28.9 C
Hanoi
Thứ Ba, Tháng 7 15, 2025

Đời nến

K ý ức con người là một thứ...

Những ánh trăng quê

N hìn ánh trăng chảy tràn trrên...

Chỗ dựa mang tên ba

Ba tôi có một thói quen lạ....

Đời nến

K

ý ức con người là một thứ vô cùng đặc biệt. Nó có thể được khơi dậy và tái hiện ở bất cứ thời điểm nào bởi cả năm giác quan: nghe, ngửi, nếm, sờ, nhìn. Một giọng nói, âm thanh quen thuộc. Một mùi hương quen thuộc. Một mùi vị quen thuộc. Một cảm giác quen thuộc hoặc có thể là một hình ảnh quen thuộc cũng đủ để gợi nhắc và gọi về cả một bầu trời ký ức. Và cũng bởi vì thế, khi ta còn sống, ký ức vẫn sẽ luôn tồn tại.

     Một buổi sáng cuối Xuân, khi tiết trời vẫn còn vương vấn chút ẩm ướt và se lạnh còn sót lại, tôi ngồi bên ấm trà, đọc dở cuốn sách có tên Những Ngọn Nến Cháy Tàn của Márai Sándor. Và thật kỳ lạ làm sao, vào lúc ấy, tôi đã tưởng tượng ra xung quanh mình hình như có mùi nến cháy.

     Tất nhiên nó không phải là mùi nến thơm mà bây giờ người ta vẫn hay sử dụng. Đó là một thứ mùi khen khét, nồng nồng rất khó diễn tả của những cây nến thường có hai màu trắng và đỏ mà chúng tôi đã từng dùng rất nhiều khoảng hơn chục năm trở về trước.

Tác phẩm mới

     Mùi hương thoang thoảng ấy đã dẫn dắt ký ức của tôi trở về với những buổi tối tuổi thơ ngồi dưới ánh nến. Ấy là những năm đèn đường còn thưa thớt, hệ thống điện chập chờn, khu phố nhà tôi thường xuyên bị mất điện vì quá tải. Ngày ấy, không có nhiều nhà cao tầng và tất nhiên các hộ gia đình cũng không cổng kín tường cao như bây giờ. Chỉ cần mất điện, ngay lập tức có thể sẽ nghe thấy rất nhiều giọng nói vang lên cùng lúc: “Ơ, mất điện rồi à!”; “Chán thật, vừa mới cắm được nồi cơm”; “Thế là hôm nay không được xem phim rồi” cùng với những tiếng thở dài chậc lưỡi… Và rồi chỉ vài phút sau: bóng tối dần xua tan bởi ánh nến. Hồi ấy, rất ít những gia đình có máy phát điện. Chúng tôi khi ấy nhà ai cũng phải dự trữ sẵn một vài cây nến trong nhà dùng để thắp vào mỗi dịp như thế này và cứ mỗi lần như vậy, cả dãy phố nhà tôi giống như một bức tranh sống động lung linh hiện lên trong ánh nến.

     Ngọn nến soi tỏ, hắt lên tường những hình thù ngộ nghĩnh mà lũ trẻ chúng tôi thường cùng nhau đùa nghịch. Mấy anh chị em cùng thi nhau trỏ lên tường, đứa thì khoe mình đang tạo bóng con thỏ, đứa lại nói mình đang tạo bóng hình con chim, con chó … Lúc ấy tôi còn nghịch dại, tranh thủ vân vê những giọt sáp nến nóng chảy chưa kịp đông lại để nặn thành đủ thứ hình dạng mặc cho hơi nóng bỏng rát cả tay. Tuổi thơ tôi cứ như thế, lần lượt được hiện ra sắc nét dưới ánh nến trong mùi nến cháy thân thuộc.

     Gia đình tôi nấu cơm bằng thứ ánh sáng mờ mờ ấy, quây quần ăn cơm cùng nhau cũng dưới ánh lửa yếu ớt bao trùm. Hồi bé, có lẽ đứa trẻ nào cũng sợ mất điện vì sợ tối, sợ sẽ không được xem những chương trình ti vi yêu thích nhưng thực ra khi lớn lên rồi, nhiều khi nghĩ lại chỉ thèm muốn một cảm giác ấm áp và quây quần như thế. Dưới ánh nến, bữa cơm còn chả nhìn rõ món gì với món gì mà vẫn ăn vội ăn vàng, vui vẻ. Dưới ánh nến, người ta chẳng còn mỗi người một công việc như ngày thường, chỉ tập trung cùng nhau ngồi trò chuyện rôm rả để giết thời gian chờ đến khi có điện. Hàng xóm quây quần, anh em ríu rít.

     Mỗi một dịp đến Tết Trung Thu, trẻ con chúng tôi đứa thì xách theo đèn lồng tự chế từ các hộp xà phòng, giấy bìa, lon nước, đứa có điều kiện hơn thì được bố mẹ mua cho đèn ông sao, con cá. Nhưng hầu như các loại đèn ấy đều thắp sáng bằng lửa nến, và là loại nến cây truyền thống chứ không giống như những thứ đồ chơi rực rỡ ánh đèn như bây giờ. Nhiều năm trôi đi, những ánh nến cứ tưới tắm lên tuổi thơ của chúng tôi những ngọn đèn kì diệu và huyền ảo dưới vầng trăng cổ tích để rồi cho đến tận bây giờ, ánh đèn ấy thi thoảng vẫn xuất hiện trong giấc mơ của những chàng trai, cô gái đã lớn khôn.

     Chúng tôi cứ thế lớn dần lên, những ánh nến ngày đó cũng dần dần được thay thế bằng ánh đèn hoặc các loại nến thơm, nến cốc khác. Tuổi thơ chúng tôi cũng lùi xa từ lâu cùng với những điều đã trở thành quá vãng. Đời nến cũng giống như đời người. Kể từ thời khắc được thắp sáng, ánh nến chứa đựng cả những hào quang rực rỡ xen lẫn giữa những tiếc nuối bi ai của sự lụi tàn ngắn ngủi. Khi ngồi trước ánh nến, với tuổi trẻ là niềm thích thú hiếu kì trước ánh lửa bập bùng như đang nhảy nhót đùa vui, với tuổi trưởng thành lại là sự chững chạc tĩnh lặng, quan sát một cây nến còn đang cháy dở mà cứ ngỡ như đang được chứng kiến, thấu tỏ cả một cuộc đời.

     Ngồi trong một căn phòng trước ánh nến, có đôi lúc tôi bỗng giật mình thảng thốt, chợt nhận ra, những cây nến của ông, của bà, của bác tôi đều đã lụi tàn và cháy hết. Thay vào đó, trên bầu trời lại xuất hiện thêm một vài ngôi sao mới. Tôi lặng nhìn những cây nến còn lại đang cháy dở với đủ kích thước dài ngắn khác nhau, có lẽ, chúng đều đã và đang cháy hết mình cho một cuộc hành trình ý nghĩa. Những cuộc hành trình đầy đủ thăng trầm…

Những ánh trăng quê

N hìn ánh trăng chảy tràn trrên khắp đường làng ngõ xóm, tôi bần thần tự hỏi, trăng có tự bao giờ, trăng có trước hay loài người có trước. Trăng từ ngày đã đi vào thơ ca nhạc họa, đi vào đời sống của người làng quê chúng tôi.

     Ông bà cụ kỵ tôi sinh ra đã có ánh trăng rồi. Tôi lớn lên đã có trăng đi vào trong lời ru ngọt ngào của bà của mẹ. Trăng đã ở trong truyện cổ tích, đưa tôi vào những giấc mơ kỳ diệu.Tự ngàn xưa trăng đã là bầu bạn của loài người, hay ít ra cũng là nơi quê hương yên lành của làng quê tôi.

Có những hôm trăng tròn như cái mâm bằng bạc nhô lên khỏi dãy núi đàng đông. Trăng nhô lên khỏi ngọn tre, đúng trong nhà nhìn ra cứ tưởng những ngọn tre cong như chiếc cần câu đang treo cái đèn lồng rực rỡ. Ánh trăng ngời ngời rải một màu vàng lên trên nền trời bắt đầu sẫm lại. Một thứ ánh sáng huyền diệu thả xuống làng quê đang chuẩn bị bữa cơm chiều muộn.

     Mẹ dọn cơm ra sân, ánh trăng thay ánh đèn dầu rọi sáng khắp sân nhà. Cả nhà quây quần bêm mâm cơm, bao nhiêu chuyện trong ngày các con đua nhau kể, bữa ăn mới thú vị làm sao. Trăng trung tuần vời vợi, ăn cơm xong anh em chúng tôi kê chiếc chõng tre ra sân nằm ngữa nhìn trăng. Hình cây đa chú Cuội rõ mồn một. Bài hát đồng dao “ Chú Cuội nằm gốc cây đa, bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời, tối về cha đánh ba roi, đánh xong rồi lại bắt ngồi trông trâu.”. Mấy đứa lại xuýt xoa thương cho chú cuội, quanh năm suốt đời không được học hành vui chơi mà chỉ quanh quẩn bên gốc cây đa chỉ có chị Hằng làm bầu bạn.

     Ngày mùa ở nông thôn trăng là bạn bè thân thiết. Cơm tối xong cha rủ lúa bông ra sân để trục. Chúng tôi tha hồ chạy nhảy lên sân lúa đang nguyên hạt, tiếng hạt lúa rụng sào sạo dưới những đôi chân trần nhỏ bé. Ánh trăng theo vòng quay cót két của cái trục đá làm cho ánh sáng loang loáng như những tia chớp hắt ngược lên bầu trời cao tít đầy sao. Đêm trăng sáng đội sản xuất tổ chức sinh hoạt, mọi người ngồi dưới ánh trăng, bên ấm nước chè xanh điếu thuốc lào thi nhau nhả khói.

     Trung thu không những là niềm háo hức đợi chờ của bọn trẻ mà còn là niềm vui của người lớn. Cha tôi ngồi tỉ mẩn tì mần trau chuốt từng cái nan tre. Mẹ đi chợ mua mấy tờ giấy màu. Cha cắt dán cho tôi cái đèn lông xinh xinh. Trung thu ánh trăng sáng vằng vặc, bọn trẻ con tập trung rước đèn lồng vòng quanh đường làng ngõ xóm. Tiếng trống ếch vang vang, ánh trăng rung rinh theo nhịp chân nhịp nhàng của trẻ nhỏ. Trăng đồng hành cùng bọn trẻ chúng tôi, soi rõ từng bước chân nhỏ xinh xinh. Sau khi phá cỗ vui chơi thỏa thích ở đình làng, trăng ân cần theo chân từng đứa trẻ vào đến tận ngõ.

