25 C
Hanoi
Thứ Bảy, Tháng 10 18, 2025

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...

Hát những giai điệu yêu thương

T huở còn thơ dại, tôi là...
Trang chủ Blog Trang 3

Phút cuối êm đềm

Không biết sao tôi rất hay nghĩ về thế giới, về vũ trụ trước khi mình chào đời và sau khi mình chào lần nữa…

Trong vũ trụ ấy đã có bao nhiêu sự đổi thay, biến động giữa cái xao động rì rào của thời gian miên viễn; trong thế giới ấy, bao con người đã nối tiếp nhau sinh ra, lớn lên, già, rồi chết… Và bên cạnh hầu hết sự sinh diệt âm thầm trong vô danh, tôi vẫn còn biết tới những cái tên thông qua CÁI HỌ ĐỂ LẠI, dẫu chỉ một chùm nho của Aesop; câu chuyện về cuộc chiến thành Troy của Homer; mặt đất đẫm ánh trăng và lạnh hơi sương của Lí Bạch; làn khói sóng phút chiều hôm cùng niềm quê da diết của Thôi Hiệu; nàng Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh của Nguyễn Du; rồi công thức mang tên Pytagoras, học một lần mà đi theo tới cuối cuộc đời về mối liên hệ giữa ba cạnh tam giác vuông; Marie Curie với Poloni – nguyên tố hóa học đầu tiên bà phát hiện ra, mang tên đất nước Ba Lan thân yêu của bà…

Không chỉ trong những di tích phi vật thể, tôi đã được nhìn thấy khu lăng mộ cất giữ giấc ngủ êm đềm của các vua chúa thời Nguyễn (theo cách nói của một nhà văn xứ Huế). Sau khi đi qua khu lăng mộ khá “sặc sỡ” của vua Khải Định, khu lăng mộ hoa lá thơ mộng, lãng mạn của vua Tự Đức, tôi dừng lại rất lâu trước khuôn viên mênh mông của khu lăng mộ vua Minh Mạng, bị hấp dẫn kì lạ bởi sự thâm nghiêm, trang nhã tỏa ra từ kiến trúc, ao hồ, cỏ cây nơi đó, ngắm nhìn một dạng thái khác của sự sống đang trường tồn, hiện hữu trước mắt…

Hoặc gần đây, khi về thăm lại một ngôi chùa làng nhỏ bé, bình yên vô cùng trong kí ức tuổi thơ ở thị xã Sơn Tây, tôi bùi ngùi đi trên con đường lát gạch đỏ vuông vức, lấp loáng ánh sáng từ mặt đường phố Cầu Trì khá đông đúc dẫn vào tới sân chùa, tỏa ra các lối nhỏ…, mà kì lạ là tôi chỉ nhìn thấy hai sư cụ trụ trì cách đây hơn nửa thế kỉ, cụ già tóc đen, hiền hậu, thấp nhỏ, cụ trẻ tóc bạc trắng, cao lớn, hơi nghiêm hơn…, các cụ đã từng là những người thân yêu vô cùng của mấy bà cháu tôi, giờ cả hai cụ và bà tôi đều đã về cõi khác.

“Cõi khác”, hay “miền mây trắng”, hay “cõi hư vô”…, đó là những cách gọi khác nhau để chỉ một nơi mà thực tình tôi không hình dung nổi, và mấy ai trên đời này có thể hình dung nơi ấy ra sao, sáng hay tối, lặng lẽ, tịch mịch hay náo loạn, ồn ào, yên ả êm đềm hay lạnh lẽo đáng sợ…! Tôi chỉ hình dung phần nào thế giới thực sau khi một con người chào nó lần cuối – và không hết nỗi băn khoăn vì cái nghịch lí giản dị dành cho tất cả mọi sinh linh trên đời, không ngoại trừ ai, dẫu anh hùng hay kẻ đớn hèn, là vĩ nhân hay một kiếp vô danh…, họ sinh ra, lớn lên, học hành, yêu đương, làm lụng, vui buồn… rồi già đi, rồi tan biến, sự tan biến của hầu hết những kiếp người thường nhỏ bé tới mức không mảy may làm xao động mặt ao Đời phẳng lặng trong cái ồn ào, náo động, chảy trôi…, mặt trời vẫn mọc mỗi bình minh, những cuộc chiến phi lí, phi nhân vẫn diễn ra nơi này nơi khác trên bề mặt địa cầu bầm dập vết thương, những đứa trẻ vẫn mím môi tô tròn nét chữ, những lứa đôi vẫn khi yêu đương khi thù hận, khi nhạt tênh cả thù hận lẫn yêu đương… Trong lúc ấy, có những sinh linh từng sống, từng rất ồn ào hoặc lặng lẽ, từng rất tử tế hoặc tồi tệ…, đã vĩnh viễn thuộc về thế giới mà tôi luôn nghĩ là lạnh dầy bóng tối.

Cách đây mấy năm được share đoạn văn ngắn của Oscar Wilde: “Death must be so beautiful. To lie in the soft brow earth, with the grasses waving above one’s head, and listen to silence. To have no yesterday, and no tomorrow. To forget time, to forgive life, to be at peace”. Ngày ấy tôi đã thử dịch thành văn vần:

Phút cuối đẹp làm sao
trong đất mẹ êm đềm
cỏ rì rào êm ả
lặng yên nghe hư vô
Lòng không còn quá khứ
cũng chẳng có tương lai
thời gian như dừng lại
lãng quên và yên bình

Tôi đã nghĩ mãi về từ “death” xem nên dịch là “cái chết” hay “sự kết thúc”, hay “cái kết”, sau tôi chọn “phút cuối” – dù đọc lại cả câu nói của Oscar Wilde, không thấy có “phút cuối”, chỉ là một trạng thái êm đềm yên ả vô cùng khi con người hòa nhập với thinh không, được bao bọc trong đất mềm dịu dàng, được lắng nghe sóng cỏ rì rào, dạt dào đâu đó, nghe sự tịch mịch của cõi bất sinh bất diệt, vĩnh cửu vĩnh hằng. Trong sự hòa nhập ấy, con người thực sự trôi cùng dòng thời gian vô thủy vô chung, không có bắt đầu hay kết thúc, không còn kí ức hay mơ tưởng, không phân biệt khoảnh khắc hay vĩnh hằng, nhẹ lòng “cho hận thù vào lãng quên”, bao dung với đời, tha thứ cho mình, buông lơi trong bình yên vĩnh cửu ngọt ngào. Không thể phủ nhận câu văn của Oscar Wilde đã loang thấm vào góc khuất khá tăm tối trong tôi mỗi khi nghĩ về “phút cuối”, đem lại chút gì đó như sự an lành.

Nhưng tôi hiểu cái kết êm ả ấy chỉ dành cho những tấm lòng lương thiện, nhất là dành cho những ngọn lửa đã đốt cháy trọn vẹn tâm huyết, sức lực của mình trong dâng hiến, không muốn lay lắt, leo lét trong lụi tàn thảm hại, chủ động tắt lửa trong êm đềm! Như trường hợp của nữ sĩ Quỳnh Dao, tác giả của những cuốn sách thực ra tôi chưa hề đọc vì ngày ấy khi xem phim Hoàn Châu cách cách, tôi hiểu đó không thuộc tạng tôi yêu thích; tuy nhiên, mấy nay khi đọc về sự lựa chọn cách “tắt lửa” của bà, tôi thực sự xúc động!

