26 C
Hanoi
Chủ Nhật, Tháng 10 19, 2025

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...

Hát những giai điệu yêu thương

T huở còn thơ dại, tôi là...
Trang chủ Blog Trang 4

Tôi về nằm dưới giấc trưa

Tôi chạy như bay trên đồng cỏ mướt xanh. Gót chân trần chạm vào lụa là cỏ biếc. Chưa bao giờ êm ái gọi tên ngọt mềm đến thế. Mặc cậu bạn chạy theo sau mướt mải. Tôi quay lại. Khanh khách cười. Rồi lại băng đi. Cỏ thênh thang gọi mời. Chưa bao giờ, chưa bao giờ, tôi thấy chân trời xanh thế…

     Tôi chạy như bay trên triền sông. Nắng lấp loáng màu cổ tích. Đò cập bến. Cậu bạn kịp tới nơi. Chúng tôi bước lên. Mênh mang nắng trưa. Cậu bạn nhìn tôi mỉm cười. Nụ cười say như sóng. Nụ cười hiền như sông. Chúng tôi lặng yên bên nhau. Xa xa, bãi mía nương dâu thầm thĩ xốn xang gì. Sông cứ thế rộng dài. Miên man…

     Tôi chạy như bay về ngõ nhỏ. Con ngõ thần tiên nở nụ cười hiền, ôm tôi ru vỗ. Tụi bạn ríu ran. Ô ăn quan, đánh đáo, đuổi bắt, xòe hoa, trốn tìm…Bao nhiêu trò chơi, bao nhiêu nói cười. Những đứa trẻ trốn giấc trưa, ném tuổi thơ mình vào nắng gió. Ngõ nghiêng mình đồng lõa bao dung.

     Tôi đến bên hàng rào ô rô. Cậu bạn ngắt lá, đưa ống tre lên thổi. Bong bóng xanh, trắng, tím, hồng…rối rít bay lên. Tôi ngước nhìn mê mải. Ngỡ chạm phải giấc mơ trong vắt, ngọc ngà. Cậu bạn bảo: “ Ước đi, thế nào cũng thành hiện thực”. Tôi nhắm mắt lại. Cuống cuồng. Sợ bong bóng tan đi. Gió dùng dằng giữ hộ. Tôi mơ…

Tôi bước vào vườn xưa. Đây rồi cây hoàng lan của mẹ. Cây dịu dàng như nắng, bung biêng những sợi hoa vàng. Hoa nồng trên tay cha ngắt cài lên tóc mẹ buổi mai nào. Đây rồi cây xà cừ sừng sững, vương quốc của bao nhiêu loài chim. Chúng dệt vào tuổi thơ tôi bản tình ca xanh biếc. Và đây, ngôi nhà bằng lá chuối, anh chị em tôi gửi trọn tiếng cười, gửi ánh mắt long lanh khát thèm, ánh mắt dạt dào niềm vui khi nhà mới “xây” xong. Chúng tôi nằm vào trong khẽ hát.

     Tôi đến bên bờ ao nhà mình. Cây sung già hiền lành nghiêng nghiêng soi bóng. Anh trai tôi thoăn thoắt trèo lên, trẩy xuống những chùm sung xanh mỡ. Muối trắng đổ ra lá khoai. Chúng tôi ngồi ăn rất đỗi ngon lành. Mặt ao phẳng lặng, sóng khẽ lăn tăn. Những cọng lục bình dập dềnh khoe bông hoa tím biếc ngẩn ngơ. Giàn bí cạnh cầu ao của mẹ đã xanh lên tự bao giờ. Những đốm nắng vàng ươm ú tim trong vòm ngọc bích. Những quả bí xinh xinh nhú ra. “Một, hai, ba, bốn…”. Tôi khẽ đếm lòng vui như hát. Trên lá khoai, chú chẫu chàng mắt tròn xoe ngơ ngác, xấu hổ nhảy đi mặc chúng tôi dáo dác kiếm tìm. Mấy chị chuồn ớt cạnh đó giật mình, hoảng hốt. Chúng tôi cười khúc khích. Tiếng cười vỡ vào gió, lan vào sóng, chảy tràn trên mặt ao yên tĩnh.
Tôi bước xuống cầu ao. Chiếc cầu tre lắt lẻo giấu gót mẹ tôi những chiều chạng vạng, những sớm tinh sương, những trưa mòn bóng nắng. Tôi ngồi xuống cây cầu thả chân trần khỏa nước. Nghe mát lạnh chạy đi râm ran trong từng sợi tế bào.

     Tôi chạy vào căn nhà xưa. Mẹ ngồi bên bậc thềm, hong tóc dưới hiên. Mái tóc chạm gót chân từng khiến cha tôi mê đắm cứ xanh lên từng sợi. Nắng lẩn vào trong tóc lung linh. Cha ngồi bên chải khẽ. Bềnh bồng mây bay. Nghe hương bồ kết, hương bưởi, hương nhu, hương chanh, hương sả, hương thương quện hòa vào gió. Tôi tan đi, chưa thấy ở đâu bình yên thế. Ngay bên bậc cửa nhà mình.

     Ấy là tôi đang mơ.
Tôi ngồi xuống chạm tay vào hiên đêm thanh tĩnh. Cả nhà quây quần bên nhau ngóng trăng lên. Cha kể chuyện ngày xưa. Mẹ gãi rôm cho lũ con đang rinh rích nói cười. Cha đưa tay chỉ cho chúng tôi kia là Bắc Đẩu, Sao Hôm, kia là chùm Đại hùng tinh, ông Thần Nông có phép, chiếc Gầu Sòng, Con Vịt theo sau; kia là dải Ngân hà. Bao nhiêu bí mật của vũ trụ xa xôi mà tôi khát khao khám phá cứ mở ra thăm thẳm khôn cùng.

     Trăng lên, giấu mặt sau chòm cau bẽn lẽn, thẹn thùng. Hương trăng, hương cau tình tự, dệt thơ trước hiên nhà. Trăng văn vắt, lung linh trong những tối thứ bảy cả nhà lắng nghe Câu chuyện cảnh giác, Sân khấu truyền thanh. Và mênh mang, vời vợi là lúc chúng tôi lên giường đi ngủ, trăng theo vào những câu chuyện đêm khuya, những Tiếng thơ tha thiết bổng trầm…
Trăng nghiêng. Ấy là khi cô bé tôi thao thức ghé nhìn qua song cửa, tò mò. Đêm sao mà sâu thế. Trăng sao mà thanh quá!

Tôi mơ…
Tôi bé lại, lăn vào lòng mẹ. Mẹ âu yếm ấp ôm. Tôi miên man nghe yêu thương lan đi trong từng hơi thở mẹ. Mẹ vuốt tóc tôi – những sợi tóc mai bết dính bao nhiêu mồ hôi buổi trưa hè bêu nắng. Ngón tay mẹ nhẹ nhàng khẽ luồn vào từng sợi, hong khô bằng nụ cười hiền. Trái đất như ngừng quay. Tôi nhắm mắt chìm đi trong giấc trưa nào…

     Tôi nằm xuống cánh võng giữa trưa hè đổ lửa. Võng tơ đay mòn cũ, cọ nhẵn mòn chiếc chấn song thưa. Cọt kẹt võng đưa, đưa tôi vào giấc ngủ. Tay cha sải mạnh chiếc quạt mo cau, gom từ đâu về cơ man nào gió. Tôi chìm vào giấc sâu còn nghe vang vọng những câu Kiều. “Ơi à!À ơi,…”
Ấy là tôi đang mơ.

     Tôi về nằm lại ngôi nhà ngói trầm nâu của thầy u sau bao trốn chạy mệt nhoài. Bận rộn, muộn phiền, phố thị cuốn đi. Tôi bơ vơ lạc loài giữa bao nhiêu điều xa xôi không biết. Tôi cỗi cằn, hoang vu giữa bao điều không tha thiết mênh mang.

     Ừ nhỉ, bao lâu rồi tôi sợ hãi khi nghĩ sẽ đặt chân về chốn ấy? Bao lần tôi khoác ba lô lên rồi lại quay đầu? Tôi cứ trốn chạy thế đến khi nào? Tôi trốn chạy tôi đến bao giờ?
Để rồi hôm nay, tôi dũng cảm trở về. Tôi về đây – về ngồi lại dưới hiên nhà ngập nắng. Rong rêu thời gian, rong rêu cuộc người. Thầy u tôi đã hóa mây trời…Tôi đã dũng cảm về đây để nhặt lại mình, để tự nhủ lòng đừng chạy, chạy mệt nhoài và trốn sẽ thêm đau.
Nằm trên chiếc giường thân thuộc của thầy u, giữa căn nhà rêu phong trầm tích những u hoài, tôi chìm đi trong giấc mơ trưa. Chiếc nôi bình yên nhè nhẹ vỗ ru…
“Ơi à, à ơi, ơi à, à ơi…”

Như vị muối chung lòng biển mặn

N hiều lần, tôi thử đứng trước những cánh đồng muối để tìm cho được vẻ đẹp lấp lánh trong những câu chuyện về đời muối. Những hạt muối đi vào đời sống, nếp nghĩ của bao người và chứa đựng cả một đại dương yêu thương.

     Và, những hạt muối ấy tựa mạch nguồn chảy mãi như tiếng lòng của nhà thơ Lưu Quang Vũ:

Như vị muối chung lòng biển mặn
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời.