     Mẹ quảy đôi gánh đi nhổ mạ đêm, tiếng giũ đất soàn soạt, hạt đất rải tung tóe lên nón đội đầu làm cho ánh trăng tan ra từng mảnh nhỏ. Hạt đất nhỏ bắn tung tóe làm cho ánh trăng vỡ vụn nhuộm ánh trăng như có ngàn ngàn mảnh sao băng lấp lánh. Ban ngày nắng nóng, các bà các chụ rủ nhau đi cấy ban đêm. Tiếng cắm mạ xuống mặt ruộng nghe lách tách hòa lẫn với tiếng ếch nhái râm ran tạo nên một âm thanh huyền bí. Ánh trăng vỡ loang ra trên mặt ruộng tạo thành những con sóng vàng nho nhỏ chạy vào xung quanh bờ. Đêm khuya thanh vắng ánh trăng tự mình tan chảy thành dòng xuống đường làng. Ánh trăng tràn trề như dòng ánh sáng chảy mãi chảy mãi vào cuối tận đường làng xa tít. Dưới tán lá cây ánh trăng len lỏi thả xuống đường từng vũng sáng trông như những bông hoa to bằng bạc. Cơn gió thoảnh qua lá cây ánh trăng lay động làm các bông hoa vỡ ra chảy lênh loang trên mặt đất.

     Có những đêm mùa đông, ánh trăng như đông cứng lại trên các cành cây ngọn cỏ. Trời lạnh vạn vật dường như cũng lười vận động, tôi tưởng như đưa tay ra là có thể vốc được từng nắm ánh sáng bỏ vào trong túi áo. Đêm càng về khuya ánh trăng càng sáng. Bờ cây bụi cỏ ban ngày trông bình thường, đêm qua ánh trăng chỗ sáng chỗ tối tạo nên những hình thù kì dị. Gió lay động làm cho chúng nhảy múa, đàn chó trong làng thấy lạ thi nhau sủa trong rấm rẳn. Những đêm như vậy mẹ tôi bảo, đó là tiếng chó cắn ma làm cho chúng tôi rúc đầu vào tấm chăn mà không dám thò đầu ra. Bao nhiêu là chuyện kể về trăng, chúng tôi nghe đi nghe lại đến thuộc làu.

     Đêm trăng sáng, tôi theo mẹ đi gánh nước đêm. Tay cầm cái gàu múc nước bằng mo cau, mắt nhìn lên trời thấy trăng đang bước theo mình từng bước. Ra đến giếng làng ngó xuống, tôi thấy trăng mằm tận dáy giếng tự khi nào. Chiếc gàu nhẹ nhàng thả xuống, ánh trăng tan ra hàng ngàn mảnh lay động theo sóng nước, cái giếng bỗng sáng lấp lóa giống như một giếng vàng ai đã nung chảy. Ánh trăng sóng sánh theo đôi thùng nước nhún nhẩy về nhà. Những giọt nước văng ra mang theo ánh trăng rơi xuống đất hòa lẫn với muôn vàn ánh sáng đang rờ rỡ dưới đôi bàn chân thoăn thoắt của mẹ. Có nhiều đêm mặt trăng bị khuất, mẹ bảo, mặt trăng bị “Trai ăn”. Chúng tôi không biết “Trai” là gì nhưng giận Trai và thương trăng vô cùng.

     Trăng đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của người dân quê tôi. Các cụ cao niên trông trăng để doán biết thời tiết, “ Trăng quầng thị hạn, trăng tán thì mưa.”. Mẹ tôi trông trăng theo tục ngữ ông cha truyền lại, canh thời gian để dàn xếp công việc. “ mồng một lưỡi trai, mồng hai lá lúa, mồng ba câu liêm…” cứ như vậy cũng đủ biết trăng gần gũi thân thương đến mức nào rồi.

     Trăng khuyết lại tròn. Cái quy luật của thiên nhiên nhưng gieo vào lòng người một niềm tin hy vọng. Con người ta trong cuộc sống có nhiều lúc gặp khó khăn nhưng luôn tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng, cũng như ánh trăng tròn rồi lại khuyết. Con người bầu bạn cùng trăng, nhưng có lẽ mặt trăng cũng rất quyến luyến loài người. Có những ngày đầu tháng mặt trời đã lên cao nhưng mặt trăng cũng chần chừ không chịu lặn. Mặt trời đàng đông, mặt trăng lơ lửng đàng tây như đang luyến tiếc một hành trình dang dở. Trăng thân thương được ví như một người mẹ dịu hiền, “Một mẹ sinh được ngàn con, sáng ra chỉ thấy còn lại một cha, mặt mẹ như hương như hoa, mặt cha nhăn nhó chẳng ma nào nhìn.”. Trăng là đề tài cho các thi nhân ngâm vịnh. Thú chơi ngắm hoa thưởng nguyệt của những tao nhân mặc khách, đã có từ xưa luôn luôn tồn tại và phát triển.

     Trăng treo vời vợi trên trời cao, nhưng đã chứng kiến cho bao cuộc trao duyên hò hẹn. trăng tác thành duyên chồng vợ. Trăng thao thức cùng với người vợ, người mẹ trông ngóng những người chồng người con đang ngoài mặt trận. Trăng khuyết rồi đầy, củng cố niềm tin sắt đá, mọi chuyện dù khó khăn đến mấy rồi cũng sẽ đến ngày viên mãn. Người thương tính từng tuần trăng một để đợi chờ người thương.

     Đêm nay tôi ra sân ngẩng mặt lên nhìn trời. Trăng chơi vơi giữa bầu trời rộng lớn. Không còn những bờ tre có cây tre cao vút cong như cái cần câu để kéo trăng lên khi trăng vừa mờ mọc. Trăng vẫn tròn vành vạnh đang thả xuống nhân gian một ánh vàng rười rượi. Bầu trời hình như chật lại. Cũng có thể là tôi đã lớn, đã già. Cũng có thể là làng xóm đã mọc lên các nhà cao tầng che khuất sự phóng khoáng muôn đời của ánh trăng. Tiếng gió xào xạc như tiếng thở dài, tiếc thương cho một thời xưa cũ. Những đứa trẻ thế hệ bây giờ ánh điện đã thay mất những ánh trăng xưa. Sau khi học bài xong chúng không còn nô đùa dưới ánh trăng như thế hệ chúng tôi, mà chỉ có những trò chơi trên mạng internet. Nhưng tôi tin rằng vẫn còn có những người chung thủy với ánh trăng xưa, những mùa trăng thương nhớ. Ánh trăng đã in vào ký ức một thời không thể nào quên.

Chỗ dựa mang tên ba

HOA HẠ

Ba tôi có một thói quen lạ. Mỗi khi ngồi nghỉ, ba không bao giờ tựa lưng vào thành ghế ngay, mà sẽ hơi nhoài người về phía trước, hai bàn tay đan vào nhau đặt trên đầu gối. Dáng ngồi đặc trưng ấy, hơi còng xuống như gánh điều gì đó vô hình, đã in sâu vào tâm trí tôi từ thuở bé. Đó không phải là kiểu ngồi thoải mái, thư giãn, mà là tư thế của một người luôn sẵn sàng, hoặc còn vương vấn điều gì chưa yên. Cái dáng hình còng xuống ấy, giản dị mà ám ảnh, nói với tôi nhiều hơn vạn lời về gánh nặng và trách nhiệm ba mang trên vai.

     Bàn tay ba không đẹp. Nó thô ráp, chai sạn, gân guốc như rễ cây cổ thụ bám vào đất. Những vết sần ở lòng bàn tay, những móng tay cụt ngủn có dính chút đất hay dầu máy là minh chứng cho bao năm tháng ba làm bạn với cuốc cày, máy móc, với những công việc nặng nhọc để nuôi sống gia đình. Tôi nhớ hồi nhỏ, tôi thường nghịch ngợm sờ vào lớp da cứng ấy, thấy sần sùi và hơi đau. Ba chỉ cười hiền, nắm lấy bàn tay bé xíu của tôi, cái nắm thật chặt nhưng không làm đau. Cái siết tay ấy, dù không nói ra, lại là lời hứa hẹn về sự bảo bọc, là cảm giác an toàn tuyệt đối trong thế giới chông chênh của một đứa trẻ.

Ba tôi ít khi nói chuyện phiếm. Những cuộc trò chuyện sâu sắc giữa hai cha con thường diễn ra trong sự im lặng hoặc qua những hành động cụ thể. Ba không giảng giải lý thuyết, mà chỉ làm. Khi muốn dạy tôi về sự cẩn thận, ba không nói “con phải cẩn thận”, mà sẽ cùng tôi làm một việc gì đó đòi hỏi sự tỉ mỉ, ví dụ như sắp xếp lại đống công cụ lộn xộn, và chỉ khẽ nhắc “chú ý một chút con nhé”. Bài học cứ thế thấm vào tôi một cách tự nhiên, không giáo điều, không áp đặt. Nó giống như dòng nước mát lành thấm dần vào đất khô, âm thầm mà hiệu quả.

     Ước mơ lớn nhất của ba có lẽ là được nhìn thấy tôi trưởng thành và hạnh phúc, theo cách riêng của tôi. Ba chưa bao giờ vẽ sẵn một con đường hay đặt ra một khuôn mẫu cho tôi phải đi theo. Ngược lại, ba luôn là người đẩy tôi ra khỏi vùng an toàn, khuyến khích tôi khám phá thế giới. Tôi nhớ như in ngày tôi khăn gói lên thành phố học đại học. Ba không khóc, nhưng đôi mắt ba đỏ hoe. Lúc chia tay ở bến xe, chỉ vỗ vai tôi thật mạnh và nói bằng giọng hơi khàn: “Đi đi con, đi thật xa vào. Đừng sợ gì hết. Cứ đi đi… ba ổn mà. ” Câu nói ấy, cùng với cái vỗ vai còn in dấu sức mạnh, đã trở thành lời dặn dò thiêng liêng tôi mang theo suốt hành trình xa nhà. Đó không chỉ là lời động viên suông, mà còn là sự khẳng định về một điểm tựa không bao giờ mất đi, dù tôi có bay đến tận chân trời nào.