Tôi bỗng nhớ tới câu chuyện về loài hoa anh đào của xứ sở Phù Tang, loài hoa rực rỡ thắm tươi tới phút cuối cùng, không cam tâm để người đời nhìn thấy sắc tàn héo vô dụng; không bám víu lắt lay, khi nhận thấy sự dâng hiến đã gần tới tột cùng thì thanh thản nương theo ngọn gió mà rời cành, lượn bay trong không gian, dâng tặng những kẻ hữu tình một vẻ đẹp cao thượng tuyệt diệu lúc lìa đời!

Màu hoa thương nhớ

Từ khi khánh thành đoạn đường tránh lũ từ thị trấn Tiên Kỳ vòng lên bãi đá Lò Thung về làng Lộc Yên (thuộc xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam), tôi không phải chạy xe theo đường quốc lộ 616 đông đúc mỗi bận đi về nhà ba mẹ. Tôi thích con đường mới, thưa vắng người và hiển nhiên, nó thơ mộng hơn nhiều.

     Con đường này ôm chân những quả đồi thấp thoai thoải xanh, uốn lượn men bờ sông mà ven đường là lũ bìm bìm trùng trùng giăng phủ. Con đường ghi dấu bao nhiêu là kỷ niệm của lũ trẻ nhà quê buổi đi học, buổi chăn bò, hái rau, vơ củi, bắt ốc… và cả những trận xô xát tranh giành “chiến lợi phẩm”, mà phần thắng thường được quyết định bằng trò “oẳn tù tì” và tiếng cười giòn tan.

     Vậy đó, có nhiều duyên cớ để người ta yêu một con đường. Nhưng giao điểm dễ gây xúc cảm nhất, đó chính là ảnh hình gợi nhắc tuổi thơ. Tôi thêm yêu con đường về quê, đơn giản chỉ vì nó chạy ngang qua một đồi sim. Cuối xuân đầu hạ, hoa tím biêng biếc rồi nhạt dần, nhạt dần thành màu hồng phơn phớt mong manh. Hạ gọi nắng về cho hoa thêm rực rỡ, dù sim thường mọc ở vùng đất cằn khô. Nên hoa sim thường được xem là khúc dạo đầu của mùa hạ, gợi cả một miền thơ…

     Mùa xuân, trên từng nhánh lá, nụ hoa cứng cỏi mọc dày. Từ độ nhỏ li ti như đầu ngón tay em bé, nụ búp màu xanh xám lớn dần lên, nở ra cánh tròn và trái sim khi chín cũng tròn lựng, tím rịm. Loài hoa tím cả tuổi thơ ấy mọc nhiều ở vùng trung du đất đai khô cằn. Nhưng cũng thật lạ, trời càng nắng, hoa càng đẹp. Bình dị, mong manh nhưng cũng thật kiên cường trước điều kiện sống khắc nghiệt.

     Thuở nhỏ, từ xóm nhà tôi, đám trẻ dắt bò ra được đến đồng ruộng Hựu, ruộng Thị là phải leo qua hai quả đồi. Mà đường vừa dốc, vừa đá. Trâu bò rất sợ bước trên đá vì móng trơn không giống móng loài dê, nên chúng đi rất chậm trong nỗi sợ sệt. Như đoạn ra gốc cốc Dương Chùa, lũ mục đồng đứa cầm dây thừng lôi phía trước, đứa quất tới tấp phía sau, mà bầy bò trâu vẫn lọc cọc từng bước một. Giờ nghĩ lại thấy thương cả tuổi thơ, thương quá đỗi những con vật ngoan hiền cần mẫn. Nhưng hành trình nhọc nhằn ấy lại được đền đáp bởi bao nhiêu là cỏ ngon. Trong khi lũ trâu bò tha hồ thưởng thức bữa tiệc cỏ thơm tho với tiếng gặm rào rào sắc ngọt, thì những chủ nhân tí hon của chúng cũng được đắm mình với niềm vui bất tận.

     Mùa sim nở, mấy đứa con gái thích quá, hái mấy chùm giắt trên bó củi đội về. Mùa sim chín, vẫn còn một ít hoa nở muộn. Nhưng trái oằn cây, từng chùm sim tím thẫm no tròn căng mọng, vỏ mịn nhung. Thế là tha hồ hái, tha hồ ăn và chất đầy những chiếc nón cời hoặc mũ lác đem về. Tôi nhớ mỗi mùa sim chín, mẹ thường dặn: Bọn con đi hái sim phải cẩn thận, coi chừng “ông ba mươi” đó! “Ông ba mươi” là cách nói tránh về con hổ. Kinh nghiệm dân gian truyền rằng, mùa này, hổ thường hay xuống núi, rình bắt trâu bò. Tuổi ngây thơ vô lo vô nghĩ, may chúng tôi chưa gặp “ông ba mươi” nào mà chỉ thấy bóng dáng mình trong câu thơ:

“Em yêu mùa hè
Có hoa sim tím
Mọc trên đồi quê
Rung rinh bướm lượn
Thong thả dắt trâu
Trong chiều nắng xế …”.

     Lại nhớ hè năm lớp 6, tôi và Giang băng bộ hơn năm cây số qua đến tận xã Tiên An, quê ngoại của Giang để hái sim. Vì đồi Eo Bò, đồi Hang Dơi thuở ấy, sim nhiều không kể xiết. Hai đứa tha hồ vít vít từng bụi sim cao, hái được cả bao bố, lặc lè mang về.

     Tôi cũng không hiểu vì sao, còn nhỏ xíu mà bạn tôi đứa nào cũng thuộc ca khúc “Những đồi hoa sim” của nhạc sĩ Dũng Chinh. Có lẽ do bài hát này quá nổi tiếng. Những đồi hoa sim của mối tình tím biếc cả cõi lòng đã thấm một cách vô thức trong tôi tự lúc nào. Sau này, học lên cấp ba, tôi mới được biết đến bài thơ “Màu tím hoa sim” của thi sĩ Hữu Loan và mối tình người trai khói lửa với người em gái nhỏ hậu phương – bà Lê Đỗ Thị Ninh, thời chống Pháp. “Màu tím hoa sim” còn gợi cảm hứng cho rất nhiều nhạc sĩ khác như Phạm Duy, Anh Bằng. Sự cộng hưởng của thơ ca và âm nhạc đã khiến cho mối tình buồn trở thành bất tử. Hoa sim, từ đây, đã thành biểu tượng của tình yêu  và nỗi nhớ…

     Và tôi cũng biết, có chàng trai xứ Quảng đã tựa vào đồi sim trái chín mà khóc tuổi thơ bay – đó là cố nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển với ca khúc “Thu hát cho người”: Dòng sông nào đưa người tình đi biền biệt. Mùa thu nào đưa người về thăm bến xưa. Hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ. Về đồi sim ta nhớ người vô bờ…”. Hoa không phải của mùa cũ, người tình rồi cũng chia xa. Nỗi hoang hoải nhập nhòa giữa cõi mơ và thực, mà hoa sim thì vẫn dịu dàng một màu tím thủy chung, đẹp như tình yêu, mong manh như tình yêu. Bài hát đã chạm đến nỗi lòng của bất kỳ ai từng thảng thốt và bồi hồi tiếc nuối vì bất chợt bắt gặp một đóa đẫm tương tư bừng lên giữa mùa hè đầy nắng và gió?

