến ẩm thực. Và những con người từ mọi miền đổ về cũng đều lẫn vào nền văn hóa chung của Hà Nội. Hội tụ tất cả tinh hoa để tạo nên một Hà Nội tự hào. Phải chăng người gốc Hà Nội thường chọn cách sống chậm, có chút bạc nhược hưởng thụ, nên chừa đất diễn cho người tứ chiếng? Từ ngày vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La, người Hà Nội đã giao thoa giữa thanh lịch và hưởng thụ trong các tầng lớp văn hóa kinh kỳ. Dù thế nào, tất cả đều làm nên một Hà Nội Văn Hiến.

    Hà Nội luếnh loang cơn mưa thu đầy cảm xúc. Dường như thu đã. Phố tan tầm, người tỏa ra các ngả đường, mùi xăng khét nghẹn nghẹt, mùi khói vẩn trong nắng nhạt cuối ngày. Khi mẹt ổi chín, mẹt quả thị thơm của những con người mưu sinh rong ruổi khắp ngõ ngách góc phố Hà Nội là chạm thu. Hàng sấu già im lìm nuối tiếc hạ hay gốc già tiếc những quả sấu chín vàng rụng rơi. Vị sấu làm cho tôi nhớ đến bát nước rau muống mẹ dầm hôm qua. Phố tấp nập những gương mặt phố, những gương mặt người, những gương mặt cười.

     Tôi dừng chân thật lâu bên gian hàng ở phố Hàng Mã, cơ man đồ thủ công, những bộ quần áo giấy, tiền vàng mũ nón dành cho tâm linh. Những chiếc đầu lân, đầu sư tử uy nghi, đủ loại kích cỡ nhuộm màu sắc sặc sỡ như tô thêm vào bảng màu mùa thu Hà Nội. Những chiếc mặt nạ cười làm tôi liên tưởng đến sự mật thiết giữa năng lượng và tâm linh trong giáo lý nhà Phật, cũng như khoa học giải thích rất rõ nét về luật hấp dẫn của vũ trụ.

     Chẳng phải con người sống và tồn tại đều phải dùng nụ cười để đối lưu năng lượng làm đầy cho nhau đấy thôi. Bất luận sang hèn thì nụ cười là khởi nguồn câu chuyện, chỉ cần có nụ cười thật tâm, sẽ xoa dịu được nỗi thống khổ của người khác. “Cô ơi, mua giúp cho bà nốt ít cốm tươi!” – Tiếng bà cụ kéo tôi về thực tại, ánh trên làn da đồi mồi sạm nắng nụ cười thân thiện ấm lòng Tôi đã gặp nụ cười của Hà Nội dung dưỡng và bao dung bao nhiêu thế hệ con người từ khắp nơi đổ về lập nghiệp, tìm kế sinh nhai. Nụ cười từ anh xe ôm niềm nở đón khách, chị lao công hài lòng với số phận, của cậu bé đánh giày tươi rói trên hè phố cổ. Ám ảnh se lòng tôi là nụ cười của người lính già về hưu, ông điềm tĩnh rót chén trà bán cho khách thập phương và kể về một thời máu lửa cùng đồng đội .

     Gương mặt phố quen, gương mặt người lạ, ẩn vào những gương mặt tất bật lo toan cuối ngày khấp khởi về với tổ ấm gia đình. Người đàn bà gánh hàng rong ruổi mấy chục năm, nuôi chồng là thương binh và người con trai bị bại não bẩm sinh.Bạn tôi bảo, Hà Nội mỗi góc phố, mỗi con ngõ nhỏ đều là một câu chuyện, mỗi gánh hàng rong là một số phận. Với tôi Hà Nội là quán thanh xuân, gánh nỗi đời vươn tới hi vọng, Hà Nội tình người hơn từ những nụ cười .

     Hà Nội không vội được đâu. Hà Nội vẫn thế, vẫn đủng đỉnh như cột đèn giao thông xanh đỏ, lập lòe thế thái nhân tình. Những khuôn mặt cười và cả những khuôn mặt đầy lo âu mỏi mệt trong phức điệu cuộc đời. Những nhân sinh kẹt cứng đan nhau san sát, rồi lại giãn ra muôn hướng khi phố tan tầm. Nỗi đời cũng vậy, có khi bị bế tắc chính là để khai thông cho một tiền đề mới. Hà Nội và tôi vừa thân quen vừa xa lạ giữa trời thu tháng Tám. Quen là bởi tôi bỏ lại tất cả, để vội trở về, và lạ hơn khi chẳng kịp giã từ, tôi lại vội đi mang theo những nụ cười mới gặp . Phải rồi, ra đi là để chừa khoảng trống cho nỗi nhớ về Hà Nội. Tôi, người con xa xứ lâu năm mãi trở về trong mùa thu phố với nụ cười an yên.

Nguồn: Tạp chí Người Hà Nội

Hà Nội phố Thu mộng sắc vàng phai

M

uốn níu Thu thong thả vàng phai lá…
Không biết có phải mộng khi bỗng dưng tôi như lạc vào một không gian pha lê màu vàng phai của mùa lá đổ trên các con phố Hà Nội đang giữa thu. Trong cái heo may mơ hồ chạm nhẹ mơn man lên mắt, lên má, đọng lại trên môi, chợt u mê trong tích tắc, làm sao giữ được mùa, làm sao níu lại mùa, làm sao chùng chình mùa, để vẻ phiêu mị này lưu lại thêm chút xíu…

Những khoảnh khắc mà nắng như tơ lụa nõn mềm mượt dịu dàng thả xuống phố, gió nương theo trườn vào hàng cây, chạm nhẹ từng cuống lá, tạo những cơn mưa lá như những mảnh vàng phai bay lơ lửng khoảng không trong sắc lam biếc hoàng hôn mỏng sương rồi xào xạc đậu hè phố, chân bước cõi thực mà như phiêu du cõi lạc thế thiên tiên.

Màu vàng phai lá đổ phố Hà Nội thu với tôi sao ngọt đến thế, sao đẹp như mộng mà rất thật. Ai đó thường u buồn khi thấy lá vàng bay, thấy mùa trôi về phía hoài niệm ngày hôm qua, ngày năm cũ, ngày xưa lắc xưa lơ, thấy phía trước là một mùa đông lạnh lẽo, mùa của lá úa, mùa của cây khô, mùa của những lụi tàn…

     Nhưng với tôi, đó như một biến chuyển thần tiên kỳ diệu, một chiếc lá vàng rơi trong thu, là sắp có một màu xanh non tươi thay thế, để trùng trùng sinh sinh rực rỡ bất tận thế gian. Và trong chút lãng mạn phiêu ảo lạc thần, cảm giác mỗi chiếc lá vàng bay đi là một muộn phiền nhân gian được trút bỏ…

Đắm trong sắc vàng phai thu phố Hà Nội gây cho tôi nhiều mê đắm đến khắc dấu tương tư vấn vương nhất vẫn là những bước chân dạo quanh Hồ Gươm, vòng hồ có nhiều cây cổ thụ đang mùa thay lá, đẹp đến siêu thực khi ngắm những thảm lá vàng xung quanh gốc cây.Đặc biệt là khi chiều dần buông, những làn sương mỏng trong suốt màu khói nhạt choàng xuống hồ, thì ánh vàng từ cây lộc vừng, cây bằng lăng, cây mõ như từng khoảng không dát hoàng ngọc rực rỡ vào không gian hồ.

Hai cây lộc vừng “danh tiếng” mấy trăm năm, một cây có 9 nhánh mọc sát mép nước hồ đẹp kỳ ảo, một cây dáng như một gốc cổ mộc đẹp bí ẩn, một màu vàng lộng lẫy cho cả không gian hồ trở nên huyền hoặc thần thoại.

Điểm thêm là sắc vàng đậm của cây mõ, mỗi chiếc lá như một mảnh vàng, mỗi khi làn gió lướt ngang, rung lên ánh lấp lánh, rồi từ từ rời cành nhẹ nhàng rơi. Thêm nữa là mấy cây bằng lăng gần bên cầu Thê Húc, sắc lá vàng với nền đỏ của cầu, tạo thành bức tranh tuyệt mỹ của cảnh sắc Hồ Gươm mùa thu.

      Có một khoảng lặng như thời gian ngưng đọng khi Em Hà Nội đưa tôi vào công viên Thống Nhất, em nói trong công viên có mấy cây bồ hòn cổ thụ, rất hiếm ở Hà Nội, không phải ai cũng biết, lá cũng đang đổi màu vàng ngoạn mục.