Thỉnh thoảng, khi ba ngồi hút thuốc trong bóng tối, nhìn từ xa, tôi bắt gặp những khoảnh khắc yếu mềm, không phải sự yếu đuối của thể chất, mà là sự mỏi mệt của tâm hồn. Càng lớn, tôi càng nhận ra rằng ba tôi cũng chỉ là một người bình thường với những nỗi lo, những áp lực riêng, không phải lúc nào cũng mạnh mẽ hay biết cách giải quyết mọi vấn đề. Có lần, tôi vô tình đọc được vài dòng ba ghi trong cuốn sổ cũ, nói về những khó khăn chồng chất, về nỗi lo cơm áo gạo tiền. Lần đó, tôi mới thực sự hiểu hết “gánh nặng mưu sinh” là gì – nó không chỉ là công việc, mà là cả một tảng đá đè nặng lên trái tim người cha. Chính những khoảnh khắc ấy, cùng với sự hy sinh thầm lặng đến mức vô lý khi người luôn đặt nhu cầu của vợ con lên trên hết, đã dạy tôi cách nhìn ba không chỉ bằng đôi mắt của một đứa con, mà bằng sự thấu hiểu của một người trưởng thành. Tôi học cách lắng nghe sự im lặng của ba, học cách cảm nhận những điều không được nói ra, và yêu ba hơn bằng một tình yêu của sự thấu hiểu và sẻ chia.

     Có một câu thơ mà mỗi lần vô tình đọc được ở đâu đó, hoặc nghe ai đó nhắc đến, lòng tôi lại trùng xuống, nghĩ ngay đến ba:

Cháy suốt đời con, mùa hạ cháy tàn cây
Hun hút gió Lào, ào ào bụi cát
Cha một mình trong cơn gió ngược
Nắng như nung bỏng mặt đường làng

Lê Thành Nghị

Dù ba tôi không phải lúc nào cũng cõng tôi đúng nghĩa đen khi đi làm về, nhưng cái “lưng cha” ấy luôn là chỗ dựa, là nơi tôi cảm thấy an toàn nhất trong “cả một thời thơ bé”, cụ thể chính là dáng đi của ba mỗi ngày, là sự thay đổi rõ rệt trên tấm lưng từng một thời là cả thế giới của tôi.
Mối liên kết giữa tôi và ba không phải lúc nào cũng cần lời nói. Có những buổi tối, chúng tôi chỉ ngồi cạnh nhau, cùng xem một chương trình truyền hình, cùng nhấm nháp ly trà nóng, và cảm nhận sự hiện diện của nhau. Sự gắn bó ấy vượt qua ngôn ngữ, là sự kết nối của hai tâm hồn, là sự an ủi lẫn nhau trong bộn bề cuộc sống. Chỉ cần biết ba tôi vẫn ở đó, vẫn dõi theo tôi bằng ánh mắt hiền từ của ba là đủ để tôi cảm thấy an lòng, đủ để tôi có thêm sức mạnh bước tiếp.

     Thời gian là dòng chảy không ngừng nghỉ, mang theo tuổi tác và những đổi thay. Mái tóc của ba ngày càng bạc đi, bước chân ngày càng chậm lại. Tôi biết, mình không thể níu giữ tuổi xuân cho ba nhưng tôi có thể cố gắng sống thật tốt, thật ý nghĩa để đền đáp công ơn dưỡng dục ấy. Tôi muốn ba được thấy con gái mình trưởng thành, vững vàng và hạnh phúc trên con đường mình đã chọn. Bởi lẽ, dù tôi có đi đâu, có làm gì, thì trong trái tim tôi, hình bóng cha vẫn luôn là ngọn hải đăng soi đường và là điểm tựa vững chắc nhất. Tình cha không phải là thứ để cất giữ trong ký ức như một hoài niệm đã qua, mà là dòng nhựa sống chảy mãi trong tôi, tiếp thêm năng lượng và định hình nên giá trị cốt lõi của bản thân. Ba tôi là thế đấy, một con người bình dị nhưng phi thường, một tình yêu lặng lẽ mà sâu sắc.

     Và dẫu thời gian có phủ bụi lên vạn vật, có làm phai nhạt bao điều, thì hình bóng người với cái lưng còng và đôi bàn tay chai sạn – vẫn mãi là ngọn lửa ấm áp cháy mãi trong tim, soi đường cho tôi đi. Đời tôi dẫu đi đâu về đâu, vẫn mãi là đứa con bé bỏng của ba. Con đường con đi, luôn có bóng cha dõi theo, và hơn hết, là có một chỗ dựa vững chắc mang tên Ba.

Người đàn bà vắng chồng

N

gày cuối năm bình lặng như một dấu hỏi, treo trên nền trời trăng còn xanh chiều. Vài con én biển xô nghiêng vạt mây bạc trước mũi tàu liếp chiếp. Mentaria treo cờ Panama đưa tôi đến Đầm Môn– bán đo nằm trong vịnh Vân Phong như mộtdải khói biếc nối nối liền nhữngđiu tản mạn, cơ hồ xa vắng.

Tàu giảm tốc độ, nghe rõ khẩu lệnh “Port easy” và sau đó là “Dead Slow ahead” của vị thuyền trưởng già. Sau nửa vòng bẻ lái con luồng dẫn vào Đầm Môn hiện ra trước mắt tôi chờ đợi. Trời ạ nó là một hoang đảo!

Stop engine! Tiếng ông thuyền trưởng vang buồng lái.Tôi dõng dạc xác nhận: Stop engine!Chừng 5 phút sau hoa tiêu lên tàu dẫn tàu cập cảng Đầm Môn. Gọi là cảng nhưng thực tế nó chỉ là 3 mố cầu đủ để chúng tôi bắt dây áp sát tàu vào máng rót cát. Đó là loại cát xuất khẩu dùng cho ngành công nghiệp thủy tinh pha lê.

     Khi tàu ổn định vị trí và làm xong các thủ tục nhập cảng cũng là lúc đồng hồ chỉ 20h. Mentaria sáng trưng một vùng bởi xa leo xa lét bên tả bên hữu, ánh đèn những làng chài ven biển Đầm Môn thoi thóp đến mông lung.

Vào sáng hôm sau tàu vẫn chưa thể làm hàng do máng rót của cảng có vấn đề về kỹ thuật. Chúng tôi có một ngày để rong ruổi những đồi cát bất tận và trải nghiệm bãi biển nguyên sơ xứ này.

     Ngày đó Đầm Môn chưa có những con đường trải nhựa nối vào các thị trấn và thành phố như bây giờ. Chỉ có những con đường cát men theo những uốn lượn của bán đảo mà thành. Chúng tôi đi cho hết gió, đi cho hết cát, đi cho tàn ánh mặt trời và tê dại đôi bàn chân, chỉ có ánh mắt và còn tim không hề mỏi mệt. Anh bạn tôi đã làm quen được mấy cô thôn nữ hẹn hò tán tỉnh tối đi bẻ xoài trên đồi cát mịt mùng.

Bán đảo Đầm Môn nhoài mình vào những cồn cát chạy dài, với hơn 20 đảo lớn nhỏ thuộc vịnh Vân Phong, thuộc xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, nằm cách thành phố Nha Trang khoảng 80km theo quốc lộ 1A về phía bắc.

Đang là mùa trăng, con trăng non bất cẩn như khuyết mãi chẳng tròn. Tôi đi dọc làng chài ven chiều mà ngước ánh trăng lên. Đầm Môn đẹp như một người con gái vụng dại cả đời như chưa từng nhìn thấy đám trai thành phố.

     Trăng còn lên, thủy triều trườn êm, thêm những bờ cát mềm như bờ vai cô gái. Lại là những cô gái mà tôi gặp, lại là những ánh mắt mỉm cười không nói năng. Tôi thấy làm lạ rằng ở làng chài này hiếm hoi lắm mới nhìn thấy đàn ông thanh niên, mà chủ yếu là phụ nữ, người già và trẻ nhỏ. Họ đi đâu cả rồi, những người đàn ông như tôi?

Đàn ông trai tráng ở đây thường làm việc trên những tàu câu cá ngừ đại dương, quanh năm trên biển hiếm hoi lắm mới trở về nhà một ngày mãn vụ. Cuộc sống lênh đênh của họ vất vả lắm, nơi ăn chốn ở cũng chẳng lấy đâu mà sang trọng và lịch lãm như con tàu của tôi.

     Tôi vẫn đi dọc những làng chài gài ánh trăng phai, lên mắt môi những người đàn bà vắng chồng, lên bàn tay những người thiếu nữ nắm vào đâu mỗi bận hoàng hôn. Thiếu vắng đàn ông, mùi cá nướng thơm nồng cũng trở nên dửng dưng. Thiếu vắng đàn ông, đàn bà cũng trở nên quạnh quẽ ngay cả trong những bình minh dòng thủy triều đang dâng tràn lung linh.

     Thiếu vắng đàn ông những đôi mắt người đàn bà miền biển đặt trên bậu cửa sổ lạc hồn. Như một bông hoa lên hương đêm hường cắm trong một cái ống bơ hoen gỉ. Là hoen gỉ chứ không phải là một sự bất toàn ta vẫn thấy đâu đó trong Wabi sabi. Đời gì mà lạ lùng, đời gì mà ngập ngừng, những con mắt còn chưa kịp yêu thương. Hoang dại. Đó chẳng thể gọi là sự cô đơn vì tất thảy niềm cô đơn thế gian đều bất lực để cắt nghĩa cho những người đàn bà hoang vu…

Trăng lên cao. Trăng nhìn sao. Những người đàn bà nhìn nhau. Thủy triều bối rối. Tôi đã đi qua nhiều những đêm trăng rơi vàng trên biển. Trăng trên biển thì đẹp vô cùng, đừng hoang phí sắc đẹp mà so bì với ánh trăng trên biển. Nhưng sao trăng ở những làng chài ven biển này có gì mà lạ vậy.

     Tôi thấy trăng bạc, tôi thấy trăng nhạt, tôi thấy trăng lạc trong đôi mắt những người đàn bà day dứt. Đã mấy mùa trăng mà người đàn ông của họ chưa trở về. Đừng nghĩ trăng sinh ra chỉ cho đàn bà. Trăng không có đàn ông thì ánh trăng cũng trở nên tẻ nhạt, như một chén ly bôi độc thân.