      Đồi sim quê tôi nay chỉ còn lại một “trích đoạn” nhỏ. Con đường từ Tiên Kỳ bọc sông Đá Giăng xuyên núi Dương Chức về làng đã làm thay đổi cảnh quan đáng kể. Nhưng hoa sim chỉ cần hiện diện thấp thoáng giữa ngàn xanh cũng đủ làm người rưng rưng niềm thương nhớ.

Tản mạn Hà Nội

Minh họa: Hoàng Phong

Tôi thường tới Hà Nội vào thời gian buổi đêm hoặc rạng sáng. Đó là một Hà Nội khác nhiều so với ban ngày. Không inh ỏi còi xe, không mịt mù khói bụi, đường rộng lối không tắc, phố dịu êm không giật thót những ồn ào. Hà Nội thời điểm này trầm lắng cùng với muôn ánh đèn, dịu dàng ôm lấy con phố, hàng cây.

     Tôi thường tới Hà Nội khi phố còn ngủ say, bốn bề đều an tĩnh. Đâu đó thoảng đưa tiếng chổi cô lao công gom rác, đâu đó chiếc xe ba gác nho nhỏ cũ mèm hòa mình vào khung trời lúc ba giờ sáng, dáng người cùng với dáng xe đổ bóng kéo dài thật dài. Hà Nội rộng lớn, ôm ấp muôn cuộc đời, tứ cố xô lại mưu sinh.

     Tôi thường tới Hà Nội một mình, nhiều năm nay vẫn vậy. Giống như bao người trong lòng có bệnh khác, vội vàng đạp sương đêm đến, vội vã cõng ánh ban mai trở về. Những chờ đợi dài lê thê nơi phòng chờ kết quả, những tiếng khóc không phát ra từ môi, tiếng thở dài không rên lên từ miệng, những khuôn mặt sầu lo mệt mỏi, buồn thương và hi vọng, đều vẽ tạc lại nơi đây. Hà Nội có nhiều nơi chứa đựng những khuôn mặt sầu lo mệt mỏi của cuộc đời. Và thi thoảng được chứng kiến đôi cuộc chia ly giữa hai lằn ranh vô hình của sinh tử. Có lẽ trong vài khoảnh khắc trùng lòng như thế, Hà Nội cô đơn nhiều lắm, thấy mình lạc lối giữa nỗi đau.

     Tôi tới khi Hà Nội đâm chồi xanh biếc lộc thắm màu. Tôi tới khi tiếng Ve không ngủ suốt đêm, buồn buồn ánh ỏi. Tới khi sương rơi ướt lẹm mùi hoa sữa, thèm một chút dịu dàng. Tới khi cây trên phố hoài rơi lá rụng, lặng mình đón một mùa sang. Tôi từng sống ở Hà Nội năm năm khi còn rất trẻ trung. Khi ấy thủ đô xa lạ, con người xa lạ, nạn móc túi hoành hành trên từng tuyến xe buýt, còn chúng tôi nghèo tới nỗi không dám dành một ngày cuối tuần vào nội thành uống một cốc nước me. Năm năm bươn chải nơi rìa phố khiến đôi mắt đỏ hoe, lại không bằng năm năm sau này có hẹn đều đặn với thủ đô phồn hội.

     Tôi từng không thích Hà Nội, bởi vì tôi không thích phố xá oằn mình. Đứa trẻ sinh ra ở quê luôn đau đáu sự trở về nhà, an ổn bên mẹ cha và an ổn một đời giản dị sống. Cho tới khi không ngừng phải ngược dòng trở lại, mới bắt đầu quan sát, cảm nhận và lắng nghe. Đó là một Hà Nội trong tôi rất khác.

Minh họa: Hoàng Phong

     Bát chè hạt đác mát lịm giữa đêm hè, chú grab mắt mũi đỏ hoe trong đêm đông kiếm thêm khách. Bát cháo đỗ xanh gạo nếp bốc hơi nghi ngút trong bến xe. Phố thơ mộng, đèn rực rỡ, hoa dịu dàng, đường lãng mạn… là Hà Nội trong những tấm ảnh được chụp lên bởi nghệ thuật. Mưa ngập lụt, đường tắc tịt, ngõ hẹp sâu… là Hà Nội của lòng dạ kẻ thập phương. Trầm lặng, bao dung ôm đời chảy, mang theo dấu vết của thời gian, mang theo sự sống cùng những nặng mang, chứa đựng tất cả niềm vui, nỗi buồn, bi thương hay hi vọng… Là Hà Nội của riêng tôi. Cũng có thể là Hà Nội của nhiều người giống như tôi nữa.

     Thi thoảng tôi sẽ hẹn hò. Những cuộc hẹn dịu dàng mà ngắn ngủi. Khi thì với người thân, khi với bạn bè, khi với những người chuyên viết lách. Món ăn ngon, cốc trà ấm, kể nhau nghe vài câu chuyện vừa gặp, cảm xúc thăng trầm nông sâu. Sau đó sẽ nói Hà Nội mùa này…

     Hà Nội mùa này thu đang đậm sắc, đông thập thò ngoài cửa muốn vào chơi. Tôi mang chút thu Hà Nội trở về quê khi phố đã lên đèn, lần nào cũng mang thật nhiều nên không lưu luyến. Nhân viên nhà xe cười thật xinh khen: ôi hoa đẹp quá, chị đang ôm cả mùa thu Hà Nội trong lòng. Tôi ngồi ở phòng chờ, uống cốc sữa nóng, chỉnh sửa vài bức ảnh chụp cùng em tôi và Hà Nội chiều nay, nghe bên cạnh khách chờ xe nhỏ to về những con đường dẫn tới thênh thang Hà Nội. Họ cũng giống như tôi, tranh thủ lội sương đêm tới khám bệnh, phủi ánh đèn trở về, xách theo một chút nồng nàn của Hà Nội khiến người xứ khác phải trầm mê.

Giữa quê lòng lại nhớ quê

Tôi sinh ra ở quê, lớn lên ở quê và sống ở quê mà vẫn đau đáu nỗi nhớ quê. Không phải cứ xa quê mới thấy nhớ quê. Thứ khiến người ta nhớ nhiều là kỷ niệm, là hình ảnh đã từng gắn bó thân thuộc dần dần phai nhạt theo thời gian hoặc cũng cảnh cũ đó nhưng người xưa giờ đã không còn nữa.