Mỗi dịp giỗ chạp, tôi lại thấy hình ảnh quen thuộc của đĩa muối nhỏ trên mâm cúng gia tiên. Và có lẽ, hình ảnh ấy từ lâu cũng trở nên thân quen trong mỗi nếp nhà của người dân đất Việt. Điều này không quá ngạc nhiên vì những hạt muối lấp lánh ấy là bao câu chuyện cuộc đời. Hạt muối tuy nhỏ bé nhưng lại có vị trí quan trọng trong đời sống.

     Hạt muối đâu chỉ là “muối mặn tình đời” như ta vẫn nghĩ đến. Nhắc đến muối, người ta hồi nhớ đến buổi sơ khai con người đã biết đến tinh thể rắn được cô đọng kết tinh để ứng dụng trong đời sống. Từ câu tục ngữ thấm đẫm bài học làm người “Cá không ăn muối cá ươn” đến lời ý nhị, hàm chứa ân tình “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” (Nguyễn Khoa Điềm) cho ta thấy, cuộc đời không phải lúc nào cũng ngọt ngào, đôi khi chúng ta phải nếm trải những nỗi buồn, thất bại và khó khăn.

Dưới ánh nắng chói chang của mặt trời, kết tinh từ những giọt nước biển mặn mòi, mỗi hạt muối là một phần của biển cả, mang trong mình vị mặn của nước mắt, của mồ hôi và sự biến thiên của thời gian. Khi chạm vào đầu lưỡi, hạt muối thức tỉnh giác quan, làm ta nhận ra sự hiện diện của những vị đắng cay, ngọt bùi trong cuộc sống.

     Ngoài công dụng trong thực phẩm, thì trước đó, con người đã biết dùng muối để “bảo hiểm” cho cuộc sống vốn nhiều rủi ro. Tôi vẫn thường nghe má kể, người làng vẫn thường truyền nhau kinh nghiệm đi đâu xa nhất định có hạt muối kề bên. Khi thấy mệt và khát nước thì ngậm một hạt muối trong miệng. Nghe có vẻ phi lý vì hạt muối mặn mòi làm sao có thể đánh tan cơn khát. Nhưng thực ra, nếu ra mồ hôi nhiều, cơ thể bị mất muối thì hạt muối sẽ là vị cứu tinh trên đường xa vạn nẻo.

Vậy đó, hạt muối đã theo bao lớp người trên dặm dài xa ngái, khi tứ xứ làm ăn, khi chuyển dời đời sống, muối theo họ trên hành trình vạn nẻo.
     Ở quê tôi, nhà nào cũng có một bịch muối được treo ngay trong bếp. Ngoài sự tiện lợi khi nấu nướng, muối được bảo quản trong bếp sẽ không bị chảy nước. Người làng tôi vẫn giữ thói quen cho đến cuối đời, là mỗi khi nhìn xuống mâm cơm lúc nào cũng phải có một đĩa muối trắng thì mới bưng chén cơm mà ăn được. Thời kỳ gian khổ, có bát cơm nóng rắc một chút muối đã là bữa cơm đáng giá rồi. Má tôi vẫn thường nhắc: Vị chua vị chát thì có thể thiếu được, chứ thiếu vị mặn coi như mất nửa phần đời.

Cũng vì thỏa mãn sự hiếu kỳ về hạt muối, hôm lang thang trong Thư viện tỉnh, tôi đã tìm đọc tài liệu về sự giao thương hạt muối. Mới hay, hạt muối hiện diện từ rất lâu, không chỉ ở đồng bằng mà còn ngược ngàn gắn kết với cộng đồng người Tây Nguyên. Mới biết rằng, một thời, ông cha ta băng rừng, dấu chân len lỏi và không mệt mỏi đã gùi sản vật từ miền núi xuống miền biển để cõng về những gùi muối nặng ân tình.

     “Cung đường muối” cũng từ đó mà xuất hiện. Vượt núi, men theo các đỉnh đèo, di chuyển xuống đồng bằng mà giao thương hàng hóa trong những cuộc mua bán theo phương thức vật đổi vật. Hay khi đọc lại tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” của nhà văn Nguyên Ngọc, tôi đã rơi nước mắt khi ông kể về những cơn “đói muối” trên đất Tây Nguyên xưa.

     Mới đây trên một nền tảng số, chúng ta nhận được sự quan tâm, chia sẻ, bàn luận từ câu chuyện của giáo sư người Pháp gốc Việt Phan Văn Trường, khi ông đề cập về chủ đề sự tự tin của người Việt. Tôi thấy thú vị và bổ ích. Giáo sư Phan Văn Trường cho rằng: Người Việt từ chối tủ lạnh “văn minh” để được “hạnh phúc”.

     Khoan bàn đến sự đúng-sai hay cơ sở khoa học với những luồng ý kiến khác nhau mà tôi chỉ muốn nói đến sự thú vị qua câu chuyện của ông, khi những món đồ tươi sống cổ truyền mang ngay từ chợ vào bếp mà không sợ tẩm ướp hóa chất bảo quản. Điều này cũng đúng đó chứ. Đúng hơn nếu ta ghi nhận vai trò của hạt muối trong việc ướp, bảo quản thực phẩm.

     Câu chuyện của Giáo sư Phan Văn Trường không phải một đoạn cắt cúp lan truyền trên mạng mà là câu chuyện của những gì rất tự nhiên, của bao thứ vốn dĩ bình dị, thân quen như hạt muối.
Má tôi, một người đàn bà chất quê thấm đẫm vẫn giữ thói quen ăn uống cũ, nồi canh chỉ cần nêm hạt muối cũng đã ngon, chứ không nêm gia vị được đóng gói bày bán la liệt tại các chợ, siêu thị. Dường như từ buổi sơ khai, mẹ thiên nhiên đã tính toán, lo liệu cho con người hết thảy. Nên cơn cớ gì con người cứ mãi kiếm tìm những điều mà chưa chắc đời họ đã cần đến nó.
Nhắc đến nhà văn Nguyễn Tuân, ta nhớ đến chỉ có một bữa cơm muối “để đời” như ông từng ăn và mô tả thì khó bắt gặp vô cùng. Ngay cả khi các đầu bếp nổi danh của phương Tây lên truyền hình nấu ăn, họ cũng luôn dùng 2 thứ gia vị chính là muối và hạt tiêu.

       Nhiều lần, tôi thử đứng trước những cánh đồng muối để tìm cho được vẻ đẹp lấp lánh trong những câu chuyện về đời muối. Khi đến làng Gò Cỏ (phường Phổ Thạnh, thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi), tôi vô cùng ngạc nhiên khi biết nơi người dân làm muối trên các trảng đá cổ và cũng là nơi phát tích nghề muối có niên đại khoảng 2.000 năm.

     Tôi đã ngắm nhìn những hạt muối thật lâu, những hạt muối trắng nhưng nhức thứ ánh sáng diệu kỳ trong ký ức tuổi thơ tôi. Những hạt muối đi vào đời sống, nếp nghĩ của bao người và chứa đựng cả một đại dương yêu thương.Và, những hạt muối ấy như mạch nguồn chảy mãi như tiếng lòng của nhà thơ Lưu Quang Vũ:

Như vị muối chung lòng biển mặn
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời.

Cỏ lau

Sông Lô, sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u. Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu Sông Lô, sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu nước sông Lô xưa...Văn Cao

     Tôi thích ngắm bình hoa sen rực rỡ, gợi nhớ hương trà ướp sen thơm ngát trong gian nhà cổ của bà ngoại giữa thành Sơn êm đềm, gian nhà có nền gạch đỏ trầm mặc, có bể nước mưa mát lạnh, dài như nỗi nhớ về tuổi thơ; tôi thích cảm giác bước vào gian phòng có hương thơm thanh quí của bông hồng nhung như thầm thì lời xao xuyến; tôi cũng thích cả trời hoa dã quỳ lộng lẫy trong nắng và gió cao nguyên bên những người bạn nồng hậu ngọt ngào… Tôi thích rất nhiều loài hoa, chỉ đơn giản vì hoa luôn gợi cái đẹp, luôn là cái đẹp…

     Nhưng có một loài hoa tôi không phải thích, không phải ham, không phải hiếu kì… mà là yêu, là thương, là nhớ nhung đắm đuối, là ngậm ngùi, xót xa…, loài hoa ấy, thậm chí nhiều khi nhắc tới, nó bị cắt bỏ hẳn chữ “hoa” vốn là biểu trưng cho cái đẹp, chỉ để lại phần nhỏ nhoi, bình thường, tầm thường, phần hay gắn với thân phận hèn mọn bên mọi cái kiêu sa, gắn với cái nhạt nhoà bên mọi sự lộng lẫy – đó là hoa lau, đó là cỏ lau! Chẳng thế, người xưa đã phân định ranh giới sang hèn “Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi” (Nguyễn Trãi) khi nói về cái mong manh của kiêu sa, sang trọng để được chiều chuộng, nâng niu trong sự tương phản với sức sống mạnh mẽ của cái tầm thường hèn kém dưới chân người để thờ ơ, hờ hững…!