     Ba ngày sau thủy thủ đoàn chúng tôi phải tạm biệt Đầm Môn cũng trong một vành trăng man dại. Con tàu bẻ lái trỗi lên những hồi còi thống thiết. Bỏ lại sau lưng là những đồi cát nhạt nhòa, bỏ lại sau lưng bãi biển trải dài nhí nhố tiếng bọn trẻ trong thôn chài nô đùa. Bỏ lại sau lưng những ánh nhìn ngẩn ngơ của các cô gái đã đi bẻ xoài trên đồi cát mịt mùng cùng anh bạn tôi. Những ánh mắt đã lâu rồi không được chạm vào ánh mắt. Những ánh mắt làm cho vùng nước vịnh như sâu hơn và tận cùng thăm thẳm dưới đáy kia nếu ai đó thử thả mình xuống thì cảm giác bị đẩy ngược lại rõ rệt ngay lập tức. Nhưng đừng nhầm tưởng đó là sự nâng lên theo nguyên lý Archimedes, mà ở dưới tầng đáy hoang mang kia có một dòng chảy mặn chát hơn cả nước biển. Dòng chảy từ những đôi mắt lẻ loi như những bong bóng nitơ giãn nở đột ngột.

     Bất giác tôi nghĩ về người đàn bà của mình. Còn ai không cũng đang nghĩ về những người đàn bà thế gian? Sức hút của đàn bà không giống như sức hút của vầng trăng kia, chẳng thể định đoạt cho những chu trình phẳng lặng. Và khi vắng đi một nửa của cuộc đời mình, đàn bà cũng chỉ là một dòng hải lưu một chiều vô hướng. Tôi nhìn trăng trên đầu, tôi nghe gió trên vai, tôi thở vào vành trăng những rì rằm của biển. Làm gì cho khỏi vắng nhau? Steady as she goes…

* Port easy (Từ từ sang trái)

* Dead Slow ahead (Tốc độ tới thật chậm)

* Stop engine (Dừng hoàn toàn động cơ)

* Steady as she goes (Thẳng thế, thẳng hướng)

Vườn nhà có hàng chuối xanh non

Tác giả Mai Linh Lan

B ố đẻ tôi mất sớm từ khi tôi còn là cô bé bốn tuổi nên thời thơ ấu, tôi luôn thiếu thốn tình cảm, mong ước có được sự chăm sóc của người cha.

Ngày tôi về làm dâu, tôi cảm nhận được, bố chồng không coi mình là người ngoài mà như con gái trong nhà. Tôi hạnh phúc khi bố đón tôi bằng sự bao dung, dạy tôi cách vun vén gia đình bằng những điều giản dị. Một ánh nhìn thấu hiểu, một lời nhắc nhở ân cần của bố đều khiến tôi thấy thật ấm áp. Ông không bao giờ nặng lời nhưng cũng chẳng nuông chiều. Từng lời ông nói, từng việc ông làm, đều mang theo cái tình và cái tâm của một người cha đúng nghĩa.

Tôi vẫn nhớ buổi sáng ngày mới về làm dâu, tôi thư thả ngắm ánh nắng sớm vừa nhón chân lên đầu ngõ, chợt nghe tiếng lá chuối xào xạc theo gió nhẹ, âm thanh thân thuộc như một khúc nhạc bình yên. Khi ấy, tôi nhìn thấy bố chồng tôi bước chậm rãi giữa vườn, dáng cao gầy, lưng hơi còng theo năm tháng. Ông đưa tay chạm nhẹ vào những tán lá rộng, cảm nhận lớp lá mát lành như nhịp sống nối tiếp trên từng thân cây. Rồi ông thoăn thoắt tỉa lá chuối, cắt, bó thành từng tập. Thấy tôi, ông khẽ bảo: Con gái, mang bó chuối vào sân để ráo nước giúp bố. Nghe hai từ “con gái”, tôi xúc động nghẹn ngào, lặng đi trong giây lát, cố giấu ánh mắt ươn ướt.

Mẹ chồng tôi đang băm thân chuối nấu cám lợn, nhìn tôi giúp bố mang từng bó lá ngoài vườn vào sân, bà giải thích: Lá chuối này được thương lái đặt mua, chở về thành phố giao cho những cơ sở làm nem, giò. Có khi, nhà mình còn phơi khô lá chuối theo đơn đặt hàng của các bà chuyên gói bánh gai ngoài chợ.

     Mẹ quay sang bố, khen ông mát tay, bởi trong xóm cũng nhiều nhà trồng nhưng người mua lúc nào cũng trả giá cao vườn chuối của bố vì lá đẹp, tán rộng, có màu xanh tươi hơn cả. Rồi mẹ kể: Ngày xưa, bố trồng chuối không phải vì tính chuyện buôn bán. Bố nói, nhà có cây chuối là có bóng mát, có lá gói bánh, có quả cúng giỗ, lại thêm nhiều món ăn cho cả người già lẫn trẻ con. Mỗi phần của cây chuối cũng đều hữu ích với nhà nông như thân cây làm cám lợn, thức ăn cho cá.

     Bố chồng tôi là một người lính từng trải qua chiến tranh. Cơ thể ông mang vết tích của những năm tháng cầm súng. Mỗi lần gió đổi mùa, trời trở lạnh, cơn đau nhức lại âm ỉ hành hạ ông. Nhưng chưa bao giờ chúng tôi thấy ông than phiền. Nhìn bố, tôi nhận ra rằng chiến tranh không chỉ để lại những vết sẹo trên cơ thể, mà còn khắc sâu vào trong tâm khảm, biến thành một sức mạnh âm thầm, bền bỉ của mỗi người lính.

Góc vườn nhà tôi quanh năm xanh tốt những cây chuối đủ loại: Chuối lá, chuối tây, chuối tiêu hồng. Từng gốc chuối mẹ rắn rỏi, cứng cáp, đỡ nâng, tán lá xòe rộng như vòng tay chở che những cây con đâm chồi, lớn lên, tiếp nối nhau vươn mình dưới nắng. Bố chồng tôi đã chăm chút vườn chuối ấy suốt mấy chục năm, như chăm chính những đứa con trong nhà, lặng lẽ, nhẫn nại, không vội vã, nhưng chưa bao giờ thiếu vắng tình thương. Có những ngày giông gió, thân chuối ngã đổ, bố mẹ tôi vội vã ra vườn, buộc cây, chằng gốc, dùng thân tre để chống buồng chuối. Nhìn dáng ông lom khom giữa mưa gió, tôi như nhìn thấy hình bóng một mái nhà kiên cường, ấm áp, che chở vững chãi cho những thành viên còn lại.

     Mười lăm năm về làm dâu, cũng là ngần ấy năm tôi chứng kiến mùa chuối ra buồng, kết trái. Những buồng chuối sai trĩu, quả ép sát vào nhau, biểu tượng của của tình thân, của sự gắn bó bền chặt. Khi chuối chín vàng, bố tôi dành nải đẹp nhất để thắp hương tổ tiên, như một lời biết ơn với những người đi trước. Sau khi thụ lộc, ông chia cho con cháu, gửi gắm những ngọt lành của đất trời vào từng món quà nhỏ bé.

     Những quả chuối chín được đặt ngay ngắn trong mâm cơm gia đình tôi mỗi ngày, là món tráng miệng giản dị mẹ chồng tôi gọi là nhân sâm của người nghèo. Tụi trẻ con thích chuối chín bởi vị ngọt thanh, người già ăn chuối chín để giữ gìn sức khỏe. Mỗi lần có ai đi xa trở về, mẹ lại bày một nải chuối ra bàn, như một lời chào đón đằm thắm, như một nhịp kết nối của tình thân.
Nhất là mùa cốm non, khi có khách đến nhà, mẹ rót nước trà thơm, đặt thêm một nải chuối trên bàn cạnh đĩa cốm. “Có chuối ăn cho ngọt miệng,” bà mỉm cười quay sang bố, nói giản dị, nhưng trong đó có cả sự hiếu khách chân thành, có cả cái tình của gia đình quê mộc mạc.

     Những buồng chuối không chỉ cho quả chín ăn mà còn đi vào những bữa cơm quê bình dị của gia đình tôi. Quả chuối xanh được mẹ cắt vào làm món cá kho. Những lát chuối mềm dần, thấm đẫm vị đậm đà, hòa quyện với chút riềng, chút nước mắm quê khiến cả nhà “đổ vạ nồi cơm”. Bát canh xương hầm chuối xanh cũng không thể thiếu trong bữa cơm gia đình tôi những ngày trời trở lạnh. Ăn thìa nước canh ngọt thanh, cắn miếng chuối mềm mà ngọt bùi dư vị quê nhà, mọi người nhìn nhau cười ấm áp. Món chuối xanh nấu chín, dầm nhuyễn cùng tóp mỡ béo ngậy, thêm hương lá lốt, tía tô cũng là thức quà quê mà gia đình tôi ưa thích. Bao năm tháng qua, vị ngọt từ tình thân trong những bữa ăn gia đình đầy ắp tiếng cười đó, chúng tôi không thể nào quên.

Cây chuối lớn lên từ đất, vươn tán lá che chở, ra quả, rồi lại sinh thêm đời con nối tiếp. Mỗi lần nhìn hàng chuối, anh chị em chúng tôi lại nhớ lời bố dặn: “Mỗi cây con đều lớn từ gốc rễ vững chắc, nhờ cha mẹ nuôi dưỡng mà trưởng thành. Đến lúc đủ sức, nó lại chăm lo cho thế hệ sau. Cũng như gia đình cũng vậy, thế hệ sau tiếp bước thế hệ trước. Bố mong các con luôn biết đùm bọc, yêu thương nhau, vậy mới thành mái nhà vững vàng”.

     Tôi ngắm hàng chuối rung rinh lá trong sớm mai, mỗi ngày vẫn xanh tươi, tiếp nối nhau sinh sôi chẳng ngừng nghỉ. Và tôi nhận ra, dẫu thời gian có trôi, người vun trồng có thể sẽ khuất bóng, nhưng tình thương ông để lại vẫn sâu như rễ, rộng như tán và xanh như những mầm chuối non đang vươn mình dưới nắng, lặng lẽ nuôi dưỡng những mùa yêu thương trong gia đình tôi tiếp nối, mãi mãi…

Hạnh phúc nở hoa

d ưới chùm nắng non buổi sớm, những giọt nước li ti trong suốt đọng trên lá hắt ra thứ ánh sáng lung linh, tinh khiết. Hàng trăm tia nước mát lành đang rửa trôi lớp bụi trắng mỏng trả lại màu xanh mỡ màng cho những chiếc lá hạnh phúc.

Mấy cành dài vươn mình đón nắng khẽ rung rinh, nhảy nhót. Tôi như nghe được cả tiếng cười khúc khích dưới tàng cây.