     Tôi nhớ con đường làng đất cát quê tôi. Buổi sớm khi mặt trời vừa ửng hồng đôi má phía đằng Đông, tôi ngái ngủ dậy theo tiếng gọi của má ra đồng. Chao ôi, cái cảm giác đi chân trần trên con đường đất cát mới sung sướng làm sao. Những hạt cát mềm, trắng muốt, mịn màng, êm ái cứ như tan chảy dưới đôi bàn chân bé nhỏ. Tôi thích cảm giác miết bàn chân mình trên cát để cho cát phủ lấp hết cả đôi chân, nghe hơi mát của cát ngấm vào da thịt. Con đường làng hằng ngày tôi đi học, đi chăn bò hay lon ton theo má đi chợ huyện giờ chỉ còn trong ký ức. Làng tôi bây giờ mọi con đường đều đã bê tông hóa khang trang. Hai bên đường người ta cất nhà san sát, tường rào cao, cổng ngõ kín, không còn những hàng dâm bụt hoa đỏ, những hàng chè tàu mướt xanh. Người xa quê lâu ghé về thăm không ngớt lời khen quê mình giờ giàu đẹp mà người giữa chốn quê như tôi lại thấy điều gì đó hụt hẫng, chơi vơi.

Tôi nhớ cánh đồng làng phía sau nhà tôi. Quê tôi là vùng bán sơn địa không có những cánh đồng cò bay thẳng cánh, ngút ngàn lúa xanh. Nhưng không phải vì thế mà tôi không yêu cánh đồng làng quê mẹ. Những đứa trẻ con như chúng tôi ngày ấy, ngoài giờ trên lớp thì thời gian ngoài đồng còn nhiều hơn ở nhà. Cánh đồng làng như người bạn lớn chở che chúng tôi, nuôi dưỡng ước mơ của chúng tôi, bao dung với những lỗi lầm của chúng tôi. Từ lúc bé tí tôi đã được má gánh ra đồng. Một bên quang gánh là thúng lúa giống, một bên quanh gánh là tôi. Dưới bóng mát của cây duối tôi nhẩn nha chơi một mình, có lúc cuộn tròn ngủ quên bên gốc duối già nua. Lớn hơi chút nữa, đồng làng là nơi chúng tôi chơi những trò chơi trốn tìm, nhảy dây, bịt mắt bắt dê, là nơi những cánh diều chở ước mơ bay lên trên bầu trời rộng lớn, bay ra khỏi ngọn khói làng. Thỉnh thoảng nhớ những ngày xưa tôi thường tha thẩn ra cánh đồng làng.

Tôi ngồi lặng im, hít hà mùi nồng ẩm của đất, mùi ngai ngái của bùn non, nhớ từng khuôn mặt đen nhẹm, mái tóc khét nắng của thằng Tí, thằng Tèo, nhớ trái banh làm bằng lá dứa gai ném vào người đau điếng mà tiếng cười rộn rã chiều quê. Bây giờ, những buổi chiều nhạt nắng tôi chờ đợi thật lâu nhưng không còn tiếng trẻ í ới gọi nhau chạy ra đồng chơi, những trò chơi thuở xưa giờ cũng không còn ai chơi nữa. Tôi ngồi thật lâu bên cánh đồng, tôi lặng im, cánh đồng cũng lặng im, chỉ có tiếng gió lao xao đùa cùng sóng lúa. Thỉnh thoảng một vài cơn gió bay lạc vào mắt khiến mắt tôi hoen đỏ, cay xè.

Tôi nhớ ngôi nhà tranh của ngoại có khu vườn ngát hương. Khu vườn mà suốt năm tháng tuổi thơ tôi xem như báu vật, là nơi tôi hãnh diện với những đứa em con chú tôi ở thành phố mỗi lần về quê. Mùa hè gió từ cánh đồng thổi vào mát rượi. Gió mang theo hương dủ dẻ thơm lừng len vào giấc mơ trưa của cô bé đang say giấc nồng trong lời ầu ơ của ngoại. Mùi ổi chín, mít chín, chay chín và sim chín thơm giấc ngủ trưa hè. Cũng có những trưa tôi không chịu ngủ, lén theo anh chị ra sau vườn trèo lên cây hái ổi. Những trái ổi chi chít vết bấm móng tay của anh em chúng tôi để kiểm tra xem trái đã chín chưa. Và hậu quả của những trưa không ngủ là vết sẹo dài trên đầu gối do ngã từ trên cây xuống. Mỗi lần nhìn vết sẹo tôi lại nhớ ngoại, nhớ khu vườn thần tiên da diết. Tôi nhớ cái giếng nước bằng đá, chiếc ảng đặt cạnh giếng, trên miệng ảng bao giờ ngoại tôi cũng đặt một chiếc gáo dừa. Sau những trò chơi nghịch ngợm chúng tôi chạy ào ra giếng, múc nước trong ảng mà tắm, mà rửa mặt. Tôi nhớ cũng bên chiếc ảng nước đó, tôi múc từng gáo nước dội cho ngoại gội đầu. Vừa dội nước tôi vừa hát líu lo “bà ơi bà, cháu yêu bà lắm, tóc bà trắng, màu trắng như mây”. Ngoại mất, khu vườn tuổi thơ cũng mất, giếng nước, chiếc ảng, chiếc gáo dừa cũng trôi vào dĩ vãng. Chỉ duy nhất hương thơm từ khu vườn xưa, hương thơm từ hương bồ kết ngoại gội đầu vẫn vương vấn mãi trong tôi.

Tôi nhớ những thanh âm quen thuộc của tuổi thơ ngày ấy. Tiếng gà gáy sáng tinh mơ, tiếng chú bê con ậm ò gọi mẹ, tiếng chim bắt cô trói cột khắc khoải giữa trời chiều. Tiếng rao “ai nhôm nhựa soong nồi bể bán không” giữa trưa hè nắng gắt làm tôi nhớ những ngày má chở muối lên tận miền ngược bán bằng chiếc xe đạp cà tàng để kiếm tiền nuôi anh em chúng tôi khôn lớn. Thảng hoặc trong giấc mơ tôi vẫn nghe tiếng chuông leng keng đầu ngõ và tiếng rao “cà rem, cà rem đây”. Nhớ đám trẻ con nhà nghèo chạy ra đem theo nào dép đứt, thau bể, nào sắt vụn, vỏ đạn mà những hôm chăn bò nhặt được để đổi lấy những que kem mát lạnh, ngon lành.

Không phải cứ xa quê mới thấy nhớ quê. Thứ khiến người ta nhớ nhiều là kỷ niệm, là hình ảnh đã từng gắn bó thân thuộc dần dần phai nhạt theo thời gian hoặc cũng cảnh cũ đó nhưng người xưa giờ đã không còn nữa. Như tôi đi giữa con đường làng, ngồi giữa cánh đồng quê mà nhớ ngày xưa quay quắt, nhớ ngọn khói bay lên từ chái bếp của ngoại mỗi sớm mỗi chiều. Vẫn biết “ngày mai bắt đầu từ hôm nay”, quê rồi sẽ còn nhiều đổi thay, chỉ mong mỗi người vẫn giữ trong lòng mình một chốn đi về để mà nhớ mà thương, để đi xa muốn trở về, hạnh phúc muốn trở về, khổ đau càng muốn trở về…

Đèn thương nhớ ai

Trong nhiều đêm chập chờn thức ngủ, tôi thấy mình lơ lửng giữa những vầng sáng le lói của ngọn đèn dầu. Ánh vàng nhàn nhạt liu riu ấy như một nốt trầm của bản giao hưởng ký ức. Ngân rung, đánh thức chuỗi ngày dài hoài niệm đầy đặn những nồng ấm yêu thương.