Mà thật, không hiểu sao, cái cây trái quả của nó đắng- đắng quíu lưỡi tê liệt cả vị giác, mà lá vào mùa thu lại đẹp đến mê hoặc, sắc vàng đầy sang chảnh quý phái, nổi bật trong không gian công viên đầy cây xanh và hoa lá rực rỡ.Và phố Hà Nội, những ngày cuối tháng 9 đầu tháng 10, có những con đường vàng phai sắc lá thu đẹp tựa các bức tranh cổ của châu Âu như Phan Đình Phùng, Trần Phú, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Diệu…

Đẹp đến e dè từng bước chân, đẹp đến nao lòng lỗi vài nhịp thở, đẹp đến ngẩn ngơ mắt nhìn bởi những thảm lá vàng xôn xao xào xạc…, đến không còn ý thức thời gian tồn tại. Hàng cây hoa ban, hoa sưa đỏ, cây bàng, cây bằng lăng…, lá cứ vàng màu nắng thu, để rồi khi một cơn gió phóng túng lướt qua, lá bỗng đồng loạt reo khúc giai âm tận hiến sau cùng, và ào ào trút vào lòng phố, mang sắc màu ấm áp gom lại để chuẩn bị ủ ấm mùa đông.

Bâng khuâng không hề nhẹ, khi Em Hà Nội mang đến tôi một gói hoa hoàng lan vừa nhặt trong Hoàng thành Thăng Long. Ừ, Hà Nội không chỉ “mùa thu vào hoa cúc”, mang sắc vàng phai nắng thu vào từng cánh hoa, để thi nhân, tao nhân, mặc khách ngâm vịnh cả ngàn năm nay chưa thôi, mà còn vương sắc vàng ủ hương thơm vào loài hoa Hà Nội đầy tiên khí- hoa hoàng lan.Những cánh hoa mang đến tôi hương thơm ngọt linh diệu của mùa thu, để như thêm một “chùng chình” phố thu sắc vàng phai không muốn xa, dù chỉ là tạm xa, vì biết phải đợi thêm một năm nữa mới lại được đắm trong mùa thu vàng Hà Nội phố.

Như để thành ấn ký sắc vàng phai Hà Nội phố thu, để gieo vào tôi những âm hưởng, ảnh hình đầy lưu luyến đến xao xuyến, Hồ Gươm tiễn tôi bằng dải mây mang sắc vàng huyền mị đến lạ lùng, rất hiếm có, mây thấp, nhìn qua gương hồ trong vắt, tựa như một dải lụa vắt choàng qua những tàng cây là đà in bóng, cũng đang rực lên ánh vàng trong một hoàng hôn vàng ảo diệu.
Tôi đã mang về phương Nam đầy nắng và mưa mùa cả một Hà Nội phố thu mộng sắc vàng phai.

Minh họa: Quân Lê

Hà Nội đâu phải người dưng

Dẫu chưa đi mòn gót thiên hạ nhưng mỗi khi phải nhớ về kỷ niệm, ký ức, hay một sự ngọt ngào nào đó, dường như từ vô thức Hà Nội lại hiện hữu trở về. Hà Nội đâu phải người dưng?

Phố cổ Hà Nội ở đâu cũng thấy như được tạc vào tranh, những thành quách sắc màu, những ngả đường sẫm bóng, những hàng cây già nua đứng ngóng, đợi một nụ cười. Bất cứ góc nào dù mười tám đôi mươi, dù ba mươi bốn chục, dù năm mươi, sáu mươi, bảy mươi ngờ vực, Hà Nội cũng dễ dàng làm con người ta trở nên tình tứ mà thương nhau…

Lại nhớ đến Đào Phi Cường bạn tôi, một ngày không xuống phố thấy nhớ. Kiểu gì cũng phải kiếm cớ lượn lờ một vòng Hồ Gươm, phố cổ, ăn những món ăn quen, lê la một vài quán xá, hay đơn giản chỉ được ngó lơ người ta tập thể dục, người ta đi bộ quanh hồ. Hà Nội đâu phải người dưng?

Ai cũng hoài niệm về một Hà Nội xưa thanh bình, trong veo trong vắt với tiếng leng ka leng keng tàu điện mỗi sớm, rưng rức nhưng nhức một Hà Nội của những tiếng rao đêm. Nhưng Hà Nội đôi khi đáng nhớ một cách đến giản dị, như nỗi nhớ của một chàng trai thầm đem lòng yêu một cô gái kiêu kỳ.

Hà Nội là những dãy phố sang chảnh, các cửa hàng mở cửa vào lúc tám, chín giờ sáng nhưng mười một giờ vào không mua được gì có khi vẫn bị cô em bán hàng xinh tươi, thơm tha thơm thướt ngúng nguẩy chửi khéo, liếc xéo mặt nhau. Hà Nội cười…

Không có gì là hoàn hảo, Hà Nội cũng vậy. Chẳng có nơi đâu như ở xứ này người ta đi ăn phở phải xếp hàng trật tự và ngoan ngoãn không ai bảo ai trong khi có thể ở sân bay quốc tế Nội Bài người ta vẫn xếp hàng soát vé nhưng thình lình vẫn có người tạt té ngoi lên cướp chỗ đoạt ngôi… Hà Nội vui…

Hôm ở trong Nam ra Hà Nội tham dự hội Làng, nhóm Người Nhà Quê ra mắt tập thơ, tôi ghé nhà Đào Phi Cường từ sáng sớm. Tối hôm trước đã phải dặn Cường dậy sớm, vì mấy tay nhà thơ là chúa ngủ muộn. Chừng hơn sáu giờ tôi đã lẹt đẹt réo điện thoại cho Cường. Nhà Cường ở 27 hàng Khay, một cửa sổ thơ cùng dãy ban công ăm ắp mùa thu ngó nghiêng xuống mặt hồ rười rượi. Hà Nội đẹp…

Hai anh em ngồi trò chuyện ở ban công tầng ba, nhìn xuống Hồ Gươm lặng tờ dưới kia, có cảm giác tôi thấy, Hồ Gươm như đang lặng lẽ đón một người con bặt vô âm tín mười năm, hai mươi năm, mà bất chợt trở về. Hà Nội đâu phải người dưng?

Hơn bảy giờ, Cường dẫn tôi đi ăn sáng và lòng vòng cà phê ven hồ. Một hàng phở vỉa hè, gọn gẽ trong cái thời buổi Hàng Khay trở thành phố đi bộ vào những ngày cuối tuần. Chiếc ghế nhựa cao được kê làm bàn, chiếc ghế nhựa thấp được đặt để ngồi, quay mặt vào chân tường và những ống cống quanh co, chúng tôi ngồi lo so mà xì xụp phở bò. Hà Nội lạ…

Lần đầu tiên đến thành phố biển Nha Trang xinh đẹp tôi đã giật mình ngơ ngác trong một đêm chuyển mùa. Trời ạ chẳng phải riêng gì Hà Nội, chẳng phải riêng gì Bắc Kỳ ẩm ướt xa xôi, ngay tại đây và nhiều vùng đất sau này tôi đặt chân tới cũng có thứ hương hoa chết người này. Hẳn đó cũng là một loài dạ hương, mà loài dạ hương nào không liêu trai ma quái. Nhưng cứ ngẫm thử mà xem không thứ hương hoa sữa nào ở đâu thấm đẫm như mùi hoa Hà Nội. Bởi nơi đó hoa sữa ngọt ngào trong cả những tiếng rao đêm. Hà Nội ngỡ ngàng… Hà Nội xa…

Năm 18 tuổi. Tôi xa nhà. Nơi đầu tiên tôi trú ngụ trong hành trình “nhà trọ và cơm bụi” của mình là làng Phùng Khoang, phía sau là khu ký túc xá sinh viên thuộc đại học Tổng Hợp cũ, xưa như cổ tích. Ấn tượng đầu tiên và nằm lòng bền bỉ đến bây giờ chính là những tiếng rao đêm khắc khoải nhọc nhằn. Hồi đó tôi đã nghĩ:”Hà Nội khổ bỏ mẹ, đêm hôm rét mướt thế này còn rao bán những ổ bánh mỳ mưu sinh…” Hà Nội buồn…

Sau này, sau này và sau này cùng với những năm tháng lớn khôn của trải nghiệm, tôi nhận ra rằng Hà Nôi cũng mộc mạc thôi, chẳng kiêu kỳ gì, trái lại Hà Nội khiêm nhường giấu trong lòng nó bao thăng trầm lịch sử bao hào sảng Đông A, bao cơn gió sông Hồng ngàn năm thổi về đâu, thổi về đâu, mãi, mãi… Hà Nội hoài mong…

Buổi hôm ấy, sau hội Làng, mấy đứa thân thiết chúng tôi tụ vạ buổi chiều mơ mộng ở căn gác Đào Phi Cường. Trong số chúng tôi chẳng phải ai cũng là người Hà Nội, nhưng không hiểu sao không thấy mình cảm giác lẻ loi, không thấy mình là người dưng, mà trái lại chỉ thấy Hà Nội dường như đang thết đãi những đứa con xa trở về.