     Vừa tưới, tôi vừa vuốt ve, ngắm nghía từng chiếc lá. Sáng sớm là khoảng thời gian tôi cho phép mình được thư thả, không lo nghĩ bất cứ chuyện gì, chỉ tập trung vào những giọt nước, những cơn gió, những chiếc lá, những bông hoa và mọi thanh âm thân thuộc của một ngày bình thường. Đó là tiếng xe chạy hối hả, tiếng rao thu mua đồ cũ, tiếng chim hót ríu rít, tiếng tắc kè nhà ai nuôi và cả tiếng trực thăng bay lượn trên bầu trời.

     Chỉ khi thực sự yêu thứ gì đó, người ta mới cảm nhận được giá trị thời gian ít ỏi mà họ phải cố xén ra giữa guồng quay cơm áo gạo tiền để toàn tâm toàn ý dành cho niềm đam mê ấy. Tôi không mê trà nên chẳng thể hiểu được cái thú khi những người yêu trà ngồi mân mê pha và thưởng thức một tách trà nhỏ xíu. Cũng như ai không yêu cây sẽ chẳng hiểu được cảm giác mân mê từng chiếc lá, ngắm nghía từng chồi xanh, hì hục nhổ đi từng cây cỏ… có thể gây nghiện như thế nào. Ngày nào cũng ngắm, cũng soi từng chi tiết trên cây thế mà vẫn có lúc ngỡ ngàng tự hỏi cái chồi này nảy lên từ khi nào, cái cành kia sao bỗng dưng dài thế nhỉ.

     Hôm nay, tôi phát hiện cây hạnh phúc của mình ra hoa. Nếu không chú ý, tôi đã chẳng nhìn thấy chùm nụ màu xanh nhạt hơn màu cốm ẩn sâu trong mấy cành um tùm lá cũng màu xanh kia. Điều làm tôi bất ngờ không phải là việc mình vô tình tìm ra bí mật của cây mà là “hạnh phúc”, một loại cây yêu thích của tôi cũng có thể ra hoa. Hoá ra, tôi vẫn chưa hiểu hết đặc tính của cái cây mà tôi đã phải lòng cách đây năm năm.

     Tôi tưởng rằng mình thấy bản thân yêu nó, chăm sóc nó mỗi ngày, lau từng cái lá của nó… thế là yêu. Mà tôi quên mất rằng yêu là phải hiểu cặn kẽ, hiểu chi tiết, là phải biết nó cần gì, muốn gì, nó có yêu mình không. Tôi cũng chưa bao giờ tự hỏi mình yêu nó như vậy đã đủ chưa? Chỉ thấy lá vẫn xanh, chồi mới vẫn lên là ung dung tự hào về tình yêu của mình. Hay là tôi yêu hạnh phúc chỉ vì “trend”?

     Có một dạo, người ta đổ xô đi mua hạnh phúc vì nghe nói trồng hạnh phúc sẽ hạnh phúc và hạnh phúc dễ chăm, dễ sống. Thật vậy, hạnh phúc ưa sáng nhưng ở nơi không có ánh nắng trực tiếp, cây vẫn có thể phát triển bình thường. Hạnh phúc có tán sum suê, lá màu xanh đậm, căng bóng rất đẹp. Vì vậy, hạnh phúc thường được chọn để trang trí cho các văn phòng, sảnh lễ tân ở ngân hàng, khách sạn hay để tạo thêm không gian xanh cho phòng khách, phòng làm việc ở nhà. Hạnh phúc không khó tính, đỏng đảnh, không rực rỡ, sắc màu, không toả ra mùi thơm gì hết nhưng màu xanh mướt của hạnh phúc mang lại cảm giác sức sống căng tràn. Nếu thực sự ngắm màu xanh của hạnh phúc, hẳn ai cũng sẽ thấy lòng mình dịu lại.

     Chỉ cần có đủ ánh sáng dù là ánh sáng nhân tạo, hạnh phúc cũng lặng lẽ sống “hạnh phúc” như cái tên của nó. Ở mỗi cành, hạnh phúc sẽ ra các chùm nhỏ gồm ba lá xếp thành hình trái tim. Tuy không ai trồng hạnh phúc để lấy hoa hay hương nhưng người ta vẫn chọn hạnh phúc. Người ta chọn hạnh phúc bởi cái tên của nó làm người ta hi vọng hay người ta chỉ đơn giản muốn chọn một cái cây ưa nhìn mà dễ tính như lời người bán tư vấn? Mà suy cho cùng, dù lý do là gì, miễn sau đó người ta vẫn chăm sóc tốt cho nó là được. Phải không nhỉ? Yêu hay không có quan trọng không?

Cái tên hạnh phúc của nó có lẽ do một người yêu nó thực sự đặt cho. Thật ra, tôi chưa từng tìm hiểu hay nghiên cứu nghiêm túc về nó. Vậy mà tôi luôn tự nhận mình yêu nó. Xấu hổ thật! Giờ thì tôi suy đoán bằng cảm giác, một cảm giác thật lòng khi tôi nghĩ về hạnh phúc chứ không phải bằng sự hiểu biết của tôi về nó.

     Phải chăng bởi hạnh phúc toả ra thứ tình yêu thuần khiết trong từng cành từng lá của mình nên người ta mới gọi nó là hạnh phúc. Cái gì đi từ trái tim sẽ dễ chạm đến trái tim. Hạnh phúc đã chinh phục tôi bằng chất mộc đơn sơ của mình như thế. Mà có lẽ, chính bởi sự “dễ tính” của mình nên ít ai mang hạnh phúc ra trồng ở ngoài trời, nơi có nắng.

     Thành phố mà, chen nhau để sống, những nơi có nắng như vậy đâu có nhiều. Và cho nên, những nơi có nắng hiếm hoi ấy phải để dành cho những cây cần nắng mới sống được. Chắc là… hạnh phúc hiểu điều đó dù sống trong nhà, nó sẽ khó mà trổ bông. Thực vật hoá ra cũng giống con người – cần thay đổi và thích nghi, sẵn sàng chấp nhận được mất, hài lòng với hiện tại thì mới có thể “hạnh phúc” sống và cống hiến cho đời.

     Đến hôm nay, khi vô tình nhìn thấy những nụ hoa hạnh phúc đầu tiên, tôi mới giật mình mở máy vào mạng tra cứu thông tin về hạnh phúc. Càng tìm hiểu tôi càng ngỡ ngàng nhận ra mình chưa bao giờ hiểu hết về hạnh phúc. Hoá ra, trước giờ tôi chưa đủ yêu hạnh phúc như tôi vốn tự hào và vốn tưởng.

     Vì chưa đủ yêu nên chưa đủ hiểu. Tôi chẳng hề biết rằng hạnh phúc nếu sống ở ngoài tự nhiên có thể cao tới 30m, y học phương Đông còn dùng nó như một vị thuốc trị sốt, trị thương và một số bệnh khác. Tôi chẳng hề biết rằng nếu được sống trong môi trường lý tưởng, được hấp thụ đủ nắng, đủ dinh dưỡng, hạnh phúc cũng có thể ra hoa… Không ra hoa, hạnh phúc vẫn xanh lá nhưng có phải ra hoa thì sẽ trọn vẹn hơn không? Sống một đời, ít nhất cũng được một lần ra hoa chứ nhỉ? Phải vậy thì cuộc đời mới biết thêm một loài hoa – hoa hạnh phúc.

     Nói chuyện cây lại nghĩ chuyện người. Bạn có tự hỏi hạnh phúc mà chúng ta vẫn thường nói đến, thường mơ đến liệu đã nhận đủ “nắng” để ra hoa chưa? Chúng ta đã yêu ai đó, thứ gì đó đủ chưa? Còn tôi liệu đã đủ tình yêu cho những gì gọi là hạnh phúc?

Giếng Vừng thương nhớ

T ôi vừa bắt gặp những ngọt ngào thơ cũ qua hình ảnh một cái giếng đồng phủ đầy rong rêu. Một bà mẹ quê mặc đồ bà ba, đội nón cời khom mình múc nước. Cạnh bờ giếng là đôi thùng cũ kỹ. Quanh đó là ruộng lúa, bờ tre xanh ngắt đến nao lòng. Hình ảnh quá quen thuộc của khung cảnh làng quê xưa làm tôi bỗng xôn xao nhớ, bỗng vời vợi thương.

     Nhớ làng. Thời tôi còn bé, làng Lộc Yên có khoảng chưa tới mười cái giếng. Vì các bậc cao niên rất thận trọng trong việc chọn nơi có long mạch. Tên giếng thường gắn với tên gia chủ, như giếng ông Tưu, giếng ông Huyền, giếng ông Gương… Duy chỉ có một cái giếng đặc biệt, từ cái tên đến vị trí của nó trong tâm hồn tôi, đó là giếng Vừng. Không biết ai đã đặt tên cho giếng. Chỉ biết rằng, giếng Vừng là nguồn nước ngon và quý nhất làng.

     Giếng Vừng của nhà chú Tư Mão. Đó là một chi tiết của tổng thể kiến trúc nhà cổ gồm nhà vườn, sân gạch, ngõ đá, bờ đá dẫn ra tận giếng. Vị trí rất đắc địa chắc hẳn là ý đồ của chủ nhân mấy đời ở nhà chú Tư. Tôi không hiểu lắm về phong thủy, nhưng tôi nghĩ ai đến cũng sẽ bị mê hoặc bởi nơi này. Nhà chú có hai phía hướng ra ruộng, lưng vườn tựa vào rẫy ông Phương vững chãi, bờ vườn, bậc ngõ được chất bằng đá núi rất công phu. Cuối con ngõ sau, hướng về phía đông là cái giếng Vừng

     Men theo bờ ngõ ấy là một hồ sen nhỏ, không gian trữ tình nối nhà với đồng ruộng. Giếng Vừng, vì thế, rất nên thơ. Đó là chưa kể cây dừa quỳ góc hồ, cạnh giếng. Ngày ngày bóng nắng nghiêng về phía tây, rồi ngả về phía đông như những điệu múa đều đặn, dịu dàng. Buổi trưa, bóng dừa chính là chiếc dù lớn che mát cả vùng giếng, mấy tảng đá để tắm giặt, để thùng gánh nước và một góc hồ sen.