     Mỗi buổi hoàng hôn, nắng tàn sắp tắt, tiếng côn trùng tỉ tê trong vồng khoai vạt mía, đàn chim đa đa đã rúc vào cánh nhau lim dim gật gù đi vào cơn mê đồng bãi .Tiết giao mùa chuyển từ thu sang đông, đất trời u tịch, trầm mặc. Chỉ vài hồi tắc kè ngập ngừng những âm thanh đều đều như nhịp đếm từ gốc đa cổ thụ là trời đã tối bưng. Lúc đó bọn trẻ thường nôn nóng muốn thắp đèn ngay.

Nhưng mẹ tôi dỗ dành:

– Để tiết kiệm dầu và bấc, phải chờ trời tối hẳn hẵng thắp các con ạ! Đó, mấy nhà hàng xóm cũng chưa đỏ đèn kia mà!

     Vậy là, khi ánh hoàng hôn khuất lấp sau dãy lèn đồ sộ xanh sẫm. Khi màn đêm chầm chậm đổ về phía cuối ngày. Khi ánh trăng cuối thu ngọt trong treo lưng chừng núi thì lúc ấy ánh đèn vàng nhạt bắt đầu lấp ló dưới những nếp nhà đơn sơ rêu cũ.

     Không hiểu sao, lúc ấy tôi lại có một niềm thú vui là ngồi nhìn mẹ rót dầu vào đèn. Mẹ không dùng phễu mà từng giọt dầu hỏa sánh xanh cứ từ từ chui vào cái cổ đèn nhỏ xíu, không hề chảy ra ngoài một giọt. Bàn tay cẩn trọng của mẹ dạy cho tôi biết nâng niu, san sẻ những điều quý giá giản đơn.

     Những hôm thời tiết ẩm ương, mây buồn thiu che mờ mặt nguyệt, dải ngân hà chỉ là một vệt sáng màu trắng mờ xa. Vài con đom đóm lập lòa trên đám cỏ dại. Khoảnh khắc ấy chiếc đèn mới dạn dĩ khoe hết những nồng đượm lung linh. Đèn bình dị, khiêm nhường đèn chẳng bao giờ nỡ để người đời gieo tiếng kiêu căng:

Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng
Đèn ra trước gió còn chăng hỡi đèn
( Ca dao)

…Đôi ba bữa, tôi lại sang nhà hàng xóm xin lửa về nhen bếp. Tôi ren rén từng bước một. Tay cầm đèn, tay khum khum che ngọn gió vô tình nhẹ lướt. Ngọn lửa đèn liu điu mà diệu kỳ lan tỏa biết bao nồng đượm ấp iu trong căn bếp ti tách củi khô.Tôi nhớ ngày gieo neo. Ánh đèn sáng rỡ soi tỏa đêm thâu, dõi theo từng đôi chân trần khấp khểnh…Tôi nhớ ngày bão dông. Lũ nhỏ ngồi tót cả lên giường, ôm nhau, mắt dõi ra khung cửa gỗ cũ. Nghe gió thổi ù ù ngoài vườn chuối. Nghe tiếng mái tranh mái rạ xao xác ngả nghiêng.

     Trên cái bàn, chiếc đèn nhỏ vẫn kiên trung không tắt. Lặng thầm, nhẫn nại và tận hiến: “Đèn hết dầu đèn cháy tới tim”(Ca dao). Rạng rỡ phản quang qua chiếc chụp thủy tinh tròn vo trong suốt. Soi rõ mấy khuôn mặt bé con ngây ngô đã mang nét âu lo, thấp thỏm. Ánh đèn nhỏ nhoi ấm áp lúc ấy như ngọn đuốc ở cuối đường hầm nhen nhóm trong tôi niềm hy vọng, niềm tin ấu thơ sắt đá. Rằng ngọn đèn vẫn đang tỏa sáng, thứ ánh sáng diệu ảo rực rỡ như ánh cầu vồng sau mưa. Rằng ngọn đèn xua tan nỗi sợ hãi, thắp lên niềm hy vọng, cơn bão sẽ qua ngày mai trời lại sáng.

     Bền bỉ, thủy chung trôi theo ngày tháng, có lúc đèn hắt hiu nhạt nhòa, có lúc đèn sáng hồng đậm sâu. Quần tụ vén vun trong tôi một tình yêu đủ lớn với tất thảy những người, những vật mộc mạc gần gũi bên đèn xưa yêu dấu.

     Bên ánh đèn dầu, nhập nhoạng bóng côn trùng đêm hoang hoải lượn qua lượn lại lao vào quầng sáng tự kết liễu đời mình trong bản năng mù quáng. Một khoảnh khắc thoáng qua vô thức của thế giới tự nhiên cũng khiến tôi xót xa suy ngẫm. Trong đời người, có những phút giây ta không cưỡng lại được sự cuốn hút mà dẫn đến hành động điên cuồng, nông nổi.

     Tôi nhớ có lần nhờ ánh đèn dầu mà chị em tôi phát hiện ra kẻ gian đang thập thò rình rập ngoài hiên, chiếc bóng mờ ám xiên ngang gần chạm mái nhà thâm thấp. Dưới ngọn đèn, cái xấu xa trong mảng tối cuộc sống, đôi khi rõ nét như một thước phim đen trắng.Và bao tình, bao cảnh đẹp nhất trong cuộc đời đã hiện hữu đêm đêm. Hồn tôi ngập tràn hơi ấm từ đốm sáng hắt hiu mà thiêng liêng, kỳ diệu.

     Bên đèn, nội tôi tỉ mẩn ngồi đan những tấm tranh bằng lá săng, lá mía để lợp lại chái bếp. Bóng nội đổ dài lên chiếc sân gạch, những thanh tre nhỏ kêu lách tách, những nhành cỏ săng đánh nhịp lào xào. Phía trong nhà tiếng đọc bài ê a của hai thằng cu em, tiếng bố trầm ấm rủ rỉ bày tôi cách giải toán. Con mèo mướp thấy bóng mình tưởng có thêm bạn, chạy qua chạy lại, huơ chân lên bờ vách meo meo.

     Bên đèn, mẹ tôi tranh thủ ngồi soạn bài, chấm bài, xong lại đưa thúng lúa mới xay hồi chiều dần sàng nhặt nhạnh. Cái dáng dấp thảo hiền phản chiếu lên bức tường vôi, đẹp như một bức họa. Bức họa của ký ức một thời mưu sinh bần hàn nhưng luôn nhen nhóm những điều dung dị vĩnh cửu, không manh nha sự lụi tàn héo úa.

     Tôi đi qua những tháng năm dùi mài đèn sách. Những lần thất bại, những bước trưởng thành luôn có bóng đèn dầu tri kỷ soi chiếu cận kề. Đèn đồng hành cùng tôi trên chặng đường có ngọt bùi và cay đắng, có nước mắt và nụ cười cho đến khi tôi rời quê, rời những kỷ vật thân thương mộc mạc.