Một cây dương cầm chẳng làm cho mùa Thu bớt chông chênh, một cây đàn guitar chẳng làm cho Hồ Gươm dưới kia dềnh lên con sóng. Căn phòng lẳng lặng buông trôi những tiếng ca ngọt ngào. Buổi chiều ấy, buổi chiều cuối Thu, buổi chiều đã để lại trong lòng tôi những thanh âm của nhớ thương thổn thức, hình như còn là buổi chiều của Hà Nội Đâu Phải Người Dưng…

Tháng Mười ơi cơn gió lạnh về

Tháng Mười phố biển có những buổi chiều mưa dấm dứt. Đâu rồi cái ào ạt, vội vàng trong chốc lát để nắng lại bừng lên sau cơn mưa phương Nam? Phải tháng Mười về nên một chút Thu của đất Bắc cũng len lén ghé vào để gợi nhớ gợi thương trong lòng người xa xứ…

Tháng Mười xưa, Thu chín trên những thửa ruộng đã có ánh vàng ươm mùa lúa mới. Những cây hoa sữa cũng cục cựa nảy những nụ xinh chờ bung tỏa hương nồng. Tháng Mười xưa, có cô trò nhỏ mỗi ngày đạp xe dưới những hàng cây mà lòng mơ về xứ sở có mùa Thu vàng trong tranh Levintan.

Tháng Mười vẫn còn những ngày ông Mặt Trời vén mây nhìn xuống, cũng đủ làm lưng áo học trò loang chút mồ hôi. Mùa Hạ và gió Lào không còn hiện hữu, ánh nắng Thu dường như cũng dịu dàng hơn với mảnh đất miền Trung quê tôi. Những ngày có nắng, Mẹ nhắc mang đồ rét ra phơi để chuẩn bị đón những cơn gió mùa Đông Bắc tràn về. Thời điểm này những nhà vườn trồng hoa thược dược cũng bắt đầu khâu làm đất và giâm củ để kịp cho hoa nở vào dịp Tết Nguyên đán. Thời học cấp ba chả hiểu sao chúng tôi rất thích hoa thược dược, hầu như nhà nào cũng có một khoảnh đất trước sân để trồng loài hoa ấy. Sau này lớn lên đi nhiều nơi, được chiêm ngưỡng nhiều loài hoa đẹp, quý hiếm, đắt tiền, nhưng trong lòng tôi chưa bao giờ quên được khoảnh khắc vui mừng và xúc động khi cây hoa thược dược mình tự tay trồng ra những cái nụ be bé đầu tiên. Những bông hoa xinh xắn, rực rỡ sắc màu điểm tô cho ngày Tết là thành quả lao động của những cô cậu học trò Huỳnh Thúc Kháng từ những ngày tháng Mười năm trước. Để mỗi dịp tháng Mười về chúng tôi lại nhắc nhau chuẩn bị trồng hoa…

Tháng Mười, có những ngày se se lạnh, mưa rả rích, dầm dề, ngồi nhìn những giọt nước tong tả nhỏ xuống từ mái tranh, lòng tôi chợt nhói lên vì câu hát nho nhỏ của Cha “Ngoài hiên giọt mưa Thu thánh thót rơi, trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi…” Giọng hát cất lên đượm chút u hoài của người có nhiều kỷ niệm đẹp thời trai trẻ, những giấc mơ không thành vì cơm áo. Trong nhà, tôi là người hợp Cha nhất, giống ông từ cái “chất” lãng mạn đến tính kiên quyết, tự trọng đến mức cực đoan nên tôi hiểu lòng Cha. Nhà nghèo, vợ yếu, con đông nên ông làm quần quật từ sớm tinh mơ đến tối mịt. Ngoài giờ làm ở hợp tác xã là ông xoay vần với hàng trăm việc không tên miễn là có tiền lo cho cuộc sống gia đình, lo cho đàn con học hành đến nơi đến chốn để không phải nghỉ ngang lo kiếm sống như ông từ năm mười lăm tuổi. Mỗi khi nhớ về người Cha đã khuất, hình ảnh lắng vào tim tôi nhất là dáng ông gầy gò, tay cầm cuốn sách lặng lẽ, ánh mắt như trở về một thời xa vắng và giọng hát trầm buồn nho nhỏ “giọt mưa Thu…”

Tháng Mười những năm tháng sinh viên với mùa Thu Hà Nội trong trẻo và thi vị. Gió nhè nhẹ, mưa tý tách, những hàng cây như được phết lên một lớp màu bàng bạc khiến lòng người có chút man mác, bâng khuâng. Gió đưa những chiếc lá úa vàng bay đến từng góc phố. Phố thơm mùi cốm, ngan ngát hương hoa dịu dàng níu bước chân người qua. Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu, Lò Đúc… những con đường với những tán cây xanh làm say đắm biết bao tâm hồn thi sỹ, có cả những ngẩn ngơ tiếc nuối của những người phải giã từ Hà Nội ra đi để rồi giữ mãi trong lòng những mùa Thu ký ức!

Tháng Mười ơi, nắng đã nhạt rồi, ngày đã ngấp nghé triền gió lạnh. Qua những ngày giông bão, những đau đớn khôn cùng của mất mát, tang thương, dường như lòng ai cũng không thể yên bình để đón mùa Thu đẹp đẽ. Mùa về, cúc vẫn nở vàng rực rỡ, trời vẫn xanh trong, mây trắng bồng bềnh, những hàng cây mướt xanh hơn rì rào đón gió. Thu phố biển cũng đẹp vô cùng nhưng canh cánh bên lòng những xót xa cho nỗi đau thiên tai mà vô tình ta quên đi những ngày tháng mới? Tháng Mười ơi, ta muốn trở về ngày xưa, nơi xóm nghèo có một mái tranh dẫu nhỏ nhoi mà đầm ấm, nơi tiếng hát của người Cha đưa ta lạc vào miền kỷ niệm, nơi có luống hoa tay ta trồng, chăm bón để chờ ngày kết nụ, rưng rưng…

Tháng Mười ơi, trong ta vẫn còn vẹn nguyên tình yêu với mùa Thu như tháng năm tuổi học trò mơ mộng. Ta thương nhớ mùa Thu, ta viết về mùa Thu, ta mong chờ mùa Thu… dẫu chỉ để ngân lên trong lòng mình khúc hoài niêm một thời đã xa, rất đẹp, rất dịu dàng mà nhuốm chút buồn man mác.
Tháng Mười ơi gió lạnh đã về…

Tương tư ngô đồng

G iờ đây, mỗi lần đi qua con đường Nguyễn Phan Chánh, nhìn hàng phượng thẳng tắp thưa thớt lá mới trồng, tôi không khỏi nghe lòng mình trào dâng một nỗi trống trải mênh mông. Nỗi tương tư ngô đồng.

Nỗi tương tư ấy dường như cồn cào da diết hơn mỗi độ thu về. Nỗi tương tư ấy dường khắc khoải hơn khi những cơn mưa tháng chín ào ào trút xuống thành phố nhỏ, khi lũ thượng nguồn cuồn cuộn đổ về đẩy con nước duyềnh mãi lên bãi bờ.
Nỗi tương tư ấy sục sạo trong kí ức tôi mà đánh thức câu thơ kinh điển của cổ nhân tưởng như đã từ lâu ngủ vùi trong trang sách:

Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ tận tri thu
(Một chiếc lá ngô đồng rụng
Cả thiên hạ đều biết là mùa thu đến)

Biết rằng mang tin thu đâu chỉ có mỗi lá ngô đồng. Với mỗi miền, đất trời có những tín hiệu riêng để chuyển đến lời nhắn nhủ: thu đã về. Với mỗi người, giác quan được đánh thức để cảm nhận sự sinh sôi chuyển biến của tạo vật theo một cách riêng.

Với Hà Nội, với những ai trót đem lòng yêu Hà Nội, thu là cốm xanh thơm thảo dịu dàng trên đôi tay gầy của bà của mẹ, trên đôi tay thon mềm mại của cô gái thanh tân; là hoa sữa nồng nàn trong gió se mỗi khi đêm xuống; là sấu rụng thành thảm vàng rực sáng con phố Phan Đình Phùng mỗi sớm mai lên; là những gánh hàng hoa nên họa nên thơ trên mọi nẻo đường xuôi ngược, là sương chiều lãng đãng huyễn hoặc vờn nước Tây Hồ…

Với Hà Tĩnh quê tôi, thu bắt đầu bằng những ngày nắng gắt oi nồng từ xa xưa đã đi vào trong câu cửa miệng: “Nắng tháng tám, rám cùi bưởi”, rồi những cơn mưa như thác đổ trắng trời. Thu về mang theo bão gió lũ lụt dập dồn. Cánh đồng vừa gặt đã xác xơ chân rạ, bao la nước… Thu tròn đầy trong trái bưởi Phúc Trạch như ngàn vạn quả bóng vàng lúc lỉu treo trong vườn, chất chồng trên những sạp hàng hoa quả ở chợ, tràn vào mọi ngõ ngách phường phố, mang hương thơm vào tận mỗi căn nhà… Thu chín giòn trong từng trái hồng Yên Du ngọt lịm. Thu thanh mát ngọt dịu trong hương vị cam chanh bát ngát lưng đồi Vũ Quang,…

Có phải vì bao nhiêu hương sắc từ hoa, trái, cỏ, lá trải ra trước mắt ta, làm say đắm lòng ta khiến ngô đồng bị lãng quên trong miền cổ xưa xa ngái? Còn ai giật mình thảng thốt thu sang trên một sắc phai ngô đồng? Còn tôi bên sông vẩn vơ nỗi tương tư chút lá mong manh lênh đênh dòng nước. Nỗi tương tư ngô đồng.