     Tôi đã yêu tới xao xác những bờ lau hiu hắt âm u từ lời ca đẹp não nùng của Văn Cao.
Tôi cũng yêu xót xa những hồn lau cô đơn “nẻo bến bờ” trong câu thơ Quang Dũng bởi hình dung đầy nhớ nhung về con đường hành quân trập trùng đèo dốc của miền Tây…

     Tôi yêu “cỏ lau” từ truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Minh Châu bởi sự cộng hưởng nao lòng khi hình dung một vùng bạt ngàn cỏ lau, bạt ngàn những hình người đàn bà hoá đá, trong tiếng hát và tiếng đàn ghi ta vẳng trong gió Lào cuốn lá lau bập bùng:

“Điều đó rồi xảy ra, em biết và em biết
Một mai anh chiến thắng trở về
Đôi vai gầy và đôi mắt sâu
Tóc đã điểm bạc, làn da nay sạm màu sương gió
Bởi chiến tranh, bởi chiến tranh đâu phải trò đùa”

Tôi càng yêu lau vì “Phận hoa bên lề” của một người thơ tài hoa đi qua cuộc đời như một cánh lau mềm trắng xót lòng…!Tôi yêu lau bởi vẻ đẹp buồn của nó có khả năng làm run rẩy kể cả gỗ đá!

     Tôi không hiểu sao nhiều người cho rằng hoa lau đơn điệu – đơn điệu được sao với bao nhiêu hình trạng trong mỗi thời điểm, mỗi góc nhìn, khi là những cụm bông mềm xốp, nhẹ như mây khiến muốn ấp iu bên má; khi như những chiếc lược cong cong với li ti hạt nhỏ để khát khao gài lên mái tóc; khi nở bung trong nắng để người bước tới bất giác mỉm cười; khi lả lướt yếu mềm trong gió để người qua rồi còn tần ngần thương mến…

     Tôi cũng không hiểu sao nhiều người cho rằng sắc lau buồn tẻ! Buồn tẻ được sao khi màu của lau là sắc trắng của mây, sắc vàng của nắng, sắc tím của hoàng hôn, sắc xao xác của gió… tinh khiết trắng, ấm áp vàng, tím như thương nhớ, nhạt nhoà như hư không… những sắc màu buồn, rất buồn, nhưng tuyệt nhiên không buồn tẻ. Buồn khiến người ta muốn khóc, vì yêu thương, buồn tẻ khiến người ta chán, vì nhạt nhẽo!

     Tôi càng không hiểu vì sao nhiều người cho rằng phận lau hèn mọn, sự hèn mọn của thân phận thường hay bị gắn với sự hèn mọn trong cốt cách! Hèn mọn được sao khi hồn lau thanh sạch giữa mây ngàn gió núi, khi lau được tưới tắm trong khí trời và sương núi trong lành; hèn mọn được sao khi lau bình thản giữa hoang vu, không đua chen, không bấy bớt, lau lả lướt mà cứng cỏi, lau hiu hắt mà an nhiên, cái từ “an nhiên” theo nét nghĩa đẹp nhất của sự đứng ngoài mọi bon chen, hỉ nộ, sân si…, tuyệt không mang nghĩa hèn kém của sự ích kỉ, thờ ơ, vô cảm…

     Vô cảm sao được khi những bông lau tạo bởi muôn hạt nhỏ li ti, tựa cái tế vi mềm mại, khả dĩ đón nhận trọn vẹn tất cả mọi xao động của đất trời, dù chỉ một chút mơ hồ của gió, để run rẩy, chao đưa, để nũng nịu, duyên dáng… Sự nhạy cảm của người có thể nặng nhẹ, giấu che, còn của lau, đó là cái nhạy cảm vĩnh hằng cùng gió vĩnh hằng, hiện hữu trong cả tiếng lau xào xạc, trong cả bóng lau xao xác, sự nhạy cảm làm nên hồn cốt, làm nên vẻ đẹp, làm nên cái nhoà nhạt mong manh rung động muôn đời để lau thầm thì muôn đời với hư không, để người ngơ ngẩn không nỡ bước qua những bờ lau xao xác đung đưa…

     Nhưng tôi hiểu vì sao người ta nói lau cô đơn! Lau luôn đưa tới cảm giác cô đơn bởi lau thường chọn cư ngụ ở những nơi tiêu sơ, hoang vắng – là triền núi heo hút chỉ có những ngọn gió buồn, là bờ sông quạnh quẽ chỉ miên man lặng thầm tiếng sóng, là ven đường nhỏ chỉ hắt hiu những cỏ hoa mà đời đã mặc định gắn thêm vào tên một chữ “dại” – cái dại khờ của vô danh, lặng lẽ, của chấp nhận, nhạt nhoà… Lau đưa tới cảm giác cô đơn có lẽ còn bởi dáng vẻ của chính nó – người xưa nói “Cây cao tìm sự cô đơn trên trời / Ngọn cỏ tìm bạn bè dưới đất” ( Tagore) – lau không thuộc hàng tứ quí như tùng như bách, cao quý, sang trọng ngay trong cái cô đơn thăm thẳm giữa bầu trời, nhưng lau cũng không la đà ngả mình tìm bạn bè với hoa cỏ xòa lan dưới đất…

     Lau vượt thoát khỏi cỏ hoa mà cũng không bận tâm vươn níu theo tùng bách, lau một mình giữa lưng chừng cái chông chênh chới với của mình, cái lưng chừng vừa cô đơn vừa kiêu hãnh, cái lưng chừng giữa cỏ thấp mây cao, cái lưng chừng trong cõi riêng khiêm nhường mà cao ngạo của lau…

     Nhưng ngẫm lại, hình như cô đơn chỉ là cảm giác con người mang đến cho lau, mặc định cho lau, chủ yếu để tìm kiếm chốn nương náu đồng cảm sẻ chia cho nỗi cô đơn của chính mình – có mấy ai đang vui vầy ấm áp mà tìm đến với lau? người ta tìm tới lau mong nhìn thấy sự hiện hữu cái cô đơn không thể bạch hoá của lòng mình. Lau như tách trà độc ẩm, như chén rượu Lý Bạch xưa ” Cử bôi yêu minh nguyệt/ Đối ảnh thành tam nhân” (Nâng chén mời trăng sáng/ Mình, với bóng, là ba) – những phương cách con người tự ru mình, tự thương mình, tự an ủi mình…, lấy lau, lấy trà, lấy rượu làm niềm tri âm, tri kỉ! Xét cho cùng, hoa lá cỏ cây, mây ngàn gió núi, buồn hay vui, thảy tự lòng người khi nhìn ngắm!

     Còn lau, dù luôn tìm tới lau để nghiền ngẫm nỗi cô đơn, nhưng tôi vẫn ngậm ngùi hiểu rằng lau không hề cô đơn. Hãy xem sức mạnh của lau, hình hài của lau, vẻ đẹp và hồn cốt của lau đều do gió – gió là tri âm, tri kỉ, gió là bạn bè, thân hữu, là lý do tồn tại của lau. Lau cứng cỏi và yếu mềm trong gió, tiếng lau xào xạc, hình lau xao xác, sắc lau nhạt nhoà, lau lả mình trong gió, lau vút cao trong gió, gió khiến lau có linh hồn, gió xui lau thầm thì tâm sự… Khi bên mình luôn hiện hữu một tri âm tri kỉ như vậy, lau liệu có cô đơn? Ngắm sắc lau, hình lau, nhiều khi tôi ngỡ ngàng nhận ra vẻ đẹp tới nghẹn ngào của tình tri kỉ: gió vô hình nên lau cũng như muốn tiết chế sắc màu để sắc lau mang màu hư không tựa gió; gió trìu mến ấp ôm nên lau cũng như muốn lả mình thành gió, cả bờ lau, thân lau cho tới từng bông lau đều miên man theo hình gió, vươn một chiều đắm đuối yếu mềm như muốn tan trong gió… – người ta luôn nhận ra gió qua hình lau, cũng như đời luôn nhận ra ta từ tri kỉ, tất nhiên nếu trên đời thật sự tồn tại một khái niệm “tri kỉ” – nhưng giả thiết ấy thực ra luôn mong manh hơn hình lau, nhạt nhoà hơn sắc lau, mơ hồ như sương, như gió…

     Ngẫm vậy mới nhận ra vì sao xa cách phồn hoa mà lau vẫn an nhiên, vẫn bình thản – lau không cô đơn tội nghiệp như con người, sống giữa đông đúc ồn ào mà vẫn thấy heo hút trống trải, lau đã có suốt đời lau một tấm tình tri kỉ, vô hình mà thuỷ chung, vô vi mà trìu mến, hoang hoải mà ngọt ngào…

Yêu hoa lau, cỏ lau từ lâu lắm, cũng muốn lắm một lần bày tỏ niềm yêu, nhưng lại nghĩ tới Hoàng Hạc Lâu và câu thơ họ Lý:”Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc/ Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu” (Trước mắt có cảnh không nói được/ Thôi Hiệu đề thơ ở trên đầu).

     Nhưng lau mùa đông cứ xao xác gọi vời tự cõi hư không, cứ thao thức một niềm nhung nhớ, cứ miên man lời ca “Sông Lô, sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u…”, chẳng thể không đáp gọi…!