     Tôi trở thành cô giáo trẻ đi dạy học ở vùng cao. Tuổi thanh xuân lại có cơ duyên gắn bó với ngọn đèn dầu, trọn trịa nét chữ viết tay in trang giáo án. Đã nhiều lần tôi thì thầm hát: “Bên ánh đèn khuya em thức đã bao đêm…”*.Hát mãi cho đến khi ngửi mùi dầu hăng hắc thân quen quẩn quanh trong căn phòng ký túc xá, hối thúc con tim nhớ thương về chuyến tàu ký ức.

     Năm tháng qua đi. Điện lưới quốc gia đã bừng sáng khắp mọi miền Tổ quốc. Tôi hạnh phúc tự hào khi ngắm cuộc sống đang biến đổi không ngừng. Vậy nhưng, tôi vẫn chạnh lòng nhớ nhung quầng sáng xưa mà giờ đây chỉ còn trong loáng thoáng đâu đó, trên ban thờ tiên tổ vào những dịp tế bái, giỗ chạp.Trong nhiều đêm chìm đắm giấc mơ quê bát ngát. Tôi lại thấy ánh đèn dầu hiện hữu với hình sắc khi xưa, phả vào bóng đêm những tía lấp lánh như mắt ai thao thức:

Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
( Ca dao)
* Lời bài hát “Bài ca người giáo viên nhân dân”( Hoàng Vân)

Như cánh hoa bay

Cô bạn thuở hoa niên vừa gửi qua zalo khoe rổ hoa dầu sớm nay mới nhặt trên đường tập thể dục về. Ôi những cánh hoa vươn dài, vừa mỏng manh vừa cứng cỏi. Một cái gì đó như bung vỡ trong em. Một cảm giác thật khó định hình. Bồi hồi. Thảng thốt. Trái tim em bỗng lỗi mấy nhịp. Điều gì vừa gần gụi vừa xa xăm. Sài Gòn và anh!

Thuở ấy, Sài Gòn trong hình dung của em là tất cả thế giới nơi anh. Đó là “thành phố tình yêu và nỗi nhớ” với bao nhiêu là đường phố người xe tấp nập và hàng me xanh ngắt, lá reo như thơ. Anh cứ đổ lỗi tại em mà anh yêu bài hát này. Tình yêu của anh và nỗi nhớ em. Yêu em và tưởng tượng ngày nào đó anh sẽ cùng em dắt nhau qua từng con phố trong niềm “bối rối khi cầm tay nhau” như lời ca ấy.

Nhưng anh kể em nghe, anh ghiền nhất là những cánh hoa dầu. Anh nói diện mạo thành phố của anh là loài cây này. Trước nhà thờ Đức Bà, Bưu điện trung tâm thành phố, quanh hồ Con Rùa…, cứ vàokhoảng tháng ba tháng tư, hoa dầu nở long lanh rồi rơi thành thảm hoa trên mặt đường, hè phố. Anh khiến em yêu thêm một loài hoa. Bởi thành phố sinh viên của em nào có hoa dầu! Mấy năm liền, mùa hoa nào anh cũng kèm theo thư cho em những cánh hoa đôi. Vì chỉ có loài hoa này mới có hai cánh thôi. Anh nói đó là hoa của anh và em. Em ngây ngô tin, nếu yêu một người cùng thích hoa dầu, sẽ mãi mãi thành đôi. Anh kể mỗi mùa hoa bay, anh thường tới quán cà phê Cộng sát bờ hồ Con Rùa gọi một ly đen đá cho anh, và một ly cà phê sữa cho em. Anh thích đắng, em thích thêm chút ngọt ngào. Xem như em vẫn cùng anh ngồi góc phố thân thương ấy mà ngắm từng loạt từng loạt hoa xoay theo vũ điệu của gió, rạt rào bay. Thói quen kỳ lạ vậy mà anh bảo thích lắm kia. Góc phố ấy, loài hoa ấy, vị cà phê ấy và em đã trở thành một quãng đời của anh. Dù em chưa một lần đặt chân đến Sài Gòn. Mỗi lần uống cà phê, anh thích nghe ngẫu nhiên ca khúc “Còn chút gì để nhớ” của Phạm Duy. Anh lại ích kỷ bảo đó cũng là bài hát dành cho anh vì nó có câu “May mà có em đời còn dễ thương”. Thật không gì lãng mạn bằng khoảng cách địa lý trong tình yêu, nó thổi bùng ngọn lửa tưởng tượng về những gì đẹp nhất trong nhau, anh nhỉ? Vậy mà, lỗi tại em, tại anh hay tại gì không biết nữa. Chúng ta đã lạc mất tình đầu…

     Hồ Con Rùa ngày em đến. Một trưa hè không có hoa dầu bay. Chỉ có những hàng cây cao vút, tán lá xanh um và dòng người xe tấp nập. Em cũng gọi hai ly cà phê như hai mươi năm trước anh đã từng. Quán này em đặc biệt thích bởi không gian được bài trí gợi nhiều niềm xưa cũ, vì chủ quán khuyến khích không dùng ống hút nhựa để bảo vệ mội trường. Hay đặc biệt thích vì xưa, từng có người đến đây uống cà phê cùng em trong tưởng tượng? Cà phê Sài Gòn không đậm mà dịu vị. Em như chạm vào giấc mơ xa. Mà tình yêu nào chẳng có vị đắng lẫn ngọt ngào như cà phê? Em không cố tìm anh bởi lẽ hiện tại của em chẳng thể có anh, bởi hiện tại của anh,em thuộc về miền xưa cũ. Chúng ta không cần tìm nhau nữa, để khoảng trời hoa mộng ngày xưa mãi tươi đẹp. Em cảm ơn anh, cảm ơn một vùng ký ức huy hoàng của thuở sinh viên. Cảm ơn tình yêu trong veo đầu đời, nhớ lại để mà thương. Cảm ơn anh đã cho em thêm yêu một góc phố không phải quê hương mình. Em vẫn thấy những cánh hoa bay rơi hồn nhiên, xôn xao cả khoảng trời thành phố. Như anh.

     Em vẫn yêu những cánh hoa đôi, yêu thành phố dù không còn anh như những ngày xưa cũ. Sài Gòn vẫn những mùa hoa dầu tiếp nối. Em bây giờ, tóc đã lấp lánh màu thời gian nhưng những hàng dầu cổ thụ vẫn ngăn ngắt xanh như bài thơ tuổi trẻ. Em chợt mỉm cười trong nỗi trống vắng và nhủ thầm: nếu được trở lại thành phố của tình đầu lần nữa, em cũng vẫn tới quán cà phê Cộng, gọi hai ly và ngắm phố phường, ngắm mùa hoa dầu xoay tít bay bay.