Có những ngày tôi xuôi, tôi ngược trên cung đường Nguyễn Phan Chánh dài khoảng 2 km men theo bờ sông Cụt, bắt đầu từ chân cầu Vồng đến gặp cầu Đò Hà cuối đường Hải Thượng Lãn Ông. Con đường nay đã rải thảm êm mượt, vỉa hè thông thoáng và sạch sẽ. Ấy vậy mà lòng cứ gợn một nỗi trống không. Nỗi vắng thưa những bóng ngô đồng.

Năm ngoái, để chỉnh trang lại con đường, trong quá trình thi công người ta đã chặt bỏ đi những gốc ngô đồng cổ thụ hơn nửa thế kỉ soi bóng dòng sông, rồi thay vào đó một hàng phượng, nghe đâu là phượng tím. Cả quãng bờ sông dài chỉ còn lại chín cây ngô đồng mà có đến năm sáu cây trong số đó gốc nhỏ và tán hẹp. Tôi không biết về sau hàng phượng tím sẽ làm nên thơ nên mộng quãng bờ sông này đến thế nào, sẽ làm nao lòng bao vãn khách. Tôi cũng không tưởng tượng nổi về sau quãng sông này phượng có giăng một màu mây tím làm lòng tôi đắm say, làm vơi quên đi nỗi luyến tiếc những tán lá xanh um rợp bóng mỗi hè về và những chiếc lá vàng khẽ theo gió đáp xuống xào xạc con đường nhỏ, bồng bềnh mặt nước mùa thu.

Vẫn biết cuộc sống luôn đổi thay và cần thiết phải có những đổi thay. Vẫn biết những đổi thay vốn không chiều lòng những kẻ hay vẩn vơ hoài niệm. Nhưng nói đến cùng, tôi không ưa nổi những đổi thay theo lối tư duy “đồng phục” đang thịnh hành. Với tôi, mỗi con đường, ngõ phố, ngôi làng, miền quê… đều có những dáng nét, phong vị riêng, câu chuyện riêng của nó. Và câu chuyện của con đường Nguyễn Phan Chánh vốn được kể bằng lời của những bóng ngô đồng cổ thụ rợp mát, thâm u.

Tương tư ở xứ Ninh Kiều

Không biết cụ Nguyễn Tuân xưa đã từng hành tẩu đến xứ này để mà ca tụng thêm cái lý lẽ xê dịch. Ninh Kiều chẳng cũ, Ninh Kiều không mới, Ninh Kiều mở mắt dậy đã khiến người ta tương tư…

Tôi biết đến Tây Đô lần đầu khi vô tình nghe một bài hát vàng vọt với những nỗi buồn xanh xao nhầy nhụa thời binh lửa. Sau này đến Cần Thơ nỗi ám ảnh về một Tây Đô điêu tàn trong bài hát khói lửa ấy mới rụng rốn yên lành. Tây Đô chan chứa một vùng nước non châu thổ, Tây Đô nặng tình như vườn trái trĩu quả bên sông, Tây Đô nóng hổi như ngồi canh hỏa lò mà nướng con cá rô đồng bằng lá tre ngoài bãi. Về Cần Thơ đi mà tương tư xứ sở Ninh Kiều. Cũng lâu lắm rồi chẳng có dịp về Cần Thơ mà ngơ ngẩn mấy độ Rượu mận Sáu Tia mà bịn rịn Bánh hỏi – heo quay Phong Điền.

Nét độc đáo của Cần Thơ là mạng lưới kênh rạch chằng chịt. Kênh rạch cũng là phố, mang vẻ đẹp phong thủy cho một đô thị tiềm tàng. Khí hậu Cần Thơ dễ chịu, gần như hiếm bão. quanh năm nóng ẩm, không có mùa lạnh. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình là 27ºC. Quả là những điều lý tưởng.

Có thể nói chợ nổi là một nét văn hoá sinh hoạt rất đỗi đặc trưng mà tôi chỉ có thể tìm thấy ở miền Tây Nam Bộ nói chung và Cần Thơ nói riêng. Sau này tôi có dịp gặp một vài vùng miền tương tự như ở Thái Lan.

Dẫu vậy sức nổi và sự cám dỗ ở Cần Thơ vẫn luôn len lỏi và cuống quýt như con cá linh đâm mùa. Tôi thường đến chợ nổi Cái Răng từ sáng sớm vì đây là thời điểm họp chợ sôi nổi và đông vui nhất.

Có thể chẳng mua bán gì đâu, chỉ ngắm nhìn thôi đã thấy đủ yêu thương và ngập tràn năng lượng trong hồn. Tôi vốn không quen những khẩu vị Tây Nam Bộ nhưng đã nhiều lần trải nghiệm khác biệt, thưởng thức nhiều loại trái cây tươi ngon hay các món ăn dân dã như hủ tiếu, cháo cá lóc, canh rau đắng… trên ghe thuyền dập dềnh và cảm nhận cuộc lênh đênh sông nước thú vị như kẻ vi hành.

Cần Thơ là vậy lúc nào cũng thân tình như bằng hữu, lúc nào cũng ve vuốt yêu thương như cô em khỏa chèo buông chiều. Một mai những buồn vui dịu dàng như món canh rau đắng thưa thớt dần những cuộc đời buồn tẻ, hỏi rằng tháng ngày còn gì mà vui?

Về Cần Thơ có một nơi đã buộc chân tôi lại, nhiều khi đã định đứng dậy đi mà rồi vẫn dùng dằng ngồi lại. Đến với quán Hoa Sứ tôi được hít thở không khí trong lành của thiên nhiên. quán được thiết kế theo phong cách sân vườn. Vào Hoa Sứ có thể vừa ngồi ăn những món ăn hấp dẫn vừa ngắm nhìn dòng sông hiền hòa hay nghe tài tử đờn ca trên một vùng trùng phùng sóng nước. Và… chết lặng.

Tôi yêu món ốc nướng tiêu ở nơi này, như yêu mấy cô mặc đồ bà ba lướt đi mềm mại mơ hồ trong những căn nhà chòi mái lá. Cho dù là đi đâu thì bạn cũng chẳng bao giờ thấy khó khăn khi muốn kiếm tìm ốc nướng tiêu trong các nhà hàng hiện nay. Tuy nhiên, khi về Cần Thơ, chỉ cần bạn ăn món này một lần là đã thấy ngon, lần khác lại thấy ngon hơn. Và tất nhiên một lần khác nữa lại ngon hơn khác khác lần lần.

Từng con ốc bươu mà người miền Tây còn hay gọi là ốc bưu, mang luộc sơ. Khi có yêu cầu, bỏ nồi ốc lên bếp than, vừa nướng vừa thêm mắm pha tiêu, tỏi, bột ngọt vào… sau đó chờ trong chốc lát thì nước trong ốc sôi lên, một chút là được. Không được để nồi luộc ốc lâu quá, ốc sẽ khô, không còn ngon ngọt nữa. Những trái tiêu xanh làm cho khứu giác, vị giác của bạn phải mẫn cảm mà tiết ra thứ dịch vị nồng nàn.

Thú thực tôi không phải là người ăn phàm nhưng riêng món ốc nướng tiêu thì mình tôi cũng phải làm tới 3-4 cữ. Đến mức những lần sau trở lại chưa cần gọi nhân viên đã nhoẻn miệng ngả nước nghiêng thành: ” ốc nướng tiêu anh ha?” Và… chết lặng… Cái món ốc nướng tiêu quái quỷ này đã làm tôi bảy vía ba hồn…

Cũng không phải là hạng ăn nhậu số má gì nhưng đã có lần ngồi ở nơi đây từ xế trưa mà loáng một cái đã thấy lấp loáng ánh đèn và lạc trôi vọng cổ trên Ninh Kiều nẻo ăn đường chơi. Chẳng biết đứa nào lấy cắp đi thời gian của mình mà lơ đãng như một kẻ tương tư cổ nghiệp. Và… chết lặng…

Cuộc đời con người ta, được sống đã là vui nhưng được đi mới là hạnh phúc. Nếu còn có kiếp sau xin tạo hóa hào phóng cho tôi thêm một đôi chân để có khi nào đó mỏi mệt lại có thêm chân để dùng.

Cần Thơ, Vàm Sáng, Ba Láng, Phong Điền Anh thương em cho bạc cho tiền Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê.