Ghi chú: * “Phận hoa bên lề” – Chu Văn Sơn. Minh họa: Alfred Grupstra
Hà Nội, 18/12/2019

Nụ cười Hà Nội

P hải lâu lắm, tôi mới có dịp trở về Hà Nội vào mùa thu tháng tám. Hà Nội đón tôi bằng nắng cuối hạ sang mùa. Mẹ bảo, mấy nay dịu trời rồi con ạ. Chớm heo may nhưng cũng đủ rộ lên sắc thu .
                           Tôi không sinh ra ở Hà Nội, nhưng người thân chọn Hà Nội để an sinh và lập nghiệp nên điểm đến đầu tiên của tôi bao giờ cũng là Hà Nội mỗi khi có dịp về thăm quê hương. Người ta ví Hà Nội như cô gái tân thời, thay đổi từng ngày, quả thật không sai.

Xuyên suốt các ngả đường từ sân bay vào nội thành, những tòa cao ốc, san sát mọc lên như nấm, trước sự ngỡ ngàng của người lữ khách phương xa. Chỉ sau ba năm tôi quay trở lại, Hà Nội mở rộng hơn, những làn đường vành đai thoáng và dài như đại lộ, từ đó tiếp nối trung chuyển thêm bao nhiêu làn đường đi các ngả. Em trai tôi vừa lái xe, vừa say sưa kể về Hà Nội thay da đổi thịt một cách đầy hãnh tiến. Nào là những dự án của các tập đoàn lớn đang đầu tư vào Hà Nội, nào là doanh nghiệp trong nước đấu thầu, v.v… Thi thoảng cậu đưa tay chỉ dẫn về phía những khu đô thị mới. Những hạ tầng cơ sở hiện đại khép kín trong một quần thể, đang được quy hoạch trong nay mai. Hà Nội phủ đường vành đai bằng những hàng cây xanh mướt.

Em trai tôi nói còn có con đường được trồng toàn hoa ban Tây Bắc, mùa hoa ban bung nở khiến cho phố phường Hà Nội mang hơi thở mới, đẹp lạ thường. Bầu trời xanh dịu mát, hay tiết trời vào thu lâng lâng, dìu ánh mắt tôi lướt qua các khu phố huyên náo sầm uất hai bên đường. Hà Nội đã thực sự hồi sinh sau dịch bệnh Covid -19.

    Tôi trở về lâng lâng tiếng sóng sông Hồng hát, ướm hồn trong chiều gió nổi, hong sắc màu phố thị. Chiều tàn ánh dương, những đường phố mới lộng lẫy ánh đèn, rộn rã đêm trăng Rằm tháng tám. Tôi yêu cơn mưa đến bất chợt, ẩn thêm nét trầm mặc khảm lên 36 phố phường Hà Nội. Màu thời gian như nhắc nhở rằng kim cổ giao thoa là tiếp nối nhân văn để chúng ta trân quý. Tôi đã chạm vào màu thời gian mỗi khi về lại. Lần nào cũng vậy, tôi trèo lên tầng trên cùng, nơi bày những quyển sách quý từ thập niên 90, 80. Vô tình tôi biết tiệm sách cũ này, sau những lần lang thang cùng đám bạn. Người bán hàng là đồng niên, chúng tôi cùng sở thích yêu tiểu thuyết và văn học nước ngoài.

    Thế hệ chúng tôi vùi thời gian vào chữ trên báo giấy và làm bạn với những quyển sách hay, đâu có nhiều sự giải trí công nghệ hiện đại như tụi trẻ bây giờ. Anh kể, mẹ anh là người Hà Nội gốc, cũng là người yêu chữ và truyền cảm hứng cho anh. Bà là giáo viên dạy văn, luôn gìn giữ, trân quý những quyển sách cũ, anh tiếp quản và duy trì hiệu sách này như nỗi nhớ về người mẹ quá cố. Người Hà Nội có nét văn hóa tinh tế, biết cảm nhận hưởng thụ cuộc sống từ nghệ thuật đến ẩm thực. Và những con người từ mọi miền đổ về cũng đều lẫn vào nền văn hóa chung của Hà Nội. Hội tụ tất cả tinh hoa để tạo nên một Hà Nội tự hào. Phải chăng người gốc Hà Nội thường chọn cách sống chậm, có chút bạc nhược hưởng thụ, nên chừa đất diễn cho người tứ chiếng? Từ ngày vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La, người Hà Nội đã giao thoa giữa thanh lịch và hưởng thụ trong các tầng lớp văn hóa kinh kỳ. Dù thế nào, tất cả đều làm nên một Hà Nội Văn Hiến.

    Hà Nội luếnh loang cơn mưa thu đầy cảm xúc. Dường như thu đã. Phố tan tầm, người tỏa ra các ngả đường, mùi xăng khét nghẹn nghẹt, mùi khói vẩn trong nắng nhạt cuối ngày. Khi mẹt ổi chín, mẹt quả thị thơm của những con người mưu sinh rong ruổi khắp ngõ ngách góc phố Hà Nội là chạm thu. Hàng sấu già im lìm nuối tiếc hạ hay gốc già tiếc những quả sấu chín vàng rụng rơi. Vị sấu làm cho tôi nhớ đến bát nước rau muống mẹ dầm hôm qua. Phố tấp nập những gương mặt phố, những gương mặt người, những gương mặt cười.

     Tôi dừng chân thật lâu bên gian hàng ở phố Hàng Mã, cơ man đồ thủ công, những bộ quần áo giấy, tiền vàng mũ nón dành cho tâm linh. Những chiếc đầu lân, đầu sư tử uy nghi, đủ loại kích cỡ nhuộm màu sắc sặc sỡ như tô thêm vào bảng màu mùa thu Hà Nội. Những chiếc mặt nạ cười làm tôi liên tưởng đến sự mật thiết giữa năng lượng và tâm linh trong giáo lý nhà Phật, cũng như khoa học giải thích rất rõ nét về luật hấp dẫn của vũ trụ.

     Chẳng phải con người sống và tồn tại đều phải dùng nụ cười để đối lưu năng lượng làm đầy cho nhau đấy thôi. Bất luận sang hèn thì nụ cười là khởi nguồn câu chuyện, chỉ cần có nụ cười thật tâm, sẽ xoa dịu được nỗi thống khổ của người khác. “Cô ơi, mua giúp cho bà nốt ít cốm tươi!” – Tiếng bà cụ kéo tôi về thực tại, ánh trên làn da đồi mồi sạm nắng nụ cười thân thiện ấm lòng Tôi đã gặp nụ cười của Hà Nội dung dưỡng và bao dung bao nhiêu thế hệ con người từ khắp nơi đổ về lập nghiệp, tìm kế sinh nhai. Nụ cười từ anh xe ôm niềm nở đón khách, chị lao công hài lòng với số phận, của cậu bé đánh giày tươi rói trên hè phố cổ. Ám ảnh se lòng tôi là nụ cười của người lính già về hưu, ông điềm tĩnh rót chén trà bán cho khách thập phương và kể về một thời máu lửa cùng đồng đội .

     Gương mặt phố quen, gương mặt người lạ, ẩn vào những gương mặt tất bật lo toan cuối ngày khấp khởi về với tổ ấm gia đình. Người đàn bà gánh hàng rong ruổi mấy chục năm, nuôi chồng là thương binh và người con trai bị bại não bẩm sinh.Bạn tôi bảo, Hà Nội mỗi góc phố, mỗi con ngõ nhỏ đều là một câu chuyện, mỗi gánh hàng rong là một số phận. Với tôi Hà Nội là quán thanh xuân, gánh nỗi đời vươn tới hi vọng, Hà Nội tình người hơn từ những nụ cười .

     Hà Nội không vội được đâu. Hà Nội vẫn thế, vẫn đủng đỉnh như cột đèn giao thông xanh đỏ, lập lòe thế thái nhân tình. Những khuôn mặt cười và cả những khuôn mặt đầy lo âu mỏi mệt trong phức điệu cuộc đời. Những nhân sinh kẹt cứng đan nhau san sát, rồi lại giãn ra muôn hướng khi phố tan tầm. Nỗi đời cũng vậy, có khi bị bế tắc chính là để khai thông cho một tiền đề mới. Hà Nội và tôi vừa thân quen vừa xa lạ giữa trời thu tháng Tám. Quen là bởi tôi bỏ lại tất cả, để vội trở về, và lạ hơn khi chẳng kịp giã từ, tôi lại vội đi mang theo những nụ cười mới gặp . Phải rồi, ra đi là để chừa khoảng trống cho nỗi nhớ về Hà Nội. Tôi, người con xa xứ lâu năm mãi trở về trong mùa thu phố với nụ cười an yên.

Nguồn: Tạp chí Người Hà Nội

Hà Nội phố Thu mộng sắc vàng phai

M

uốn níu Thu thong thả vàng phai lá…
Không biết có phải mộng khi bỗng dưng tôi như lạc vào một không gian pha lê màu vàng phai của mùa lá đổ trên các con phố Hà Nội đang giữa thu. Trong cái heo may mơ hồ chạm nhẹ mơn man lên mắt, lên má, đọng lại trên môi, chợt u mê trong tích tắc, làm sao giữ được mùa, làm sao níu lại mùa, làm sao chùng chình mùa, để vẻ phiêu mị này lưu lại thêm chút xíu…

Những khoảnh khắc mà nắng như tơ lụa nõn mềm mượt dịu dàng thả xuống phố, gió nương theo trườn vào hàng cây, chạm nhẹ từng cuống lá, tạo những cơn mưa lá như những mảnh vàng phai bay lơ lửng khoảng không trong sắc lam biếc hoàng hôn mỏng sương rồi xào xạc đậu hè phố, chân bước cõi thực mà như phiêu du cõi lạc thế thiên tiên.