     Giếng Vừng rất đặc biệt. Tuy là một cái giếng sâu chưa đến 3m, và nằm ở bên đồng ruộng cạn, nhưng nó chưa bao giờ hết nước. Dù là vào mùa hạn hán đến nứt nẻ hết ruộng, cây cỏ héo khô, giếng vẫn đủ nước cho cả làng. Người dân làng tôi cứ tin rằng, nước giếng Vừng là nơi hội tụ của những mạch nước lành, bắt nguồn từ trên đỉnh Bằng Mây, từ Hố Chò hay đỉnh Hố Hay. Không biết làm sao tả hết cái vị thanh ngọt, trong trẻo, mát lành của giếng. Trưa trưa, các bác nông dân đi làm về, tạt ngang qua đó, vục cái đài mo xuống và xách lên uống. Cứ gọi là ừng ực mới đã cơn khát. Từng ngụm nước mới thấm thía làm sao. Mạch nước lành len lỏi tưới tắm đến từng tế bào của cơ thể.

     Có lẽ mỗi giọt nước là hương đất hương rừng; là hương của lúa cỏ mênh mang quyện hương sen thơm ngát. Nhưng nếu đem về đun sôi, nước sẽ giảm đi vị ngọt thanh vốn có, dù nó vẫn ngon. Nước đã sôi, ngon nhất là dùng để hãm ấm trà xanh. Thức uống dân dã mà đậm đà này nhà ai cũng sẵn. Hàng xóm cùng nhau khề khà lúc nghỉ ngơi, hay uống cho đã khát khi xuống đồng.

     Nhớ những mùa hạn ròng hạn rã. Cả mấy tháng không thấy một giọt mưa. Cỏ cây khô héo hết, đất đai khô như nướng. Không gian khô khốc oi nồng. Mực nước giếng hạ xuống thấp nhất, còn cỡ vài tấc. Thế nhưng, mạch nước giếng chưa bao giờ tắt hẳn. Cả ngày lẫn đêm, dù bận rộn đến đâu, dân làng cũng tranh thủ thay phiên nhau lấy nước uống. Tiếng múc nước sột soạt từ gàu nhựa hay gàu mo cau và những gánh nước đi về khắp làng. Giếng Vừng ngày hạn thành nơi gặp gỡ của cả xóm. Vì các giếng kia đã cạn trơ đáy. Nhà tôi ở gần hơn, nên chị em tôi thường đợi đến khuya, hoặc sáng tinh mơ mới quảy đôi thùng tôn qua gánh nước. Mẹ vẫn dặn chị tôi lấy lá sen úp lên thùng nước cho sạch và thơm. Nước giếng Vừng gánh về đổ ảng, cứ thoải mái múc uống bằng gáo dừa vẫn thanh khiết và mát lạnh. Sau này đi học, anh em nhà tôi cứ băn khoăn về lời cô giáo dạy “không được uống nước lã”. Chúng tôi đã uống không biết cơ man nào là nước lã giếng Vừng. Có hề hấn gì đâu? Nên vì thế, giếng Vừng, tự bao giờ, đã thành máu thịt và thấm đẫm cảm xúc trong trẻo của cái tuổi vô tư. Cũng không biết bao nhiêu lần, lũ trẻ chúng tôi đã soi mình xuống giếng, hét thật to cho giọng mình vang vọng mà tưởng mình cũng là con hổ ngốc trong cổ tích.

     Giếng Vừng là một thức quà đặc biệt tạo hóa dành cho làng tôi, dành cho tuổi thơ tôi. Thế nhưng, tiếc thay, bây giờ giếng Vừng không còn “huy hoàng” như ngày xưa yêu dấu. Chú Tư đã già, con cái đều đi làm xa, nên các anh chị đã khoan thêm một cái giếng sát nhà cho tiện bề sinh hoạt. Làng tôi cũng có thêm rất nhiều giếng đào, giếng khoan…

     Giếng Vừng bây giờ bị lãng quên. Hồ sen bên giếng cũng tàn dần vì không có người chăm sóc. Thỉnh thoảng, có dịp về quê, tôi cũng qua thăm giếng Vừng. Nhưng chính tôi cũng ngồi buồn mà “khóc tuổi thơ bay”.
Mạch nguồn dịu ngọt lặng lẽ âm thầm như giếng Vừng thương nhớ…

Ký ức khoai dong riềng

T

háng giêng đến rất nhanh mà qua đi rất chậm. Người làng tôi thường có câu cửa miệng “Tháng Giêng ăn nghiêng bồ lúa” như thế cũng đủ biết tháng giêng nó dài rộng đến mức nào rồi.

     Trong thơ ca, tháng giêng tuyệt đẹp. Tháng giêng với ngạt ngào hương bưởi, hoa lá khoe sắc khoe hương, én chao liệng trên cánh đồng lúa xanh rờn. Tháng giêng với tiếng trống chèo say nghiêng ngã đình làng với những lời hẹn hò tình tứ. Tháng giêng mưa bụi bay, hoa xoan vương lên mái đầu người thương với những ánh mắt trìu mến lãng mạn làm cho người ta nôn nao với những đêm trường khó ngủ…

Tôi lớn lên khi cảnh nhà sa sút, cả làng sa sút nghèo xác nghèo xơ. Tháng giêng đói quay quắt, đói mòn đói mỏi. Cả làng đều đói, cả làng đều trông chờ vào khoảng vườn trồng cây khoai dong riềng để cầm cự qua tháng giêng dài đằng đẳng. Cây khoai dong riềng dễ trồng, dễ sống, trồng ở đâu cũng mọc lên xanh tốt, trồng ở đâu cũng cho nhiều củ và củ to cả. Làng tôi vốn là làng cổ nghe nói đã xuất hiện từ xa xưa. Làng ở vào chỗ trũng thấp gần bãi bồi của một con suối nhỏ. Đất trong làng nhiễm mặn lâu đời nên trồng các loại cây khác đều không thích hợp chỉ có cây khoai dong riềng là xanh tốt bời bời mà thôi. Khi thu hoạch xong những củ non không ăn được bỏ lại từng khóm nhỏ vương vãi khắp vườn. Bước sang tháng hai củ non bắt đầu nẩy mầm. Một sức sống được hồi sinh trong những mẩu củ con con mà trước đây tưởng chừng như là đã chết dưới cái rét và hanh giá của mùa đông. Mẹ tôi lấy mẫu cây đã nẩy mầm đó làm cây giống đó để trồng cho vụ tiếp theo. Mảnh vườn được mưa xuân làm cho ẩm ướt, cây cỏ tây cây rau chân vịt, rau cúc dại đã mọc xanh um. Mẹ tôi và người làng không cần cuốc đất, chỉ đào hố rồi vùi củ giống đã lên mầm sẵn và lấp đất lại. Trồng cây khoai dong riềng không tốn củ giống, không tốn phân và rất đỡ công lao động cực nhọc.

Chỉ sau vài ngày cây dong riềng mọc lên khỏe mạnh. Những cái lá to như cái lá dong gói bánh tết màu phớt tía xòe ra che kín khoảng đất dưới gốc cây. Đám cỏ dại bị rễ cây dong riềng lấn át dần dần mất đi sự sống, chỉ có cây cỏ gấu lì lợm còn tồn tại nhưng cũng ốm yếu tong teo.

     Cha mẹ tôi bận việc chẳng mấy ai quan tâm đến đám mảnh vườn trồng cây khoai dong riềng cả, chỉ có bọn trẻ con là thích thú với khoảnh vườn mà thôi.Trời chuyển dàn sang mùa hè. Cây khoai đã tốt quá đầu bọn nhỏ tán lá đan xen nhau che mát rượi. Khu vườn là nơi rất yêu thích cho bọn trẻ. Không những chúng tôi mà cả đàn gà cũng rất thích chui xuống gốc cây dong riềng râm mát để kiếm mồi và tránh nắng. Đàn gà ri rích suốt cả ngày, có mấy con gà trống tinh nghịch còn nhảy lên cây dong khum khum định cất tiếng gáy. Không chịu được sức nặng của gà trống cây dong oặt xuống làm cho chú gà giật mình cục tác loạn xạ, đàn gà mái và gà con kêu toáng lên chạy tứ tán. Mùa hè có những cơn mưa bất chợt, chúng tôi kéo nhau vào trú dưới bụi cây đưa tay ngắt chiếc lá đội lên đầu chờ cơn mưa tạnh.

     Chúng tôi chơi trò trốn tìm, chạy trốn từ vườn nhà này sang vườn nhà khác. Chơi trốn tìm chán lại cắt lá khoai và thân cây khoai bày trò đồ hàng, dựng nhà dựng quán. Tuổi nhỏ ngây thơ chỉ biết ăn chơi rồi đi học. Mọi lo toan cuộc sống nào có biết gì. Cha mẹ suốt đời tần tảo nắng sương cũng chỉ mong sao đàn con khôn lớn. Cuộc sống cứ trôi đi và đám trẻ con vẫn vô tư lự. Mỗi buổi đi học về tôi được mẹ phân công lấy lá và có khi cả cây khoai dong non cắt nhỏ ra nấu nhừ lên cho lợn ăn.

     Một buổi sáng chợt trời se lạnh. Cơn gió se se tháng mười báo hiệu mùa đông sắp đến. Ngoài vười thấp thoáng đã thấy le lói một vài bông hoa dong riềng nở sớm. Bọn trẻ vui mừng chờ hoa dong riềng nở rộ. Khi hoa dong riềng nở cả một khoảng vườn đỏ rực dưới cái ánh nắng vàng của tiết trời đầu đông. Tất cả bọn trẻ giờ đây tập trung ra vườn chọn những bông hoa to đã chín bứt ra và hút mật. Một thứ nước ngọt lừ tinh khiết làn cho bọn trẻ say sưa luồn khóm này sang khóm khác. Bọn trẻ dậy sớm đi khắp các vườn trong xóm tranh nhau với đàn chim bã trầu cũng tập trung về đây hút mật. Con chim bã trầu nhỏ xíu, chúng chỉ bằng ngó tay cái người lớn, có bộ lông màu đỏ. Chim bã trầu có cái mỏ dài cong cong với một biệt tài vừa vỗ cánh vừa hút mật. Những bông hoa chúng đã hút bọn trẻ hút lại chẳng ngọt một tẹo nào.