Ngồi gõ máy tính lạch cạch, nhìn qua ô cửa sổ nhà mình, Vũng Tàu mưa trắng đường nhạt lối. Cái thứ mưa gió làm người ta phải trầm uất tiêu dao, mưa như đổ dồn vào trăm thương ngàn nhớ. Mưa như thọc mạch ngàn lẻ một đêm. Mưa như bộn bề lòng dạ người con gái trước khi về nhà chồng. Thầm nghĩ từ đây chạy về Ninh Kiều có là bao xa mà lâu rồi cũng chưa một lần xả láng ốc nướng tiêu rồi tương tư vọng cổ nhỉ?
Và… chết lặng…chết lặng…chết lặng….

Đăng lần đầu ngày Th6 21, 2018
Cập nhật ngày: Th10 5,2024

Mùa về trên ngói

Tôi thích ngắm những mái ngói cũ càng rêu phong. Trong tiềm thức, ngói là nơi lưu giữ những mảnh kí ức thời gian. Dù nhân tình có đổi thay, đời sống có thăng trầm bao nhiêu chăng nữa, mái ngói kia vẫn lặng im như ngàn năm vẫn thế, bình thản, và có chút gì đơn độc.

​Thích nhất là ngắm bước chân mùa in hằn trên ngói. Ngói làm nền cho nàng xuân điệu đàng lơi lả, lướt qua mái ngói cũ mèm để đi tìm ong bướm. Thật lạ, mái ngói dù thâm nâu sờn cũ, mà sao ta vẫn thấy được hơi thở của mùa xuân. Có đôi ba giọt sương sớm buông rơi trên ngói, rồi trơn trượt theo lớp rêu xanh bám chặt, rồi âm thầm thấm vào thân ngói lặng câm.

Kia, ngước nhìn lên mái ngói căn nhà nhỏ bé, thật bình yên quá đỗi, bóng đôi chú chim sâu đầu ngó nghiêng liên hồi, miệng bật thốt những thanh âm tíu tít gọi mùa về. Có lẽ, mái ngói tươi vui nhất trong những ngày hạ. Nắng giòn tan. Màu vàng sánh rót xuống tràn trề trên ngói. Ngói rộn rã, tí tách trong những hân hoan cựa mình, từng chút tế bào trong những mảnh vụn vôi vữa như tìm thấy niềm rạo rực bấy lâu chôn biến.

Cha thì thầm vào tai chúng tôi, mùa nắng nóng thế này, chỉ có nhà ngói là mát dịu. Tôi thấy đúng. Nhưng tôi thấy thương những viên ngói lặng lẽ kia, chúng như hút vào mình hết thảy nóng nực của ngày hạ, để chúng tôi say mình trong những giấc mơ mát lộng của tuổi thơ. Dường như, cha tôi hiểu được ý nghĩ đó của tôi, người gom ít tranh khô, ít rơm rạ, đan bện lại rồi hì hục tấp lên mái ngói.

Không hiểu sao, mỗi khi xa làng xa quê, nỗi nhớ trong tôi lại hướng về đôi cọng tranh khô nằm lặng lẽ trên mái ngói. Chúng nằm đó, khô gầy, hao kiệt, ngơ ngác ngắm nhìn mùa đang trôi đi. Có chút nhớ thương như đang giữ kín trong lòng, tâm tưởng hướng về phía xa, như chờ đợi mà như đã tuyệt vọng.

Rồi cuối cùng, thu cũng ghé qua. Dư âm xác xơ của mùa hạ như chút thời gian lưu cữu đọng lại hao gầy. Vườn nhà bung mở đôi bông cúc thắm. Làn gió heo may cũng rủ nhau quay về mang theo chút rùng mình se lại. Những viên ngói khẽ khàng nằm xếp lớp lên nhau, mỗi sinh thể như đuổi theo một dòng nghĩ suy riêng biệt, sâu kín. Mùa đã trầm lặng. Mái ngói lại càng lặng lẽ hơn trong những u hoài.

Giá có thể biết chúng đang nghĩ gì khi mùa lại sang, khi những bước chân thời gian lại lẳng lặng bước qua. Hèn gì những đêm trăng mùa thu, gió lộng qua khung cửa sổ, cha lại nằm vắt tay lên trán nghĩ ngợi mông lung. Người đang đếm những viên ngói chênh chao trong đáy mắt hay đang đếm bao muộn phiền, bao nỗi sầu tư chan chứa?

Rồi có những đêm không ngủ, ta cũng bắt chước cha, lặng lẽ nhìn lên mái ngói cũ càng để tìm câu trả lời cho những đêm thao thức của cha. Từng viên ngói cười ngây ngô, rồi ơ hờ chìm vào tĩnh lặng, rồi có khi đuổi bắt nhau, xô đẩy nhau, rồi bất ngờ dùng hết sức lực bình sinh, bung ra khỏi những khuôn gỗ rui, mèn, đổ ào vào bầu trời gió lộng. Ánh trăng huyễn hoặc của đêm trung thu chan đẫm cả căn phòng, thấm ướt cả chiếc gối mà ta nhầm tưởng là viên ngói. Ôi, những giấc mơ ngói của tôi!

​Mùa đông. Gió hun hút lùa qua khe cửa gỗ mong manh. Trong đêm, nằm lặng mình nghe tiếng mưa rơi, ta có cảm giác có tiếng trở mình của ngói. Chút rùng mình ớn lạnh kia càng khiến không gian yên nguội, lặn vào trong chiều sâu của những tâm tư. Biết đông sang, gió chuyển mùa, rồi những cơn mưa thể nào cũng đến, buổi chiều, cha hì hục leo lên mái ngói, cẩn thận xê dịch, vá dắm rồi lại hì hục trèo xuống, đứng dưới nhà ngước nhìn lên xem còn lỗ hổng, vết nứt nào không.
Ta không nhìn, nhưng sao tim ta vẫn nghe được những tiếng tí tách thầm thì của ngói. Những hạt bụi năm tháng dính đầy trên ngói. Màu đỏ thẫm ngày nào giờ đã bị phủ mờ bởi màu xanh của rêu và màu nâu đen của gió bụi. Đó có phải là màu của kí ức, màu của thời gian ưu phiền, như tiếng thở dài vẫn còn nén chặt trong lồng ngực.

Những đêm mưa, tiếng giọt mưa rơi trên ngói thật u buồn. Không dữ dội như trên mái tôn đồm độp, không xao xác như trên mái nhà tranh, những giọt âm thanh hiu quạnh như buông ra mà cũng như đang nén chặt vào lòng, tựa lời tự tình sâu kín dè dặt buông ra mà sợ không có nổi một kẻ tri âm. Tiếng rơi đùng đục, trầm sâu, rồi ngấm, rồi loang chảy, rồi tan biến. Ta cũng không biết mình đang đếm tiếng mưa đêm hay đang lắng nghe tiếng thì thầm của những viên ngói đơn độc giữa năm tháng sương mù…

Mùa về trên ngói, hay chính ngói là hình bóng của hồn ta trong dòng chảy thời gian dằng dặc, miên man? Ơ kìa, mùa đang về trên ngói…

Đăng lần đầu ngày Th7 14, 2021
Cập nhật ngày: Th10 5,2024

Cha và bình yên

Một buổi chiều nghiêng nắng trên dòng sông Ngàn Phố hiền hòa, một buổi chiều lao xao gió lào rát bỏng đang băng băng trên con đường cán bê tông của nông thôn đổi mới, một buổi chiều ăm ắp tiếng sáo diều trên bầu trời biếc xanh cao vời vợi. Tôi cùng cha tản bộ dọc triền sông liu riu sóng nước, bàn tay cha bỗng run rẩy nắm tay tôi ” Sao cái Hạnh không về?”.

Tôi giật mình thảng thốt, tôi nghẹn ứ bờ mi, những giọt nước mắt không thể ngưng mà bung ra mờ nhòe cả chiều heo may khô khốc. Cha không nhớ út Hạnh thật rồi khi tôi đang ở kề bên. Có muộn không khi tuổi trẻ tôi phiêu du ngược xuôi qua muôn vạn nẻo đường, những thành phố xa hoa, những bộn bề cuộc sống. Thỉnh thoảng thương, thỉnh thoảng nhớ, thỉnh thoảng gọi về chỉ để biết rằng cha mẹ vẫn mạnh khỏe bình yên.

Có muộn không khi chỉ khi tôi ẩn ức ưu phiền, tôi yếu đuối, tôi tổn thương, tôi cần chở che mới tìm về với mẹ cha, thì bàn tay cha đã run rẩy nhăn nheo như ráng chiều dùng dằng cố bấu víu ánh mặt trời hối hả trôi xuống núi.

Có muộn không khi cha già đến tuổi như đèn treo trước gió, đến tuổi lãng quên tôi thật rồi… Như mới hôm kia, như mới hôm qua, như ngay đây thôi trước mắt tôi là khoảng ấu thơ nặng nợ tình cha, những kỷ niệm là một thước phim chậm rãi, thước phim ký ức tua ngược về trên bước chân chậm rãi của cha.