Màu vàng phai lá đổ phố Hà Nội thu với tôi sao ngọt đến thế, sao đẹp như mộng mà rất thật. Ai đó thường u buồn khi thấy lá vàng bay, thấy mùa trôi về phía hoài niệm ngày hôm qua, ngày năm cũ, ngày xưa lắc xưa lơ, thấy phía trước là một mùa đông lạnh lẽo, mùa của lá úa, mùa của cây khô, mùa của những lụi tàn…

     Nhưng với tôi, đó như một biến chuyển thần tiên kỳ diệu, một chiếc lá vàng rơi trong thu, là sắp có một màu xanh non tươi thay thế, để trùng trùng sinh sinh rực rỡ bất tận thế gian. Và trong chút lãng mạn phiêu ảo lạc thần, cảm giác mỗi chiếc lá vàng bay đi là một muộn phiền nhân gian được trút bỏ…

Đắm trong sắc vàng phai thu phố Hà Nội gây cho tôi nhiều mê đắm đến khắc dấu tương tư vấn vương nhất vẫn là những bước chân dạo quanh Hồ Gươm, vòng hồ có nhiều cây cổ thụ đang mùa thay lá, đẹp đến siêu thực khi ngắm những thảm lá vàng xung quanh gốc cây.Đặc biệt là khi chiều dần buông, những làn sương mỏng trong suốt màu khói nhạt choàng xuống hồ, thì ánh vàng từ cây lộc vừng, cây bằng lăng, cây mõ như từng khoảng không dát hoàng ngọc rực rỡ vào không gian hồ.

Hai cây lộc vừng “danh tiếng” mấy trăm năm, một cây có 9 nhánh mọc sát mép nước hồ đẹp kỳ ảo, một cây dáng như một gốc cổ mộc đẹp bí ẩn, một màu vàng lộng lẫy cho cả không gian hồ trở nên huyền hoặc thần thoại.

Điểm thêm là sắc vàng đậm của cây mõ, mỗi chiếc lá như một mảnh vàng, mỗi khi làn gió lướt ngang, rung lên ánh lấp lánh, rồi từ từ rời cành nhẹ nhàng rơi. Thêm nữa là mấy cây bằng lăng gần bên cầu Thê Húc, sắc lá vàng với nền đỏ của cầu, tạo thành bức tranh tuyệt mỹ của cảnh sắc Hồ Gươm mùa thu.

      Có một khoảng lặng như thời gian ngưng đọng khi Em Hà Nội đưa tôi vào công viên Thống Nhất, em nói trong công viên có mấy cây bồ hòn cổ thụ, rất hiếm ở Hà Nội, không phải ai cũng biết, lá cũng đang đổi màu vàng ngoạn mục.

Mà thật, không hiểu sao, cái cây trái quả của nó đắng- đắng quíu lưỡi tê liệt cả vị giác, mà lá vào mùa thu lại đẹp đến mê hoặc, sắc vàng đầy sang chảnh quý phái, nổi bật trong không gian công viên đầy cây xanh và hoa lá rực rỡ.Và phố Hà Nội, những ngày cuối tháng 9 đầu tháng 10, có những con đường vàng phai sắc lá thu đẹp tựa các bức tranh cổ của châu Âu như Phan Đình Phùng, Trần Phú, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Diệu…

Đẹp đến e dè từng bước chân, đẹp đến nao lòng lỗi vài nhịp thở, đẹp đến ngẩn ngơ mắt nhìn bởi những thảm lá vàng xôn xao xào xạc…, đến không còn ý thức thời gian tồn tại. Hàng cây hoa ban, hoa sưa đỏ, cây bàng, cây bằng lăng…, lá cứ vàng màu nắng thu, để rồi khi một cơn gió phóng túng lướt qua, lá bỗng đồng loạt reo khúc giai âm tận hiến sau cùng, và ào ào trút vào lòng phố, mang sắc màu ấm áp gom lại để chuẩn bị ủ ấm mùa đông.

Bâng khuâng không hề nhẹ, khi Em Hà Nội mang đến tôi một gói hoa hoàng lan vừa nhặt trong Hoàng thành Thăng Long. Ừ, Hà Nội không chỉ “mùa thu vào hoa cúc”, mang sắc vàng phai nắng thu vào từng cánh hoa, để thi nhân, tao nhân, mặc khách ngâm vịnh cả ngàn năm nay chưa thôi, mà còn vương sắc vàng ủ hương thơm vào loài hoa Hà Nội đầy tiên khí- hoa hoàng lan.Những cánh hoa mang đến tôi hương thơm ngọt linh diệu của mùa thu, để như thêm một “chùng chình” phố thu sắc vàng phai không muốn xa, dù chỉ là tạm xa, vì biết phải đợi thêm một năm nữa mới lại được đắm trong mùa thu vàng Hà Nội phố.

Như để thành ấn ký sắc vàng phai Hà Nội phố thu, để gieo vào tôi những âm hưởng, ảnh hình đầy lưu luyến đến xao xuyến, Hồ Gươm tiễn tôi bằng dải mây mang sắc vàng huyền mị đến lạ lùng, rất hiếm có, mây thấp, nhìn qua gương hồ trong vắt, tựa như một dải lụa vắt choàng qua những tàng cây là đà in bóng, cũng đang rực lên ánh vàng trong một hoàng hôn vàng ảo diệu.
Tôi đã mang về phương Nam đầy nắng và mưa mùa cả một Hà Nội phố thu mộng sắc vàng phai.

Minh họa: Quân Lê

Hà Nội đâu phải người dưng

Dẫu chưa đi mòn gót thiên hạ nhưng mỗi khi phải nhớ về kỷ niệm, ký ức, hay một sự ngọt ngào nào đó, dường như từ vô thức Hà Nội lại hiện hữu trở về. Hà Nội đâu phải người dưng?

Phố cổ Hà Nội ở đâu cũng thấy như được tạc vào tranh, những thành quách sắc màu, những ngả đường sẫm bóng, những hàng cây già nua đứng ngóng, đợi một nụ cười. Bất cứ góc nào dù mười tám đôi mươi, dù ba mươi bốn chục, dù năm mươi, sáu mươi, bảy mươi ngờ vực, Hà Nội cũng dễ dàng làm con người ta trở nên tình tứ mà thương nhau…

Lại nhớ đến Đào Phi Cường bạn tôi, một ngày không xuống phố thấy nhớ. Kiểu gì cũng phải kiếm cớ lượn lờ một vòng Hồ Gươm, phố cổ, ăn những món ăn quen, lê la một vài quán xá, hay đơn giản chỉ được ngó lơ người ta tập thể dục, người ta đi bộ quanh hồ. Hà Nội đâu phải người dưng?

Ai cũng hoài niệm về một Hà Nội xưa thanh bình, trong veo trong vắt với tiếng leng ka leng keng tàu điện mỗi sớm, rưng rức nhưng nhức một Hà Nội của những tiếng rao đêm. Nhưng Hà Nội đôi khi đáng nhớ một cách đến giản dị, như nỗi nhớ của một chàng trai thầm đem lòng yêu một cô gái kiêu kỳ.

Hà Nội là những dãy phố sang chảnh, các cửa hàng mở cửa vào lúc tám, chín giờ sáng nhưng mười một giờ vào không mua được gì có khi vẫn bị cô em bán hàng xinh tươi, thơm tha thơm thướt ngúng nguẩy chửi khéo, liếc xéo mặt nhau. Hà Nội cười…

Không có gì là hoàn hảo, Hà Nội cũng vậy. Chẳng có nơi đâu như ở xứ này người ta đi ăn phở phải xếp hàng trật tự và ngoan ngoãn không ai bảo ai trong khi có thể ở sân bay quốc tế Nội Bài người ta vẫn xếp hàng soát vé nhưng thình lình vẫn có người tạt té ngoi lên cướp chỗ đoạt ngôi… Hà Nội vui…

Hôm ở trong Nam ra Hà Nội tham dự hội Làng, nhóm Người Nhà Quê ra mắt tập thơ, tôi ghé nhà Đào Phi Cường từ sáng sớm. Tối hôm trước đã phải dặn Cường dậy sớm, vì mấy tay nhà thơ là chúa ngủ muộn. Chừng hơn sáu giờ tôi đã lẹt đẹt réo điện thoại cho Cường. Nhà Cường ở 27 hàng Khay, một cửa sổ thơ cùng dãy ban công ăm ắp mùa thu ngó nghiêng xuống mặt hồ rười rượi. Hà Nội đẹp…

Hai anh em ngồi trò chuyện ở ban công tầng ba, nhìn xuống Hồ Gươm lặng tờ dưới kia, có cảm giác tôi thấy, Hồ Gươm như đang lặng lẽ đón một người con bặt vô âm tín mười năm, hai mươi năm, mà bất chợt trở về. Hà Nội đâu phải người dưng?