Vườn khoai bây giờ lá đã ngã sang màu vàng úa. Dưới gốc củ khoai trồi lên xây xung quanh gốc tựa như có bàn tay nào xếp vào vậy. Cái tết đã đến rất gần, khoai cũng đã già, trong làng mọi người đã bới khoai để độn vào những bữa cơm gia đình. Củ khoai dong từng nải trải dài ra như củ riềng củ gừng củ nghệ. Ban đầu mẹ chọn củ già luộc lên cho chúng tôi ăn mỗi sáng để đi học ăn. Nồi khoai mẹ luộc từ tối hôm trước đã nguội ngắt, anh em tôi dùng tay bóc vỏ khoai rồi ăn ngon lành. Ngồi bên bếp lửa thưởng thức vị khoai ngọt, dẻo quẹo trôi vèo vào những cái dạ dày đói làm cho chúng tôi thấy ấm áp và hạnh phúc vô cùng. Củ non mẹ dành gọt vỏ để độn vào giờ cơm chính. Đến bữa ăn cha mẹ dành cho con bát cơm đầy còn lại khoai cha mẹ ăn thay cơm. Thấy cha mẹ ăn ngon lành chúng tôi cứ tưởng la khoai ngon lắm. Bây giờ lớn lên mới thấy được tấm lòng thương con vô bờ bến của mẹ cha và cũng thấy mình sao vô tâm đến vậy. Vườn khoai dong riềng đã cùng gia đình chúng tôi và cả làng qua cái đói của mùa gáp hạt.

     Năm tháng qua đi, cuộc sống khó khăn cũng đã trôi vào quá khứ. Chúng tôi đi học rồi đi làm xa. Mảnh vườn xưa được chia ra để làm nhà riêng cho các anh chị em. Trong tiềm thức mảnh vườn xưa sao rộng thế, nó chứa đựng bao nhiêu là ký ức của cả mấy thế hệ anh em chúng tôi. giờ đây nhìn lại mảnh vườn thấy nhỏ tý tẹo, nhà sát nhà tường cao cổng kín. Cuộc sống khấm khá hơn trong làng không còn ai trồng cây khoai dong riềng nữa. Nhà nào còn tý đất thì để trồng rau, trồng vài cây hoa cây cảnh.

     Cây khoai dong riềng chỉ còn lại kỷ niệm neo đậu vào trong nỗi nhớ quê hương làng xóm. Mỗ khi làn gió heo may se lạnh đi qua, kỷ niệm xưa lại trở về rưng rưng trên khóe mắt. Hóa ra quê hương không phải cái gì to tát lớn lao cả. Một ngọn khói chiều, một đóa hoa dong riềng cũng đủ làm cho ta thao thức. Quê hương là vị ngọt bùi của củ khoai dong riềng đã nuôi ta qua những ngày khốn khó. Quê hương là bóng hình cha mẹ đã dành cho con bát cơm qua ngày đói hoa cả mắt. Hoa dong riềng của làng quê cháy đỏ thắp sáng trong trái tim ta mãi mãi.

Niệm khúc tháng Giêng

T ​háng Giêng về rồi! khi giàn tầm xuân khoe sắc hồng thắm cả góc sân là anh lại thủ thỉ vào tai tôi những lời êm ái như thế! Đúng thật! Tháng Giêng của tôi, Tháng Giêng của những niệm khúc xa xôi đã về…

​Tháng Giêng, Sìn Hồ ấm áp hơn những ngày đông lạnh giá. Trên khắp nẻo nương xa, sương mù lãng đãng bay đi nhường chỗ cho nắng xuân ấm áp. Những hạt nắng vàng ươm từ trên không trung lao xuống một cách vội vã, cứ như, nếu chậm lại một nhịp thì mùa xuân sẽ lại đi mất. Khi cả không gian bao la được trải thảm vàng của nắng thì nắng lại thong dong khắp nẻo đường rừng.
Tôi đến Sìn Hồ một ngày xuân như thế!

Sìn Hồ (với tôi lúc ấy) thực xa lạ. Tôi đã dò tìm trên bản đồ đất nước về vùng đất cách quê hương xứ sở nửa nghìn cây số và đã nhiều lần từ chối chuyến đi đến miền đất hứa này. Nhưng nỗi buồn của mẹ, niềm mong mỏi của cha được nhìn thấy con gái yên ổn buộc tôi miễn cưỡng đồng ý.

Sìn Hồ vẫn rất xa lạ với tôi. Suốt cả hành trình đến với Sìn Hồ năm ấy của tôi đầy những hoang hoải trong lòng. Suốt đêm tôi không thể ngủ. Bởi trong đầu có cơ man là những viễn tưởng mà tôi tự vẽ ra… “Đến Lai Châu rồi” bác tài xế cho xe về bến và hô to để tất cả hành khách xuống xe. Tôi vẫn nhớ, lúc ấy khoảng 5h sáng. Bến xe nằm trên đường 4D, con đường huyết mạch của thị xã lúc bất giờ. Trong làn sương mỏng ngày xuân, tôi đã thấy xa xa những ngọn núi trùng điệp, thấp thoáng vài điểm sáng li ti như bóng đom đóm lập lòe. Cha thấy tôi hoang mang liền giải thích: “Những điểm sáng ấy là nhà của người dân. Họ dậy sớm đỏ lửa chuẩn bị cho ngày mới đi nương”. Đợi trời sáng, cha con tôi tiếp tục bắt chuyến taxi đi vào Sìn Hồ. Bác tài xế nhắc nhẹ: “60 km nữa sẽ đến nơi” rồi chỉ tay về hướng con đường như sợi chỉ bám sườn núi khiến tôi rùng mình. Câu nói duy nhất mà tôi đã nói trên chuyến xe đi vào Sìn Hồ hồi ấy: “Bao giờ thì đến nơi?”. Mỗi lần như thế, bác tài xế lại hất hàm về phía đỉnh núi: “Đến đỉnh núi kia là đến nơi”. Cứ như thế, tôi đếm từng đỉnh núi chiếc xe vụt qua… và cuối cùng, khi mặt trời lưng lửng trên đầu thì tôi đặt chân trên đất Sìn Hồ. Nắng xuân vàng rực những bông dã quỳ cuối mùa đung đưa trong gió. Thi thoảng lại một vài người dân chân trần cõng củi, cõng nước đi qua… Sìn Hồ sao lạ thế? Gà cắp nách, chó, ngựa dắt tay, thổ cẩm, váy Mông tung tăng xuống núi. Cha tôi bảo: “Người ta đi chợ phiên”. Chợ phiên quê tôi có thế đâu nhỉ? Xe máy, xe đạp chen kín lối đi…thế mà… Tôi thấy nhớ mẹ, nhớ quê ngay khi vừa đến Sìn Hồ.

Tháng Giêng, ở quê tôi mưa xuân lây rây cả tháng. Tiết trời se se lạnh, thi thoảng có nắng rám vàng những quả bưởi còn sót lại sau kỳ tết Nguyên Đán. Hết ba ngày tết là cả làng xuống ruộng cấy lúa vụ mới. Mẹ bảo: “Ra Giêng tiết trời ấm, hạt dễ nảy mầm, mạ non xuống ruộng được đất ủ ấm cũng nhanh bén rễ”. Thế nên, bao đời nay ở quê như thế! tháng Chạp nhà nhà xuống ruộng cày ải, lấy nước ủ đất rồi bừa lên để đất tơi mềm. Suốt mấy ngày tết, đất được ngâm nước cho bùn lắng, đợi hết ba ngày tết, xuống mạ đến rằm tháng Giêng là hết việc đồng áng. Việc đồng xong thì cả làng lại chặt mía. Mùa thu hoạch mía ở quê tôi cũng vui như hội. Vẫn là nếp làng ra đồng tất thảy. Người già ngồi chẻ lạt; đàn bà, phụ nữ thì chặt mía; đàn ông bó mía và khuân vác lên xe; đám trẻ nhặt lá chăn trâu, chăn bò. Ai có việc của người ấy…

Sau khi vào cơ quan nhận công tác, cha con tôi đi hết các khu trọ ở thị trấn. Cuối cùng, cha chọn cho tôi một nhà trọ có giàn tầm xuân trước cổng. Những chùm hoa xúm xít nép vào nhau mỗi bận gió ùa qua. Hoa hồng cánh mỏng, từng chùm, từng chùm phủ kín những cành khẳng khiu, gai góc khiến ai đi qua cũng trầm trồ. Tầm xuân là giống hoa hồng leo có thể nói là cổ xưa nhất. Một thời người ta gọi nó là hoa dại, vì sức sống mãnh liệt của giống cây hoa leo này. Như cha tôi nói, thì giống hoa này rất dễ sống. Chỉ cần cắt cành cắm vào đất là nó có thể tự tìm cho mình một cuộc đời mới. Hoa tầm xuân hồng phấn, hương thơm ngát nhẹ trong gió thoảng và hơi hắc khi ở gần… Như một mối nhân duyên, tôi đã gặp người đàn ông của mình ở khu trọ có giàn tầm xuân khoe sắc ngày mùa. Và sau này, mỗi bận về ăn tết, cha lại nhắc chuyện tìm phòng trọ năm nào. Cha chọn phòng trọ cho tôi không phải vì giàn tầm xuân bung nở đẹp như tranh mà vì có một người đồng hương ở đó…

Sìn Hồ thành quen. Tôi thích những chiều lang thang quanh thị trấn. Tháng Giêng, đá cuội trong lòng suối lật mình phơi nắng. Cây cầu treo dây võng lắt lẻo vắt ngang suối Hoàng Hồ như tấm vải đã sờn, đôi chỗ nhịp cầu bị tụt một góc, trống hoác khiến nó chỉ được dùng đến khi mùa lũ về. Còn những ngày nước cạn hoặc mùa khô, người dân vẫn thích vọt xe hoặc bì bõm dưới lòng suối hơn là đi trên cây cầu đung đưa cánh võng. Trên những cánh đồng, gốc rạ mục ngủ rạp để cỏ dại lấm tấm nhú mầm. Đàn bò nhởn nhơ gặm cỏ đến tận chân núi, khi chiều buông, bụng mới chỉ lưng lửng nên chẳng chịu về chuồng. Chiều muộn, sương mềm rũ, lả lướt trên mái đá, lạnh run khi trăng lên nhưng đóa tầm xuân nở rộ lại mê mải xòe hoa khiến tôi cứ mê mẩn, luyến tiếc…

Tầm xuân ở Sìn Hồ nhiều vô kể. Bờ rào nhà nào cũng có một khóm tầm xuân vươn mình ôm trọn cả khu vườn. Thế nên, Tháng Giêng, tầm xuân nở rộ là mùa xuân bắt đầu chín. Tiết trời lập xuân, kết thúc chu kỳ của tiết Đại Hàn, vạn vật sinh sôi, đất trời ngời sáng…

Tháng Giêng có Tết Nguyên Tiêu hay còn gọi là Tết Thượng Nguyên. Khi còn sống, cha tôi vẫn nhắc lời ông bà ta xưa: “Cúng cả năm không bằng rằm tháng Giêng”. Ý rằng, với người Việt Nam, rằm tháng Giêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi Tết Nguyên Tiêu chính là ngày rằm đầu tiên trong năm Âm lịch. Xa xưa, người Việt cúng ngày rằm tháng Giêng để cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Sau ngày rằm thì mới bắt đầu xuống đồng gieo cấy. Nhưng ở quê tôi thì như tôi đã nói ở trên, xuống đồng sau ba ngày Tết nên rằm tháng Giêng được xem như ngày Tết muộn. Tết muộn nhưng không kém phần quan trọng so với tết Nguyên Đán. Mẹ tôi – dù một mình – vẫn làm đủ mâm cỗ thịnh soạn để dâng hương bàn thờ tổ tiên. Mẹ bảo: “Cha là con trưởng, cha mất thì mẹ thay cha, rồi mẹ mà theo cha mấy chị em phải nhớ lấy mà làm. Sau rằm tháng Giêng lại 12 tháng nữa mới có Tết…”.