Về đồi sim lại nhớ màu hoa

K hi ánh nắng chiều dịu dần và tắt lịm trên đồi sim, tôi có cảm giác đi ngang qua lời của một bài hát có “tím chiều hoang biền biệt”. Sim cũng như buổi chiều tà đẹp, một vẻ đẹp không thể gọi tên. Tôi cố suy nghĩ đặt cho nó một cái tên thật gợi mà không dẫm vào bóng dáng người xưa. Loay hoay với suy nghĩ về tên gọi mà tôi vấp phải một gốc sim, suýt ngã. À, mà việc gì phải tìm ra một cái tên mới. Cứ gọi nó là sim. Chỉ là sim thôi. Sim bềnh bồng nơi lưng chừng đồi, bềnh bồng nơi lưng chừng dốc, bềnh bồng… bềnh bồng… như mơ hồ, như lãng đãng mà gần gũi, quen thân. Sim bềnh bồng mà lênh loang…

Tôi len lỏi trong đồi sim, “ôi đồi sim tím chạy xa tít lan dần trong bóng tối”. Tôi chạy mà không thoát khỏi một đồi sim cùng chạy ngút ngàn tím ngát trong ánh nắng cuối chiều. Tôi chạy mà không thoát khỏi bài hát mang nỗi buồn da diết về mối tình tan vỡ. Tôi chạy như muốn thoát khỏi màu tím đầy ám ảnh mà như tôi đang trốn lẫn vào cùng màu sim quyến rũ! Phải chăng mỗi bụi sim là một thực thể sống mang một linh hồn phiêu bồng của nỗi buồn rồi hóa thân vào thơ nhạc? Hay đồi sim là tấm gương cho tâm hồn tôi soi chiếu trong những chiều thương nhớ như hôm nay?

Tôi mải miết chạy trong đồi sim mà về với tuổi thơ mình, khi tất cả còn trắng trong cùng ùa lên đồi sim đồng loạt chín. Sim được ăn thỏa thuê trên sườn đồi; sim căng đầy trong túi quần, túi áo; sim thành đề tài để chọc ghẹo nhau: “Đói lòng ăn nửa trái sim, uống lưng bát nước đi tìm người thương”; sim đã làm cho bạn trai thêm mạnh mẽ, dạn dĩ; cho bạn gái xấu hổ, giận dỗi; sim đã làm cho tuổi thơ mau giận nhau và cũng mau chóng làm lành. Phải chăng màu hoa sim tím vừa mạnh mẽ, cứng cỏi vừa yếu đuối nên giới tính nào cũng thấy hợp với mình? Lớn lên một chút, đến tuổi không còn vô tư thì mùa sim chín không còn hấp dẫn như trước nữa. Tuổi dậy thì lại mộng mơ về tình yêu, về mộng ước tương lai, về dự định cho đời; màu tím hoa sim có lúc lại trào lên thổn thức khi tình yêu tan vỡ, mộng ước không thành. Ta chạnh lòng vì màu tím của hoàng hôn và màu của hoa hòa lẫn vào nhau tạo nên một màu buồn nhưng hình như sắc tím còn nồng nàn níu kéo cuộc tình phai! Màu hoa sim gắn bó với tâm trạng tôi có lẽ là một món quà, một thông điệp của thiên nhiên ban tặng. Tôi tin mỗi loại cây, mỗi loại hoa có đời sống riêng, có tiếng nói riêng và mỗi màu hoa là mỗi kỷ niệm thương nhớ không nguôi của mỗi người với đất và người quê nhà.

Trên đồi dốc đâu chỉ một màu tím hoa sim. Màu tím nào cũng có nét yêu riêng. Màu tím nao lòng của hoa bằng lăng; màu tím điệu đàng, e ấp của hoa mua; màu tím của một loài hoa dại nào đó mà tôi chẳng rõ tên… tất cả hòa quyện với màu tím hoa sim tạo một nét đáng nhớ cho vùng đồi. Bỗng nhiên, tôi có một ước muốn kỳ quặc là được làm một bụi sim sống bình yên cùng cây cỏ vô tư, vui buồn cùng bọn trẻ trong mỗi chiều tắt nắng. Đâu rồi những ngày thơ bé chăn trâu tung tăng trên đồi mà lắng nghe màu tím hoa sim kể chuyện tình thuở lòng còn trong vắt! Tôi ngộ ra một điều là ngày xưa tôi sống trong màu tím hoa sim, nay màu tím ấy đã sống trong tôi. Tôi biết, đây không phải là lần cuối cùng tôi trở lại vùng đồi ngan ngát màu hoa, hái một màu tím trong ký ức muôn ngàn nhớ thương của lòng tôi.

Hoa dại

Những tái tê cóng rét của mùa đông cuối cùng cũng đến lúc phải kết thúc, nhường chỗ cho các loài hoa xuân bung sắc Cho những nụ mầm mở xanh mắt tí hon ngắm nhìn thế giới khổng lồ. Những loài chim di cư tìm về tổ cũ , những loài thú gọi bạn tình, những mầm non trên cành mở mắt… Vạn vật cất lên tiếng hát yêu thương. Tất cả đều bận rộn thay áo mới, đón xuân về. Và các loài hoa dại cũng vậy

Tôi trang trí khu vườn và ngôi nhà của mình bằng các loài hoa dại. Tôi cũng không biết tôi bắt đầu yêu hoa dại từ bao giờ. Phải chăng, từ khi còn nhỏ, chạy cùng bạn đuổi bắt cào cào châu chấu trên ruộng, rồi thích thú ngắm những bông đồng nội bé xíu xiu như tuổi mình? Hay từ lúc bắt đầu chơi đồ hàng, lấy hoa làm nguyên liệu nấu ăn, làm phấn son trang điểm và cài lên tóc cô dâu, áo chú rể khi chơi trò đám cưới?

     Cũng có thể từ khi gặp những bè Lục Bình ngẩn ngơ tím biếc, những bông xuyến chi trắng muốt, trinh nữ phớt hồng hay sắc vàng như giọt nắng đậu trên thảm lá xanh của sài đất. Và hàng rào dâm bụt đỏ ai đó trồng như mặt trời xuống núi. Những bông hoa súng trắng như áo mình mặc đi học mọc gần loài hoa mặt trời to bằng ngón tay cái, tròn như một viên kẹo trắng xinh xinh. Hay những bông hoa Sấm ( nhiều nơi gọi hoa Súng) tím hồng như hoàng hôn? … Tôi cũng không nhớ nữa.

     Chỉ biết rằng nếu một ngày không được nhìn thấy chúng là tôi lại cảm thấy thiếu vắng một điều gì đó. Nên tôi hay rủ cô bạn đồng ấu trong xóm tên Phương cùng ngắm những bụi hoa dại ngoài đồng. Chúng tôi nói với nhau hàng chục câu chuyện không đầu không cuối mỗi ngày mà không biết chán. Một hôm Phương chỉ cho tôi xem hoa rau răm vừa nở trong vườn nhà bạn. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy cây rau răm nở hoa. Mỗi bông hoa như một ngôi sao trắng, to bằng đầu ba que tăm gợi nên cảm giác mong manh cho người nhìn. Tôi cúi xuống, khẽ chạm nhẹ mũi mình vào mặt hoa, nhắm mắt lại mới cảm nhận được mùi hăng nhẹ của nó.