Hơn bảy giờ, Cường dẫn tôi đi ăn sáng và lòng vòng cà phê ven hồ. Một hàng phở vỉa hè, gọn gẽ trong cái thời buổi Hàng Khay trở thành phố đi bộ vào những ngày cuối tuần. Chiếc ghế nhựa cao được kê làm bàn, chiếc ghế nhựa thấp được đặt để ngồi, quay mặt vào chân tường và những ống cống quanh co, chúng tôi ngồi lo so mà xì xụp phở bò. Hà Nội lạ…

Lần đầu tiên đến thành phố biển Nha Trang xinh đẹp tôi đã giật mình ngơ ngác trong một đêm chuyển mùa. Trời ạ chẳng phải riêng gì Hà Nội, chẳng phải riêng gì Bắc Kỳ ẩm ướt xa xôi, ngay tại đây và nhiều vùng đất sau này tôi đặt chân tới cũng có thứ hương hoa chết người này. Hẳn đó cũng là một loài dạ hương, mà loài dạ hương nào không liêu trai ma quái. Nhưng cứ ngẫm thử mà xem không thứ hương hoa sữa nào ở đâu thấm đẫm như mùi hoa Hà Nội. Bởi nơi đó hoa sữa ngọt ngào trong cả những tiếng rao đêm. Hà Nội ngỡ ngàng… Hà Nội xa…

Năm 18 tuổi. Tôi xa nhà. Nơi đầu tiên tôi trú ngụ trong hành trình “nhà trọ và cơm bụi” của mình là làng Phùng Khoang, phía sau là khu ký túc xá sinh viên thuộc đại học Tổng Hợp cũ, xưa như cổ tích. Ấn tượng đầu tiên và nằm lòng bền bỉ đến bây giờ chính là những tiếng rao đêm khắc khoải nhọc nhằn. Hồi đó tôi đã nghĩ:”Hà Nội khổ bỏ mẹ, đêm hôm rét mướt thế này còn rao bán những ổ bánh mỳ mưu sinh…” Hà Nội buồn…

Sau này, sau này và sau này cùng với những năm tháng lớn khôn của trải nghiệm, tôi nhận ra rằng Hà Nôi cũng mộc mạc thôi, chẳng kiêu kỳ gì, trái lại Hà Nội khiêm nhường giấu trong lòng nó bao thăng trầm lịch sử bao hào sảng Đông A, bao cơn gió sông Hồng ngàn năm thổi về đâu, thổi về đâu, mãi, mãi… Hà Nội hoài mong…

Buổi hôm ấy, sau hội Làng, mấy đứa thân thiết chúng tôi tụ vạ buổi chiều mơ mộng ở căn gác Đào Phi Cường. Trong số chúng tôi chẳng phải ai cũng là người Hà Nội, nhưng không hiểu sao không thấy mình cảm giác lẻ loi, không thấy mình là người dưng, mà trái lại chỉ thấy Hà Nội dường như đang thết đãi những đứa con xa trở về.

Một cây dương cầm chẳng làm cho mùa Thu bớt chông chênh, một cây đàn guitar chẳng làm cho Hồ Gươm dưới kia dềnh lên con sóng. Căn phòng lẳng lặng buông trôi những tiếng ca ngọt ngào. Buổi chiều ấy, buổi chiều cuối Thu, buổi chiều đã để lại trong lòng tôi những thanh âm của nhớ thương thổn thức, hình như còn là buổi chiều của Hà Nội Đâu Phải Người Dưng…

Tháng Mười ơi cơn gió lạnh về

Tháng Mười phố biển có những buổi chiều mưa dấm dứt. Đâu rồi cái ào ạt, vội vàng trong chốc lát để nắng lại bừng lên sau cơn mưa phương Nam? Phải tháng Mười về nên một chút Thu của đất Bắc cũng len lén ghé vào để gợi nhớ gợi thương trong lòng người xa xứ…

Tháng Mười xưa, Thu chín trên những thửa ruộng đã có ánh vàng ươm mùa lúa mới. Những cây hoa sữa cũng cục cựa nảy những nụ xinh chờ bung tỏa hương nồng. Tháng Mười xưa, có cô trò nhỏ mỗi ngày đạp xe dưới những hàng cây mà lòng mơ về xứ sở có mùa Thu vàng trong tranh Levintan.

Tháng Mười vẫn còn những ngày ông Mặt Trời vén mây nhìn xuống, cũng đủ làm lưng áo học trò loang chút mồ hôi. Mùa Hạ và gió Lào không còn hiện hữu, ánh nắng Thu dường như cũng dịu dàng hơn với mảnh đất miền Trung quê tôi. Những ngày có nắng, Mẹ nhắc mang đồ rét ra phơi để chuẩn bị đón những cơn gió mùa Đông Bắc tràn về. Thời điểm này những nhà vườn trồng hoa thược dược cũng bắt đầu khâu làm đất và giâm củ để kịp cho hoa nở vào dịp Tết Nguyên đán. Thời học cấp ba chả hiểu sao chúng tôi rất thích hoa thược dược, hầu như nhà nào cũng có một khoảnh đất trước sân để trồng loài hoa ấy. Sau này lớn lên đi nhiều nơi, được chiêm ngưỡng nhiều loài hoa đẹp, quý hiếm, đắt tiền, nhưng trong lòng tôi chưa bao giờ quên được khoảnh khắc vui mừng và xúc động khi cây hoa thược dược mình tự tay trồng ra những cái nụ be bé đầu tiên. Những bông hoa xinh xắn, rực rỡ sắc màu điểm tô cho ngày Tết là thành quả lao động của những cô cậu học trò Huỳnh Thúc Kháng từ những ngày tháng Mười năm trước. Để mỗi dịp tháng Mười về chúng tôi lại nhắc nhau chuẩn bị trồng hoa…

Tháng Mười, có những ngày se se lạnh, mưa rả rích, dầm dề, ngồi nhìn những giọt nước tong tả nhỏ xuống từ mái tranh, lòng tôi chợt nhói lên vì câu hát nho nhỏ của Cha “Ngoài hiên giọt mưa Thu thánh thót rơi, trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi…” Giọng hát cất lên đượm chút u hoài của người có nhiều kỷ niệm đẹp thời trai trẻ, những giấc mơ không thành vì cơm áo. Trong nhà, tôi là người hợp Cha nhất, giống ông từ cái “chất” lãng mạn đến tính kiên quyết, tự trọng đến mức cực đoan nên tôi hiểu lòng Cha. Nhà nghèo, vợ yếu, con đông nên ông làm quần quật từ sớm tinh mơ đến tối mịt. Ngoài giờ làm ở hợp tác xã là ông xoay vần với hàng trăm việc không tên miễn là có tiền lo cho cuộc sống gia đình, lo cho đàn con học hành đến nơi đến chốn để không phải nghỉ ngang lo kiếm sống như ông từ năm mười lăm tuổi. Mỗi khi nhớ về người Cha đã khuất, hình ảnh lắng vào tim tôi nhất là dáng ông gầy gò, tay cầm cuốn sách lặng lẽ, ánh mắt như trở về một thời xa vắng và giọng hát trầm buồn nho nhỏ “giọt mưa Thu…”

Tháng Mười những năm tháng sinh viên với mùa Thu Hà Nội trong trẻo và thi vị. Gió nhè nhẹ, mưa tý tách, những hàng cây như được phết lên một lớp màu bàng bạc khiến lòng người có chút man mác, bâng khuâng. Gió đưa những chiếc lá úa vàng bay đến từng góc phố. Phố thơm mùi cốm, ngan ngát hương hoa dịu dàng níu bước chân người qua. Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu, Lò Đúc… những con đường với những tán cây xanh làm say đắm biết bao tâm hồn thi sỹ, có cả những ngẩn ngơ tiếc nuối của những người phải giã từ Hà Nội ra đi để rồi giữ mãi trong lòng những mùa Thu ký ức!

Tháng Mười ơi, nắng đã nhạt rồi, ngày đã ngấp nghé triền gió lạnh. Qua những ngày giông bão, những đau đớn khôn cùng của mất mát, tang thương, dường như lòng ai cũng không thể yên bình để đón mùa Thu đẹp đẽ. Mùa về, cúc vẫn nở vàng rực rỡ, trời vẫn xanh trong, mây trắng bồng bềnh, những hàng cây mướt xanh hơn rì rào đón gió. Thu phố biển cũng đẹp vô cùng nhưng canh cánh bên lòng những xót xa cho nỗi đau thiên tai mà vô tình ta quên đi những ngày tháng mới? Tháng Mười ơi, ta muốn trở về ngày xưa, nơi xóm nghèo có một mái tranh dẫu nhỏ nhoi mà đầm ấm, nơi tiếng hát của người Cha đưa ta lạc vào miền kỷ niệm, nơi có luống hoa tay ta trồng, chăm bón để chờ ngày kết nụ, rưng rưng…

Tháng Mười ơi, trong ta vẫn còn vẹn nguyên tình yêu với mùa Thu như tháng năm tuổi học trò mơ mộng. Ta thương nhớ mùa Thu, ta viết về mùa Thu, ta mong chờ mùa Thu… dẫu chỉ để ngân lên trong lòng mình khúc hoài niêm một thời đã xa, rất đẹp, rất dịu dàng mà nhuốm chút buồn man mác.
Tháng Mười ơi gió lạnh đã về…

Tương tư ngô đồng

G iờ đây, mỗi lần đi qua con đường Nguyễn Phan Chánh, nhìn hàng phượng thẳng tắp thưa thớt lá mới trồng, tôi không khỏi nghe lòng mình trào dâng một nỗi trống trải mênh mông. Nỗi tương tư ngô đồng.