Cha là một tượng đài uy dũng trong lòng chị em tôi, là đức tin của năm chị em chúng tôi, là hình mẫu lý tưởng để chị em tôi kiếm tìm điểm tựa cho cuộc đời hạnh phúc. Cha có một tuổi trẻ huy hoàng, cha có một thời hiên ngang và đáng nhớ khi tham gia giữ gìn quê hương ở Nam Bắc các chiến trường.

Chị em tôi thường nài nỉ cha kể chuyện về những năm kháng chiến, những hiểm nguy rình rập, những đêm ngày băng rừng lội suối, những lằn ranh sinh tử, những đồng đội đã chiến đấu, đã hi sinh.

Cha tôi hài hước vô cùng, tôi biết có những câu chuyện ngoài lề cha thêm thắt vào để trêu chọc mẹ như có O này xinh, O kia tóc dài, O hát hay mà cha đã từng say mê trước đó. Hay có câu chuyện cha thèm thuốc lào quá mà đi ” ăn trộm của địch” suýt bị bắn không dưới một đôi lần.
Có câu chuyện bi tráng, có câu chuyện mất mát, có câu chuyện hài hước, có câu chuyện mục đích dạy dỗ các con mà cuốn hút vô cùng, chị em tôi cứ há hốc miệng chờ nghe như bầy chim non chờ mồi mớm từ chim cha chim mẹ tảo tần kiếm về sau một ngày mỏi cánh.Trong chái bếp lách tách tiếng lửa reo ca hòa với mùi thơm khói lá bạch đàn ngọt lịm, cả nhà tôi say sưa nghe quên cái giá lạnh mùa đông và cơn khuya đang vội vã kéo về.

Nhà tôi nghèo, cha một mình cặm cụi nẹp lá tranh làm mái, trộn bùn với rơm rạ làm tường che nắng che mưa. Nhà tôi nghèo, cha lầm lũi phơi bờ vai sạm đen giữa cánh đồng hun hút gió, làm ruộng nhà mình, làm mướn cho người ta, không một ngày ngơi nghỉ, để nuôi con.

Cha làm gì cũng giỏi, những khi nông nhàn thì cha đan lát các vật dụng bằng tre, bằng mây vừa phục vụ gia đình vừa để mẹ tôi mang ra chợ tỉnh bán kiếm thêm tiền cho chúng tôi đóng học. Đặc biệt cha “sát cá” vô cùng, cứ hễ có cơn mưa giông vừa tới, là mẹ con tôi có ngay oi cá lóc quẫy đạp tưng bừng cải thiện những bữa cơm.

Nhà tôi nghèo, nhưng lúc nào cha cũng bắt chúng tôi phải học, tâm niệm của cha là năm chị em tôi học hành đỗ đạt, thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn vươn đến cuộc sống sạch sẽ phố thị, dẫu không biết bao nhiêu lần chị em tôi đòi nghỉ học ở nhà để phụ mẹ phụ cha.

Nhưng cha lại không có con trai… Ngày trước, khi tư tưởng trọng nam khinh nữ còn ăn sâu vào tiềm thức của từng người, của cả xã hội. Nhà nào cũng phải có con trai để ” nối dõi tông đường”. Nhà tôi toàn con gái, năm đứa con gái.

Cha chịu nhiều dẻ bĩu của người nhà, sự rẻ khinh của chòm xóm. Mỗi lần có cỗ thì chắc chắn cha phải ngồi mâm dưới cùng với các bà các mẹ. Mỗi lần bàn bạc công chuyện của anh em thì chắc chắn cha tôi sẽ phải ” ra rìa”. Nhưng cha mặc kệ miệng đời, mặc kệ sau lưng những tiếng xì xào rằng ” đời ông ta như cái chổi tre cùn mằn vì con gái”, rằng “nhà ông không có con trai thì hẳn sẽ mất nòi “…

Cha mặc kệ tất cả những ánh nhìn, những xoi mói rẻ khinh. Cha cứ thế bình thản, yêu thương và luôn là bờ vai vững chãi cho gia đình nhỏ của mình.
Hồi đó ở xóm tôi cũng có vài ba nhà chỉ toàn con gái như nhà tôi, nhưng khác với chị em tôi được cha mẹ yêu thương, được đến trường đầy đủ thì những người bạn của chúng tôi lại không được đi học, đơn giản vì cha của họ bảo ” con gái rồi cũng lấy chồng, học để làm gì”. Cả gia đình chúng tôi như những chú chim con líu ríu yếu mềm trong đôi cánh cha tôi.

Nhưng cha cũng cực kỳ nghiêm khắc, thỉnh thoảng năm chị em tôi lại lằn roi vì nghịch ngợm, vì ham chơi. Tôi còn nhớ như in đó là năm học lớp 12, vì tôi học ôn về trễ mà không báo với gia đình, mới bước đến cửa ngõ tôi đã thấy đốm thuốc lập lòe chờ đợi của cha

Lần đầu tiên cha đánh tôi, tôi khóc, cha cũng khóc theo. Nhưng có lẽ nhờ tính nghiêm khắc kỷ luật ấy, mà chị em chúng tôi luôn ý thức học hỏi, trưởng thành, làm người, như cha bảo ” học không thành danh cũng phải thành nhân”.

Chúng tôi khôn lớn thì cha cũng già đi. Chúng tôi như những chú chim ra ràng dang đôi cánh rời xa quê hương thì đôi cánh cha tôi cũng ngày một chậm chạp hơn, run rẩy hơn. Duy chỉ có tâm tư của cha luôn dõi theo từng bước chân chập chững quê mùa nơi thị thành nhộn nhịp của năm đứa con gái yêu thương.

Cha vẫn chiếc áo lổ đổ ngả màu mỏng tang vì mồ hôi và nắng gió, tay cày tay cuốc trên cánh đồng trĩu bông chờ đợi các con về. Nhiều lần tôi bảo cha già yếu rồi đừng làm ruộng nữa nhưng cha lờ đi, tôi biết cha làm ruộng không phải để có cái ăn như ngày xưa, mà để khuây khỏa, để đỡ nhớ con mà thôi.

Thời gian như một chiếc chạm tay vào khoảng mênh mông phía trước là bầu trời, tưởng nắm được ánh dương lại chỉ là hư vô ảo ảnh, chỉ có những vết chân chim là thật giữa cuộc đời. Những mục đích liên tiếp, những tham vọng tuổi trẻ đã khiến chị em tôi cuốn vào vòng xoay phố thành không biết điểm dừng, không biết điểm thoát ra.

Cho đến một ngày mẹ gọi điện về nhà, rằng cha nhớ các con cha gọi tên mỗi tối. Cha gọi chị cả dậy sớm đi gặt kẻo nắng lên, cha gọi chị hai mang gầu đi tát nước cho ruộng cao khô hạn, cha gọi chị ba đi đổi công với hàng xóm khi đã rộn rã vào mùa, cha gọi chị tư dậy nấu khoai lang cho bữa sáng cả nhà, cha gọi út mau đi chăn trâu trên những cánh đồng xa, nhớ mang sách đặng học bài con nhé.

Tôi ào về quê trong một đêm lặng lẽ, chuyến tàu xình xịch băng qua những kỷ niệm thiếu thời. Tôi nợ mẹ nợ cha trọn vẹn những nụ cười, nợ ánh mắt vời vợi đợi chờ ngày về đứa con yêu xa xứ, nợ bàn tay run rẩy của cha trong những chiều vàng ruộm một mình chống gậy ra đầu ngõ, cô đơn…

Tôi nợ cha già những lời hứa chưa một lần trọn vẹn, là sống vui vẻ bình yên không bươn chải quá nhiều. Những bước chân khập khiễng liêu xiêu, bàn tay run run nắm chặt tay tôi hẳn cha đang sợ mình vấp ngã. Cha đã già, còn tôi vô tâm quá. Biết còn được mấy lần dắt tay cha vững vàng như ngày thơ trẻ tôi được cha cõng trên lưng.

Tôi hỏi ” cha không còn nhớ con nữa sao?”, cha gõ đầu ” vớ vẩn nào, là út Hạnh học lớp hai, nhiệm vụ chăn trâu, tối lùa vịt vào chuồng chứ ai nữa”. Vâng, cha không quên, chỉ là cha đang nhớ những ngày tháng xa xưa gần bốn mươi năm khi con trẻ quây quần, cha đang trở về sống trong ký ức thân thương.