Tháng Giêng, cao nguyên ngập nắng còn quê tôi lại lắc rắc mưa xuân. Tôi không dễ quen với cái nắng hanh hao trên núi nhưng lại thương nhớ hương sắc tầm xuân nhè nhẹ trong sương. Tôi miên man với những ký ức. Tháng Giêng, với nỗi nhớ cha, nhớ quê nhà chênh vênh dáng mẹ… Tháng Giêng đã về rồi đó em…

Để lòng bận bịu

Để lòng bận bịu

ra Giêng, dẫu lòng người đã mặc định sang Xuân, đất trời năm nay không hiểu sao vẫn bịn rịn mãi với khúc giao mùa, Đông cứ dùng dằng cùng sương lạnh và gió rét. Chiều xám lạnh giăng mây xuống những thung xa đồi vắng khiến người bất giác nao nao buồn, không dưng thấy thèm cái màu tươi sáng óng ánh ngọc ngà của những ban mai đầu xuân ấm áp.

Mới hôm nao hương Tết đậm đà thế nay đã tan mau theo sự tàn úa của những bông mai, bông đào cuối cùng, chỉ còn những đài hoa đang kết trái và lộc non dần sắt lá lại trên cành.

Tết trôi qua nhanh như một giấc chiêm bao, khiến người ta giật mình sực tỉnh, thấy những ngày qua mình mải chạy đua sắm Tết, quá vồn vã đón Xuân mà chưa kịp tận hưởng, nâng niu từng khoảnh khắc mới mẻ, ngọt lành của năm mới. Đời người, tiếc nuối lớn nhất là bỏ lỡ thời gian, mà thời gian đẹp đẽ nhất của đời người lại chính là mùa xuân và tuổi trẻ. Làm sao níu giữ được tháng ngày khi xuân-hạ-thu-đông mãi chảy trôi theo quy luật của đất trời, và cuộc sống của chúng ta vẫn luôn như guồng quay bất tận?

Có phải sự bận bịu là tác nhân lớn nhất khiến con người mệt nhoài theo năm tháng? Như kẻ đeo hành lý trên vai, mang gánh nặng đường dài, ai trong chúng ta lại chưa từng có cảm giác đi hoài không tới đích khi suốt cuộc đời cứ chồng chất, nối tiếp những lo toan cơm áo cửa nhà, sự nghiệp công danh, tiền tài sức khỏe? Có phải chỉ khi ngày khép lại và màn đêm buông xuống, khi những ồn ào náo động của cuộc đời phồn tạp ngoài kia tạm dừng sau cánh cửa, khi thân, tâm đều được nghỉ ngơi sau những giờ làm việc mệt mỏi, căng thẳng, con người mới được tận hưởng chút ít sự thảnh thơi? Hay chỉ đến kì nghỉ lễ, khi không phải giải quyết việc cơ quan, được đi du lịch đâu đó cùng người thân, bè bạn, mới là lúc con người ta tận hưởng cuộc sống? Có phi lí không khi cả đời chúng ta học hành, phấn đấu để có công ăn việc làm, có nghề nghiệp ổn định, không chỉ vì thu nhập mà còn vì để cuộc sống cá nhân trở nên có ý nghĩa, rồi lại mong có một ngày được thoát li tất cả mọi sự vướng víu, bộn bề của công việc để sống trong sự nhàn rỗi, thảnh thơi? Suốt nhiều tháng năm dài tôi đã ngộ nhận như vậy nên lúc nào cũng thấy mình vất vả, cảm giác quanh năm như trong cuộc chạy marathon không có điểm dừng.

Đến nửa đời tôi mới nhận ra, chính niềm vui nhỏ bé trong từng khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chính sự trải nghiệm đầy đủ mọi cung bậc trong đời như buồn/vui, sướng/khổ, được/mất cùng sự vật lộn vươn lên mỗi ngày trong hành trình sống mới làm nên ý nghĩa đẹp đẽ của cuộc đời. Nhớ lại, những ngày hè năm nọ khi chồng con đưa nhau về quê nội, tôi ở lại một mình vì còn công việc cơ quan. Sự nhàn rỗi ban đầu được tôi đón nhận một cách hào hứng, nhưng chỉ sau mấy ngày, tất cả trở nên trống trải nhạt nhẽo đến mức vô vị. Dù không phải tất bật thức con dậy, hối hả giục chúng đánh răng rửa mặt, thay áo quần, ăn sáng đến trường, không phải lo bữa trưa, bữa tối nhưng đời bỗng chênh vênh như mất đi điểm tựa. Thì ra, sự bận bịu mà tôi chung sống mỗi ngày không làm tôi trở nên kém cỏi mà chỉ thúc đẩy tôi nỗ lực chu toàn hơn để tròn vai trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Và tôi tin, những người phụ nữ, những người đàn ông đang hối hả đâu đó trên đường, ngoài ruộng nương, trong công ty, trong trường học, ở văn phòng hay xí nghiệp…đều đang gánh vác sứ mệnh cao cả, thiêng liêng của mình, là mẹ là cha, là vợ là chồng, là con là cháu, là điểm tựa thân yêu của những người mà họ sẵn sàng chịu đựng mọi vất vả, gian truân, thậm chí hi sinh để bảo vệ.

Để lòng bận bịu

Càng trưởng thành, càng trải nghiệm cuộc sống ở nhiều chiều kích khác nhau, tôi càng nhận ra, bận bịu hay nhàn rỗi không nằm ở thời gian, công việc mà nằm ở cách ta tận hưởng cuộc sống. Người ta vẫn có thể thong thả, nhàn rỗi ngay cả khi bận bịu, đó là phong thái sống tận hưởng sự thảnh thơi trong từng khoảnh khắc. Tôi biết có những con người của công việc, thời gian của họ là vàng bạc, nhưng chính họ lại cho thấy, dường như thế giới đang trôi vội vã ngoài kia không liên quan đến mình khi có thể thong thả nhấp một chén trà trong sương sớm trước giờ làm việc, đọc một quyển sách khi đang đợi giờ bay, dừng lại một vài giây khi đang đi trên đường để giơ máy ảnh, điện thoại ghi lại một một hình ảnh đẹp đẽ nào đó của thiên nhiên, đời sống đang hiện ra trước mắt… Đó chắc chắn không phải là sự góp nhặt niềm vui nhất thời hay sự tìm kiếm hạnh phúc ngắn hạn, mà xuất phát từ một lối sống biết chắt chiu những giá trị quý báu trong từng giây phút của cuộc đời.

Tôi rất thích một câu nói: “Hạnh phúc là hành trình, không phải là đích đến”. Điều làm con người già nua, phiền muộn đôi khi không phải vì tuổi tác, hoàn cảnh mà vì cảm giác mệt mỏi khi đuổi theo những mục tiêu xa vời. Những lo lắng về tương lai, những nuối tiếc hay hoài tưởng về dĩ vãng cũng dễ khiến người ta để vụt mất những giờ phút quý báu của hiện tại. Hãy để lòng bận bịu với những xúc cảm yêu thương, như cách trái tim ta vẫn luôn đập trong từng giây phút. Một cõi lòng an tĩnh không phải một cõi lòng vô ưu mà chính là biết điều gì cần nắm giữ, điều gì cần buông bỏ, biết chuyển hóa hài hòa những điều cần và những điều yêu thích, những giá trị cốt yếu và những giá trị làm cho cuộc đời trở nên đẹp đẽ hơn.

Như trong chuyện Nhà giả kim của Paulo Coelho, có một đoạn khá thú vị, một thương nhân gửi con trai mình đến một nhà thông thái, nhờ ông dạy cho người con bí quyết để đạt được hạnh phúc. Anh con trai đi ròng rã bốn mươi ngày từ sa mạc mới đến được tòa lâu đài nguy nga trên núi cao, “nhưng ta yêu cầu anh làm hộ một điều”, nhà thông thái nói rồi đưa cho anh một chiếc muỗng con đựng hai giọt dầu và bảo, hãy cầm theo cái muỗng này và đi xem lâu đài, nhớ đừng làm sánh dầu nhé. Người con trai ban đầu chỉ chăm chăm vào hai giọt dầu nên đã không thể nhìn thấy những thứ tuyệt mĩ trong tòa lâu đài như những tấm thảm Ba Tư, khu vườn tráng lệ, những cuộn giấy da tuyệt hảo… Cũng thế, khi được yêu cầu hãy mang cái muỗng theo và quan sát lại, anh con trai đã đánh rơi hai giọt dầu trên muỗng lúc nào không hay.

Mỗi chúng ta trong đời chẳng phải đều đang mang theo những giọt dầu trên muỗng đó sao – như bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Nhưng vẻ đẹp của tòa lâu đài – những giá trị sống quý báu đang hiện diện quanh mình – cũng cần lắm cho chúng ta và chúng ta cũng cần khám phá, ngắm nghía để thấy đời đẹp và đáng yêu hơn, phải không?

Vậy đó, “bí quyết của hạnh phúc là biết ngắm nhìn mọi thứ tuyệt mĩ trên thế gian này mà không hề quên hai giọt dầu trên muỗng”. Nhà thông thái đã nói như vậy. Xuân rồi sẽ tàn, tuổi trẻ rồi cũng trôi qua nhưng tất cả không biến mất khi ta biết kết đọng tinh chất cuộc đời mình trong từng phút giây của đời sống. Hãy để lòng bận bịu theo cách của bạn nhưng cũng đừng quên, trên chiếc muỗng của mỗi chúng ta, luôn có những giọt dầu cần nâng niu, chăm chút.