Nỗi tương tư ấy dường như cồn cào da diết hơn mỗi độ thu về. Nỗi tương tư ấy dường khắc khoải hơn khi những cơn mưa tháng chín ào ào trút xuống thành phố nhỏ, khi lũ thượng nguồn cuồn cuộn đổ về đẩy con nước duyềnh mãi lên bãi bờ.
Nỗi tương tư ấy sục sạo trong kí ức tôi mà đánh thức câu thơ kinh điển của cổ nhân tưởng như đã từ lâu ngủ vùi trong trang sách:

Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ tận tri thu
(Một chiếc lá ngô đồng rụng
Cả thiên hạ đều biết là mùa thu đến)

Biết rằng mang tin thu đâu chỉ có mỗi lá ngô đồng. Với mỗi miền, đất trời có những tín hiệu riêng để chuyển đến lời nhắn nhủ: thu đã về. Với mỗi người, giác quan được đánh thức để cảm nhận sự sinh sôi chuyển biến của tạo vật theo một cách riêng.

Với Hà Nội, với những ai trót đem lòng yêu Hà Nội, thu là cốm xanh thơm thảo dịu dàng trên đôi tay gầy của bà của mẹ, trên đôi tay thon mềm mại của cô gái thanh tân; là hoa sữa nồng nàn trong gió se mỗi khi đêm xuống; là sấu rụng thành thảm vàng rực sáng con phố Phan Đình Phùng mỗi sớm mai lên; là những gánh hàng hoa nên họa nên thơ trên mọi nẻo đường xuôi ngược, là sương chiều lãng đãng huyễn hoặc vờn nước Tây Hồ…

Với Hà Tĩnh quê tôi, thu bắt đầu bằng những ngày nắng gắt oi nồng từ xa xưa đã đi vào trong câu cửa miệng: “Nắng tháng tám, rám cùi bưởi”, rồi những cơn mưa như thác đổ trắng trời. Thu về mang theo bão gió lũ lụt dập dồn. Cánh đồng vừa gặt đã xác xơ chân rạ, bao la nước… Thu tròn đầy trong trái bưởi Phúc Trạch như ngàn vạn quả bóng vàng lúc lỉu treo trong vườn, chất chồng trên những sạp hàng hoa quả ở chợ, tràn vào mọi ngõ ngách phường phố, mang hương thơm vào tận mỗi căn nhà… Thu chín giòn trong từng trái hồng Yên Du ngọt lịm. Thu thanh mát ngọt dịu trong hương vị cam chanh bát ngát lưng đồi Vũ Quang,…

Có phải vì bao nhiêu hương sắc từ hoa, trái, cỏ, lá trải ra trước mắt ta, làm say đắm lòng ta khiến ngô đồng bị lãng quên trong miền cổ xưa xa ngái? Còn ai giật mình thảng thốt thu sang trên một sắc phai ngô đồng? Còn tôi bên sông vẩn vơ nỗi tương tư chút lá mong manh lênh đênh dòng nước. Nỗi tương tư ngô đồng.

Có những ngày tôi xuôi, tôi ngược trên cung đường Nguyễn Phan Chánh dài khoảng 2 km men theo bờ sông Cụt, bắt đầu từ chân cầu Vồng đến gặp cầu Đò Hà cuối đường Hải Thượng Lãn Ông. Con đường nay đã rải thảm êm mượt, vỉa hè thông thoáng và sạch sẽ. Ấy vậy mà lòng cứ gợn một nỗi trống không. Nỗi vắng thưa những bóng ngô đồng.

Năm ngoái, để chỉnh trang lại con đường, trong quá trình thi công người ta đã chặt bỏ đi những gốc ngô đồng cổ thụ hơn nửa thế kỉ soi bóng dòng sông, rồi thay vào đó một hàng phượng, nghe đâu là phượng tím. Cả quãng bờ sông dài chỉ còn lại chín cây ngô đồng mà có đến năm sáu cây trong số đó gốc nhỏ và tán hẹp. Tôi không biết về sau hàng phượng tím sẽ làm nên thơ nên mộng quãng bờ sông này đến thế nào, sẽ làm nao lòng bao vãn khách. Tôi cũng không tưởng tượng nổi về sau quãng sông này phượng có giăng một màu mây tím làm lòng tôi đắm say, làm vơi quên đi nỗi luyến tiếc những tán lá xanh um rợp bóng mỗi hè về và những chiếc lá vàng khẽ theo gió đáp xuống xào xạc con đường nhỏ, bồng bềnh mặt nước mùa thu.

Vẫn biết cuộc sống luôn đổi thay và cần thiết phải có những đổi thay. Vẫn biết những đổi thay vốn không chiều lòng những kẻ hay vẩn vơ hoài niệm. Nhưng nói đến cùng, tôi không ưa nổi những đổi thay theo lối tư duy “đồng phục” đang thịnh hành. Với tôi, mỗi con đường, ngõ phố, ngôi làng, miền quê… đều có những dáng nét, phong vị riêng, câu chuyện riêng của nó. Và câu chuyện của con đường Nguyễn Phan Chánh vốn được kể bằng lời của những bóng ngô đồng cổ thụ rợp mát, thâm u.

Tương tư ở xứ Ninh Kiều

Không biết cụ Nguyễn Tuân xưa đã từng hành tẩu đến xứ này để mà ca tụng thêm cái lý lẽ xê dịch. Ninh Kiều chẳng cũ, Ninh Kiều không mới, Ninh Kiều mở mắt dậy đã khiến người ta tương tư…

Tôi biết đến Tây Đô lần đầu khi vô tình nghe một bài hát vàng vọt với những nỗi buồn xanh xao nhầy nhụa thời binh lửa. Sau này đến Cần Thơ nỗi ám ảnh về một Tây Đô điêu tàn trong bài hát khói lửa ấy mới rụng rốn yên lành. Tây Đô chan chứa một vùng nước non châu thổ, Tây Đô nặng tình như vườn trái trĩu quả bên sông, Tây Đô nóng hổi như ngồi canh hỏa lò mà nướng con cá rô đồng bằng lá tre ngoài bãi. Về Cần Thơ đi mà tương tư xứ sở Ninh Kiều. Cũng lâu lắm rồi chẳng có dịp về Cần Thơ mà ngơ ngẩn mấy độ Rượu mận Sáu Tia mà bịn rịn Bánh hỏi – heo quay Phong Điền.

Nét độc đáo của Cần Thơ là mạng lưới kênh rạch chằng chịt. Kênh rạch cũng là phố, mang vẻ đẹp phong thủy cho một đô thị tiềm tàng. Khí hậu Cần Thơ dễ chịu, gần như hiếm bão. quanh năm nóng ẩm, không có mùa lạnh. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình là 27ºC. Quả là những điều lý tưởng.

Có thể nói chợ nổi là một nét văn hoá sinh hoạt rất đỗi đặc trưng mà tôi chỉ có thể tìm thấy ở miền Tây Nam Bộ nói chung và Cần Thơ nói riêng. Sau này tôi có dịp gặp một vài vùng miền tương tự như ở Thái Lan.

Dẫu vậy sức nổi và sự cám dỗ ở Cần Thơ vẫn luôn len lỏi và cuống quýt như con cá linh đâm mùa. Tôi thường đến chợ nổi Cái Răng từ sáng sớm vì đây là thời điểm họp chợ sôi nổi và đông vui nhất.

Có thể chẳng mua bán gì đâu, chỉ ngắm nhìn thôi đã thấy đủ yêu thương và ngập tràn năng lượng trong hồn. Tôi vốn không quen những khẩu vị Tây Nam Bộ nhưng đã nhiều lần trải nghiệm khác biệt, thưởng thức nhiều loại trái cây tươi ngon hay các món ăn dân dã như hủ tiếu, cháo cá lóc, canh rau đắng… trên ghe thuyền dập dềnh và cảm nhận cuộc lênh đênh sông nước thú vị như kẻ vi hành.

Cần Thơ là vậy lúc nào cũng thân tình như bằng hữu, lúc nào cũng ve vuốt yêu thương như cô em khỏa chèo buông chiều. Một mai những buồn vui dịu dàng như món canh rau đắng thưa thớt dần những cuộc đời buồn tẻ, hỏi rằng tháng ngày còn gì mà vui?

Về Cần Thơ có một nơi đã buộc chân tôi lại, nhiều khi đã định đứng dậy đi mà rồi vẫn dùng dằng ngồi lại. Đến với quán Hoa Sứ tôi được hít thở không khí trong lành của thiên nhiên. quán được thiết kế theo phong cách sân vườn. Vào Hoa Sứ có thể vừa ngồi ăn những món ăn hấp dẫn vừa ngắm nhìn dòng sông hiền hòa hay nghe tài tử đờn ca trên một vùng trùng phùng sóng nước. Và… chết lặng.

Tôi yêu món ốc nướng tiêu ở nơi này, như yêu mấy cô mặc đồ bà ba lướt đi mềm mại mơ hồ trong những căn nhà chòi mái lá. Cho dù là đi đâu thì bạn cũng chẳng bao giờ thấy khó khăn khi muốn kiếm tìm ốc nướng tiêu trong các nhà hàng hiện nay. Tuy nhiên, khi về Cần Thơ, chỉ cần bạn ăn món này một lần là đã thấy ngon, lần khác lại thấy ngon hơn. Và tất nhiên một lần khác nữa lại ngon hơn khác khác lần lần.