Hai cha con dạo bước trên triền đê với ánh nắng vãi vương. Bóng cha vẫn cao, bóng tôi vẫn thấp, chỉ là cha đã phải chống gậy, và tay tôi đang giữ chặt tay cha dìu những bước xế chiều.
Dẫu đã muộn màng, dẫu đã để thời gian hoang phí biết bao nhiêu, tôi dặn lòng từ bây giờ sẽ chuộc lỗi vô tâm khi để mẹ cha cô đơn trong ngôi nhà đủ đầy tiện nghi mà vắng những ríu ran thuở nhỏ. Tôi sẽ cùng cha trở về những ngày tháng bình yên tròn đầy của ký ức. Dẫu có thể ngày mai vào một chiều lưa thưa nắng, cha bỗng quên tôi…

Hoa vườn mẹ

M ẹ tôi có phong thái, nếp sống rất “tư sản” kiểu nhân vật bà Hiền trong Một người Hà Nội của Nguyễn Khải, nhưng lại có tay nuôi trồng rất “thuần nông”! Trong kí ức của tôi, hình như ở bất kì nơi nào, chỉ cần một mảnh sân nhỏ xíu phía sau ngôi nhà ở đường Mạc Thị Bưởi (Nam Định), vài mét ban công ở tầng ba khu tập thể Thành Công (Hà Nội) hay mảnh vườn rộng ở khu tập thể giáo viên nơi sơ tán…, mẹ đều có thể tận dụng nuôi trồng một thứ cây, con gì đó.

Mẹ nuôi từ gà, ngan đến thỏ, lợn, con nào con nấy đều đua nhau ăn, thi nhau lớn. Mẹ tận dụng thức ăn thừa, đong thêm ngô, mua cám bánh, bã đậu, mỗi ngày nấu một nồi cám, cho cả đàn ngan gà, lợn cùng ăn chung… Đàn gà của mẹ chen chúc trong cái chuồng gỗ góc sân; đàn ngan thả rông ở sân; đôi lợn thì mẹ cải tiến cái nhà tắm thành chuồng lợn, dội nước suốt ngày sạch sẽ! Chỉ riêng đàn thỏ là cầu kì hơn, giống thỏ thích nhất là ăn lá râm bụt, nhưng dù lá gì cũng phải khô, lá ướt là thỏ đau bụng, bỏ ăn ngay.

Mỗi đợt thỏ lớn, đủ cân xuất chuồng, mẹ dành một con để lại cho nhà, còn bán cho các cô bác hàng xóm đã đặt trước.

Nhớ mãi một lần, khi cả nhà sơ tán theo trường bố mẹ ở xã Mỹ Phúc, còn độ vài ngày là bán thỏ thì một buổi sáng, mấy chị em tôi đang ngủ bỗng giật mình tỉnh dậy vì tiếng kêu thảng thốt của mẹ: Thỏ mất hết rồi, các con ơi! Ba chị em tôi mắt nhắm mắt mở, chạy lao ra sân, đứng sững sờ nhìn cái chuồng trống không, gần chục con thỏ trắng muốt đã không cánh mà bay.

Chẳng biết nói gì với mẹ, cũng chẳng biết chửi kiểu mất gà, ba chị em mắt đỏ hoe nghe mẹ buồn bã trả lời các bác hàng xóm sang hỏi thăm, rồi tôi dắt hai em lặng lẽ đi vào nhà. Hôm ấy tôi cứ nghĩ: Nếu như kẻ trộm vào nhà lấy cái đài hay cái xe đạp, chắc chúng tôi sẽ không đau xót đến thế, vì giá trị vật chất có thể ngang nhau, nhưng với một đàn thỏ đã gắn bó với chúng tôi gần một năm trời, từ khi chúng còn nhỏ xíu đến nay đã đứng chật chuồng, chị em tôi hàng ngày chăm sóc, quét dọn, đi hái lá râm bụt, thậm chí khi lá ướt còn ngồi cẩn thận lau khô từng chiếc lá trước khi cho vào chuồng thỏ, hàng ngày ngắm nhìn đàn thỏ lớn dần, đã hình dung tới những món đồ, những bộ quần áo mẹ hứa sẽ mua khi bán được thỏ…, sự mất mát ấy đau xót hơn rất nhiều so với mất cái xe, cái đài, bởi hôm ấy, chúng tôi đã mất những con thỏ trắng muốt xinh đẹp, mất đi cảm giác thân thiết gắn bó gần một năm trời, mất đi bao nhiêu hi vọng, đợi chờ sau khi bán thỏ…!

Mẹ cũng rất thích chăm bón cho những luống rau trong khu vườn nơi sơ tán, những chậu cây trên ban công, hay một mầm cây nhỏ bé trồng ở góc sân nhỏ xíu trước nhà… Các đồng nghiệp của mẹ ở nơi sơ tán thường ngạc nhiên khi một cô giáo người thành phố, phong thái rất đài các, ăn mặc rất chỉn chu như mẹ lại rất giỏi trồng cây, những luống rau mẹ trồng non xanh mơn mởn, những chậu hoa mẹ chăm luôn rực rỡ ngát hương.

Có mấy mét vuông trước cửa nhà, mẹ trồng một cây móng rồng và một cây hoa ngọc lan, mỗi lần về thăm mẹ, lại thấy cây lớn nhanh như thổi, ngoảnh đi ngoảnh lại vài năm, vòm lá với những bông hoa lan trắng muốt đã vờn ngang cửa sổ tầng hai; cây móng rồng cũng xòa quyện vào vòm ngọc lan, thi nhau nở hoa thơm ngọt cả không gian.

Rồi mẹ lên Hà Nội ở với em gái tôi mấy năm, trông con cho em đi làm, mẹ chiết một cành móng rồng mang lên trồng vào cái chậu sành màu gan gà, đặt trên ban công tầng 3 khu tập thể Thành Công. Với sự chăm sóc “mát tay” của mẹ, chỉ sau vài năm, chậu cây móng rồng lại sum suê tươi tốt.

Năm 2010, sau khi mẹ mất, tôi mang chậu cây về nhà trồng, chỉ lạ là cả chục năm trời không thấy ra hoa, tôi vẫn giữ cây vì đó là cây của mẹ, và còn vì vòm lá luôn xanh tươi tới dịu lòng! Tới năm 2020, tôi sửa nhà, cây cao quá nên phải chặt gần hết cả cây, chỉ còn trơ lại một đoạn thân chừng 30 cm giữa chậu đất khô trắng. Chậu đất với cái gốc cây trụi ấy bị thợ quăng quật ở giữa nền nhà ngổn ngang xi măng cát sỏi, gần nửa năm trời không ai tưới tắm, vì bận, cũng vì nghĩ cây chẳng thể sống, chỉ là bận quá chưa ai mang bỏ đi; thi thoảng tôi về nhà nhìn thấy đầu thuốc còn đỏ lửa, bã chè còn nghi ngút khói nóng đổ trên mặt đất khô trắng của chậu cây, thoáng xót lòng, rồi cũng lại quên… Tới khi nhà sửa xong, kê dọn lại đồ đạc, chậu đất với đoạn gốc trơ trụi vẫn được đặt tạm trên tum, lạc lõng cạnh những chậu hoa, chậu cây “tân gia”… Khi tưới cây, còn chút nước, nhiều khi “tiện thể” dốc nốt vào chậu đất ấy.

Thế rồi, sau vài mùa xuân, sự bao dung của trời đất hay sức sống của cây đã đem tới sự hồi sinh và phát triển kì diệu từ đoạn thân trơ trụi ngày nào, lớp lớp điệp trùng cành lá mướt mát xanh tươi lại vươn dài ra ngoài khung sắt sân tầng 5. Ngắm chậu cây móng rồng, thấy ngạc nhiên và thương xót vô vàn cho màu xanh mang bản năng sinh tồn bất diệt của tự nhiên, bất chấp sự dập vùi, thờ ơ, tàn nhẫn của con người. Tôi không còn chờ hoa nữa mà mặc nhiên nghĩ sẽ chăm sóc cây móng rồng từ vườn mẹ, dù chỉ để ngắm màu xanh dịu lòng của vòm lá.

Cho đến hôm qua, khi trận bão Yagi (bão số 3 của năm 2024) vào Việt nam, tràn qua Hà Nội, vòm cây sấu bên cửa sổ nhà tôi oằn vặn trong bão, giàn hoa giấy run rẩy, những cành móng rồng xanh thẫm cũng vật vã trong gió mưa…; lựa khi gió hơi ngớt, tôi lên tum quay đoạn clip ngắn, lưu lại hình ảnh “mảnh vườn” nhỏ bé yếu mềm của tôi tự mình chống chọi với bão tố. Sáng nay, bão tan, trời Hà Nội xanh yên như chưa hề có bão Yagi, tôi lên vườn và bàng hoàng ngắm nhìn chậu cây của mẹ: hai bông hoa móng rồng, mỗi bông sáu cánh dày, cứng cáp, màu vàng nhạt như nắng thu, vừa e ấp vừa kiêu hãnh nép sau vòm lá xanh vẫn còn ướt nước mưa đêm. Tôi ứa nước mắt, thầm gọi: Mẹ ơi!

Quà của biển

A nh bảo, mùa này bàng vuông vừa kết nhụy, anh không có trái bàng nào để tặng em…

Trong ba lô người về từ đảo thường có những món quà quen thuộc của biển.Những cụm san hô mảnh như một nhánh cây, trắng ngà ngọc tưởng chừng như trong veo, những con ốc biển đủ hình thù, kích cỡ, những viên đá nhỏ được sóng và thời gian mài giũa, trên đó ghi nắn nót dòng chữ theo phong cách thư pháp. Những trái bàng vuông như búp tay con trẻ… đẹp giản dị vô cùng.

Nhưng trong ba lô của em từ đảo về còn có những món quà không giống ai. Anh có biết không, nó chiếm một góc rất lớn cả theo nghĩa không gian, cả theo nghĩa tâm hồn. Nó hiện hữu và không hiện hữu, hữu hình và vô hình. Nó làm em nhung nhớ, day dứt khôn nguôi.

Anh có biết không. Ở đảo Phan Vinh, em lẩn mẩn đi ngắm từng gốc cây, ngọn cỏ. Cây ở Phan Vinh xanh ngút ngát. Những cây tra, bàng vuông, phong ba, bão táp… phiến lá nào cũng xanh, dường như cây nghĩ mình chỉ có màu xanh nên cứ xanh thẫm lên, xanh khắc khoải yêu thương khắc khoải đợi chờ.

Phan Vinh có nhiều cây, những gốc tra lâu năm, cành to nhưng uốn lượn cầu kỳ, từng tán lá điệu đà đan vào nhau tỏa bóng mát. Dưới bóng mát ấy, em gặp những người lính hải quân đang ngồi giải lao sau giờ huấn luyện. Em đã ngồi cùng họ, uống nước trà đặc chát môi, đặc như xắt ra thành miếng, như cầm nắm được. Chén trà đưa lên nặng trĩu vị đất liền, thơm chao chát cả trời chiều.

Nhấp một ngụm trà, thấy cả miền Thái Nguyên cả miền Mộc Châu cả miền Trung du… thấy vị đất liền đắng đót nhớ thương. Em đã hát cho những người lính nghe những bài hát về mẹ, về Hà Nội. Chao ôi, ánh mắt người trai Hà Nội chiều hôm ấy, vời vợi nỗi niềm.

Quê nhà tôi ơi, xứ Đoài xa vắng. Khói chiều mênh mông, sông Đà buông nắng. Nhớ thương làng quê, lũy tre bờ đê. Ước mơ trở về, nghe mẹ hiền ru, bên thềm đá cũ...Trần Tiến

Những người lính đảo ấy, họ có gì mang hết ra thết người ở đất liền, nhiều người ghé lại, gốc tra hôm ấy trở thành điểm hội ngộ. Không còn ghế thì ngồi bệt xuống nền xi măng, có sao đâu, những người lính cũng ngồi thế mà, đôi bàn tay có thể lấm, bộ quần áo có thể lấm, chỉ có trái tim không lấm láp, trái tim yêu quê hương, yêu Tổ quốc, yêu biển đảo một tình yêu vẹn nguyên không sạn gượng.

Có một chiếc ghế hình thù khác lạ, các chiến sĩ nhường cho em ngồi. Chiếc ghế ấy tự tay các anh làm, nhựa cứng được hơ nóng, uốn dẻo và hàn lại, ở giữa khoảng rỗng được ken một tấm gỗ để tăng sức chống. Ghế ở đây làm không chỉ để ngồi, mà để thử làm cho vui, thể hiện sức sáng tạo của bộ óc và sự khéo léo của đôi bàn tay. Em đã thốt lên: “Chiếc ghế thần thánh này, em thích nó”. “Em thích thật ư”? “Thật, cho em nhé”. Niềm vui chợt sáng lên trong “ánh mắt Phan Vinh”. Em từ đất liền ra, nơi đó có bao nhiêu chiếc ghế được thiết kế nghệ thuật, điệu đà, cớ gì em thích chiếc ghế mộc mạc này. Nhưng em thích thật, em nghĩ trong đó có sự kiên nhẫn, có niềm vui, có dấu vết đôi bàn tay chai sạn, có vị muối, vị mồ hôi.

Món quà gửi theo xuồng trở về tàu cho em là chiếc ghế, được bọc kỹ, và anh biết không, trong túi còn 2 hộp sữa Elsua nước. Ở đây không có hoa hồng, không có quà lưu niệm, không có thiệp và không những lời có cánh, chỉ có sự quan tâm chân thật đến thật thà. Hai hộp sữa ấy em còn giữ nguyên không dám bóc, không nỡ bóc. Nó theo em về đất liền, đặt ngay ngắn ở Góc Trường Sa, em vẫn ngắm nghía nó những lúc một mình, vẫn rơi nước mắt vì món quà ấy.

Hành trang về đất liền của em còn có cả cỏ hoa và những chiếc lá khô. Cỏ dại và hoa dại, từ đảo Trường Sa Lớn, em chơi trò đám cưới với tụi trẻ con. Chúng nó vần em ra bãi cỏ, hái hoa và cỏ dại cài lên mái tóc em làm cô dâu. “Không cần chú rể, chúng mình chơi trò đám cưới nhé”. “Cô đưa tóc đây con cài hoa”, “Cô nhớ hoa của cô dâu cô không được ném, con buồn”. Em đã cài nó vào một ngăn cạnh của ba lô, mang nó lên máy bay trong cái nhìn lạ lẫm của nhiều người, rồi đưa về đất liền. Anh biết không, nó vẫn còn vẹn nguyên trong chiếc túi kỷ niệm của em.

Hành trang về đất liền của em có tệp lá tra, lá bàng khô. Chúng mình đã đi dọc buổi chiều, anh bảo, mùa này bàng vuông vừa kết nụ, anh không có trái bàng nào để tặng em. Nhưng anh ạ, ai cũng muốn hái hoa, ai cũng muốn mang quả về thì còn đâu màu xanh cho đảo, còn đâu hoa trái cho người sau đến ngắm. Em không tiếc nuối đâu. Nếu đúng vụ bàng vuông trái đã đầy, em cũng sẽ không hái. Kể cả những trái khô đã rụng, trái để cho nẩy mầm, cây mọc cho mùa sau. Em nhặt những chiếc lá khô bay xạc xào dưới gốc cây. Những chiếc lá bàng vuông, dài hiền hòa như con thuyền nhỏ, đậm lên một thứ ánh vàng như hoàng hôn trước bão; những chiếc lá tra điệu đà uốn lượn, như hình lá trầu khuyết, vàng nhạt trăng non.

Anh đừng thắc mắc. Em mang quà ra Trường Sa chưa đủ, em không muốn lấy gì từ nơi đó về đất liền nếu nó còn có ích cho Trường Sa, nhất định không.

Em đi, không chỉ chăm chăm với những bài báo trong chuyến công tác. Có những lúc chỉ đi, rất chậm, ngắm nhìn như đóng dấu vào nỗi nhớ hình hài đảo nhỏ và những gương mặt dấu yêu. Anh bảo đảo thường mang hình giọt nước. Giọt nước mưa hay nước mắt hả anh? Hay là giọt sữa từ bầu vú mẹ. Cho nhớ thương, cho ngọt ngào, cho day dứt. Giọt sữa chắt ra từ cơ thể mẹ, là thân thể Tổ quốc nơi sóng gió đấy anh.

Hành trang của em là những cái ôm không muốn rời. Mùi mồ hôi mặn mòi, không nước hoa, không mỹ phẩm, cái mùi khiến người ta muốn vùi mặt vào mà không gợn lên chút hoài nghi.
Trường Sa mùa này đang bão phải không anh? Những cơn bão chồng lên bão. Em nhận được một cuộc điện thoại qua sóng vệ tinh. Người lính Hải quân nói với em rằng đang cùng đồng đội phòng bão tới. “Bão thiên tai là chuyện bình thường, bão nhân tai thì cũng không đáng sợ đâu em. Cứ bình tâm nhé. Các anh sẽ bình yên trở về”.

Và ngày nào em cũng gọi điện thoại cho người lính ấy, rồi gửi một tin nhắn, gửi đi lời chúc bình yên. Những cuộc điện thoại không có sóng phản hồi, những tin nhắn cũng không hồi đáp. Dù rất vững tâm nhưng lòng vẫn xa xót mong chờ. Hàng tháng trời lênh đênh đầu sóng ngọn gió, giữ đảo, giữ biển, đối diện với hiểm nguy, gian manh rình rập, không mong chờ sao được. Khi nào điện thoại có tín hiệu bắt sóng, khi nào tin nhắn có phản hồi, tức là các anh đã hoàn thành nhiệm vụ trở về. Họ sẽ về phải không anh. Biển này là của ta, đảo này là của ta!

Giờ thì em đã hiểu, quà của biển không chỉ là san hô, ốc biển, bàng vuông. Quà của biển là ân tình, anh ạ. Với em bây giờ, món quà lớn nhất là sự bình yên của các anh – tín hiệu bình yên gửi về từ biển đảo.