Từng con ốc bươu mà người miền Tây còn hay gọi là ốc bưu, mang luộc sơ. Khi có yêu cầu, bỏ nồi ốc lên bếp than, vừa nướng vừa thêm mắm pha tiêu, tỏi, bột ngọt vào… sau đó chờ trong chốc lát thì nước trong ốc sôi lên, một chút là được. Không được để nồi luộc ốc lâu quá, ốc sẽ khô, không còn ngon ngọt nữa. Những trái tiêu xanh làm cho khứu giác, vị giác của bạn phải mẫn cảm mà tiết ra thứ dịch vị nồng nàn.

Thú thực tôi không phải là người ăn phàm nhưng riêng món ốc nướng tiêu thì mình tôi cũng phải làm tới 3-4 cữ. Đến mức những lần sau trở lại chưa cần gọi nhân viên đã nhoẻn miệng ngả nước nghiêng thành: ” ốc nướng tiêu anh ha?” Và… chết lặng… Cái món ốc nướng tiêu quái quỷ này đã làm tôi bảy vía ba hồn…

Cũng không phải là hạng ăn nhậu số má gì nhưng đã có lần ngồi ở nơi đây từ xế trưa mà loáng một cái đã thấy lấp loáng ánh đèn và lạc trôi vọng cổ trên Ninh Kiều nẻo ăn đường chơi. Chẳng biết đứa nào lấy cắp đi thời gian của mình mà lơ đãng như một kẻ tương tư cổ nghiệp. Và… chết lặng…

Cuộc đời con người ta, được sống đã là vui nhưng được đi mới là hạnh phúc. Nếu còn có kiếp sau xin tạo hóa hào phóng cho tôi thêm một đôi chân để có khi nào đó mỏi mệt lại có thêm chân để dùng.

Cần Thơ, Vàm Sáng, Ba Láng, Phong Điền Anh thương em cho bạc cho tiền Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê.

Ngồi gõ máy tính lạch cạch, nhìn qua ô cửa sổ nhà mình, Vũng Tàu mưa trắng đường nhạt lối. Cái thứ mưa gió làm người ta phải trầm uất tiêu dao, mưa như đổ dồn vào trăm thương ngàn nhớ. Mưa như thọc mạch ngàn lẻ một đêm. Mưa như bộn bề lòng dạ người con gái trước khi về nhà chồng. Thầm nghĩ từ đây chạy về Ninh Kiều có là bao xa mà lâu rồi cũng chưa một lần xả láng ốc nướng tiêu rồi tương tư vọng cổ nhỉ?
Và… chết lặng…chết lặng…chết lặng….

Đăng lần đầu ngày Th6 21, 2018
Cập nhật ngày: Th10 5,2024

Mùa về trên ngói

Tôi thích ngắm những mái ngói cũ càng rêu phong. Trong tiềm thức, ngói là nơi lưu giữ những mảnh kí ức thời gian. Dù nhân tình có đổi thay, đời sống có thăng trầm bao nhiêu chăng nữa, mái ngói kia vẫn lặng im như ngàn năm vẫn thế, bình thản, và có chút gì đơn độc.

​Thích nhất là ngắm bước chân mùa in hằn trên ngói. Ngói làm nền cho nàng xuân điệu đàng lơi lả, lướt qua mái ngói cũ mèm để đi tìm ong bướm. Thật lạ, mái ngói dù thâm nâu sờn cũ, mà sao ta vẫn thấy được hơi thở của mùa xuân. Có đôi ba giọt sương sớm buông rơi trên ngói, rồi trơn trượt theo lớp rêu xanh bám chặt, rồi âm thầm thấm vào thân ngói lặng câm.

Kia, ngước nhìn lên mái ngói căn nhà nhỏ bé, thật bình yên quá đỗi, bóng đôi chú chim sâu đầu ngó nghiêng liên hồi, miệng bật thốt những thanh âm tíu tít gọi mùa về. Có lẽ, mái ngói tươi vui nhất trong những ngày hạ. Nắng giòn tan. Màu vàng sánh rót xuống tràn trề trên ngói. Ngói rộn rã, tí tách trong những hân hoan cựa mình, từng chút tế bào trong những mảnh vụn vôi vữa như tìm thấy niềm rạo rực bấy lâu chôn biến.

Cha thì thầm vào tai chúng tôi, mùa nắng nóng thế này, chỉ có nhà ngói là mát dịu. Tôi thấy đúng. Nhưng tôi thấy thương những viên ngói lặng lẽ kia, chúng như hút vào mình hết thảy nóng nực của ngày hạ, để chúng tôi say mình trong những giấc mơ mát lộng của tuổi thơ. Dường như, cha tôi hiểu được ý nghĩ đó của tôi, người gom ít tranh khô, ít rơm rạ, đan bện lại rồi hì hục tấp lên mái ngói.

Không hiểu sao, mỗi khi xa làng xa quê, nỗi nhớ trong tôi lại hướng về đôi cọng tranh khô nằm lặng lẽ trên mái ngói. Chúng nằm đó, khô gầy, hao kiệt, ngơ ngác ngắm nhìn mùa đang trôi đi. Có chút nhớ thương như đang giữ kín trong lòng, tâm tưởng hướng về phía xa, như chờ đợi mà như đã tuyệt vọng.

Rồi cuối cùng, thu cũng ghé qua. Dư âm xác xơ của mùa hạ như chút thời gian lưu cữu đọng lại hao gầy. Vườn nhà bung mở đôi bông cúc thắm. Làn gió heo may cũng rủ nhau quay về mang theo chút rùng mình se lại. Những viên ngói khẽ khàng nằm xếp lớp lên nhau, mỗi sinh thể như đuổi theo một dòng nghĩ suy riêng biệt, sâu kín. Mùa đã trầm lặng. Mái ngói lại càng lặng lẽ hơn trong những u hoài.

Giá có thể biết chúng đang nghĩ gì khi mùa lại sang, khi những bước chân thời gian lại lẳng lặng bước qua. Hèn gì những đêm trăng mùa thu, gió lộng qua khung cửa sổ, cha lại nằm vắt tay lên trán nghĩ ngợi mông lung. Người đang đếm những viên ngói chênh chao trong đáy mắt hay đang đếm bao muộn phiền, bao nỗi sầu tư chan chứa?

Rồi có những đêm không ngủ, ta cũng bắt chước cha, lặng lẽ nhìn lên mái ngói cũ càng để tìm câu trả lời cho những đêm thao thức của cha. Từng viên ngói cười ngây ngô, rồi ơ hờ chìm vào tĩnh lặng, rồi có khi đuổi bắt nhau, xô đẩy nhau, rồi bất ngờ dùng hết sức lực bình sinh, bung ra khỏi những khuôn gỗ rui, mèn, đổ ào vào bầu trời gió lộng. Ánh trăng huyễn hoặc của đêm trung thu chan đẫm cả căn phòng, thấm ướt cả chiếc gối mà ta nhầm tưởng là viên ngói. Ôi, những giấc mơ ngói của tôi!

​Mùa đông. Gió hun hút lùa qua khe cửa gỗ mong manh. Trong đêm, nằm lặng mình nghe tiếng mưa rơi, ta có cảm giác có tiếng trở mình của ngói. Chút rùng mình ớn lạnh kia càng khiến không gian yên nguội, lặn vào trong chiều sâu của những tâm tư. Biết đông sang, gió chuyển mùa, rồi những cơn mưa thể nào cũng đến, buổi chiều, cha hì hục leo lên mái ngói, cẩn thận xê dịch, vá dắm rồi lại hì hục trèo xuống, đứng dưới nhà ngước nhìn lên xem còn lỗ hổng, vết nứt nào không.
Ta không nhìn, nhưng sao tim ta vẫn nghe được những tiếng tí tách thầm thì của ngói. Những hạt bụi năm tháng dính đầy trên ngói. Màu đỏ thẫm ngày nào giờ đã bị phủ mờ bởi màu xanh của rêu và màu nâu đen của gió bụi. Đó có phải là màu của kí ức, màu của thời gian ưu phiền, như tiếng thở dài vẫn còn nén chặt trong lồng ngực.

Những đêm mưa, tiếng giọt mưa rơi trên ngói thật u buồn. Không dữ dội như trên mái tôn đồm độp, không xao xác như trên mái nhà tranh, những giọt âm thanh hiu quạnh như buông ra mà cũng như đang nén chặt vào lòng, tựa lời tự tình sâu kín dè dặt buông ra mà sợ không có nổi một kẻ tri âm. Tiếng rơi đùng đục, trầm sâu, rồi ngấm, rồi loang chảy, rồi tan biến. Ta cũng không biết mình đang đếm tiếng mưa đêm hay đang lắng nghe tiếng thì thầm của những viên ngói đơn độc giữa năm tháng sương mù…

Mùa về trên ngói, hay chính ngói là hình bóng của hồn ta trong dòng chảy thời gian dằng dặc, miên man? Ơ kìa, mùa đang về trên ngói…

Đăng lần đầu ngày Th7 14, 2021
Cập nhật ngày: Th10 5,2024