     Bỗng nhiên có cảm giác hoa và mình như là hiện thân của nhau. Hoa không loè loẹt sắc màu, cũng không hương ngát quyến rũ mà giản đơn sắc trắng mộc mạc, giống như tôi. Tôi không được thừa hưởng nhan sắc mỹ nhân và sự khéo đảm của mẹ. Tôi di truyền vẻ đẹp trai của bố. Tiếc là khuôn mặt bố chỉ đẹp khi ở trên cơ thể đàn ông. Tôi như một phông nền thô sơ tô cho mấy đứa bạn thân khoe sắc khi đi cạnh nhau. Mặc bao ánh mắt tò mò đánh giá với những cái nhìn thiếu thân thiện chiếu vào mình, tôi vẫn tự tin rảo bước.

     Có khi còn tặng họ một nụ cười xã giao thay lời chào nữa là khác. Tại sao tôi phải tự ti và co rụt lại trong vỏ ốc với nỗi sợ vô hình vì mấy người lạ ấy chứ? Tôi xấu nhưng tôi biết nghe lời cha mẹ , được hàng xóm khen và có nhiều bạn tốt . Tôi lạc quan trong từng ý nghĩ. Vì trước đó Phương đã bảo với tôi. ‘’ Cậu sinh ra xấu không phải là tội! Chẳng việc gì phải cúi đầu! Bản thân cậu cũng đâu có muốn như vậy. Chỉ những kẻ sống không tốt mới phải xấu hổ. Dèm pha khinh thường vẻ bề ngoài của ngừời khác cũng là một tội ác.

     Kẻ nên cúi đầu là chúng nó chứ không phải cậu!’’. Lời khuyên của Phương đã cứu đời tôi thoát khỏi những suy nghĩ bi quan về vẻ ngoài từ lúc ấy. Tôi khắc ghi câu nói này và hình bóng cô bạn xinh đẹp cả dung nhan và phẩm hạnh vào sâu thẳm trái tim, cùng mình đi qua những thời gian với phong thái luôn lạc quan, như hoa dại mặc kệ môi mắt thế gian vẫn ngạo nghễ dâng hoa tặng đời.

     Cũng từ ấy tôi hiểu rằng không phải dao kéo hay đồ kim khí mới sắc nhọn. Bởi vì lời nói con người đôi khi còn nguy hiểm và đáng sợ hơn. Nó có thể cứu hoặc dìm người ta thoát khỏi hoặc rơi vào bể tuyệt vọng bất cứ lúc nào. Do đó tôi thường cẩn trọng suy nghĩ khi nói bất cứ chuyện gì có thể ảnh hưởng đến tâm trạng người khác. Và tất nhiên tôi luôn ít nói khi ở trong đám đông. Nhưng tôi không mờ nhạt. Như hoa rau răm có mùi hăng nồng không lẫn với bất kỳ loài hoa nào.
Phương cười bảo tôi đa cảm. Tôi bảo Phương vô tình. Chúng tôi tranh luận rồi cãi nhau. Nhưng không giận được lâu. Sau này, Phương đậu đại học và ra Hà Nội để thực hiện giấc mơ trở thành cô giáo dạy tiếng Pháp của mình. Chúng tôi xa nhau từ ấy. Mỗi khi nhìn thấy hoa rau răm lòng tôi lại nhớ người bạn dễ thương này. Kỷ niệm như những cánh hoa hé nở tìm về. Có lẽ bạn đã quên bài hát tôi tự sáng tác bằng nhạc mồm. Vì ngày ấy mình đâu được học môn âm nhạc như bây giờ, nhan đề là “ Nỗi nhớ hoa rau răm’’. Đến nay, mỗi khi nghĩ về bạn tôi vẫn còn nghêu ngao: “ Nhìn hoa kia lại nhớ đến người. Nhớ nụ cười rạng rỡ như hoa..Người phương xa còn giữ trong hồn, những cánh hoa trắng muốt nơi này?…” Cái cảm giác không được ngắm hoa dại cũng giống như cảm giác vắng bạn vậy, Phương ạ!

Vệt nắng ngày giữa năm

K hi những cơn mưa giông bất chợt đổ xuống giữa cái nóng hừng hực, ta chợt nhận ra trái đất đã đi qua gần nửa vòng quay rồi đấy. Mùa hè đã gõ cửa khi nàng xuân còn dùng dằn chưa muốn dời gót.

Tất bật với nhịp sống hiện đại mà đôi lúc ta không nhận ra sự đổi thay của đất trời, vạn vật. Phố phường vẫn mãi dòng ào ào di chuyển của người xe mỗi ngày, mỗi mùa nên vòng quay của thời gian ta nào để ý đến. Chỉ khi một ngày về lại vườn xưa, bất chợt bắt gặp mùi hương quê dịu nhẹ thoảng trong không gian trầm lắng ta mới hay thiên nhiên đã ca khúc giao mùa tự bao giờ rồi.

Tết Đoan Ngọ như lúc ngắt hơi lấy đà trong câu vọng cổ mưu sinh dài dằng dặc tận một năm trường. Chẳng phải lễ to, hội lớn nhưng ngày mùng năm tháng năm này là một nét văn hóa được lưu giữ bao đời. Dù đang ở bất cứ nơi đâu ta cũng muốn quay về chốn xưa để nghe ký ức rung lên những nhịp ngọt ngào của bao ngày xưa cũ. Tôi lang thang trong khu vườn nhỏ phía sau nhà mà nghe dậy lên những mùi hương đã lâu rồi không gặp lại. Trái mít ướt chín bị sóc ăn vừa rụng rơi nơi gốc tỏa mùi thơm ngào ngạt cả một góc vườn. Mấy quả thơm vàng hườm mở mắt căng mọng. Hàng dừa xiêm với những buồng quả dày đặc. Cây dâu da chi chít trái trên thân hay mấy chùm xoài treo lủng lẳng trông bắt mắt lắm mà không có ai hái vì đàn cháu vừa nghỉ hè chưa kịp về.

Khu vườn ngày xưa rộn ràng tiếng cười con trẻ trong những trưa hè giờ vẳng lặng chỉ còn tiếng chim trong vòm lá. Tiếng sột soạt của những con sóc chuyền cành khi thấy bóng người. Khi xưa nó chính là nơi “giấc mơ trưa” của đám nhóc khi chúng tôi leo trèo chẳng khác gì mấy con sóc kia đâu. Những trái mít được vỗ bình bịch hàng ngày xem chừng đã chín chưa. Những quả ổi chi chít dấu móng tay bấm coi thử đã chua chua chưa. Những trái xoài bị vặt khi chưa kịp lớn. Chúng tôi cứ đợi cho đến tận trưa ngày tết Đoan Ngọ để được vào vai cây. Bà giao cho mỗi đứa trèo lên nấp sẵn trên những cây ít sai quả đợi bà dùng rựa giả vờ chặt vào gốc và cất giọng hỏi “Có chịu ra trái không?”. Chỉ chờ có thế chúng tôi vội vàng trả lời “có, có để con ra” rồi tụt xuống cười như nắc nẻ.

     Bà gieo vào lòng con trẻ những niềm tin vô hình vì bà nghĩ cây cũng có linh hồn như một con người vậy. Cây cũng biết buồn, biết vui, biết hờn giận không đơm quả từ đó dạy cho các cháu biết chăm sóc, nâng niu những hàng cây bà trồng. Mỗi khi chúng ra hoa kết trái, tôi lại nghĩ do lời đe dọa của bà vào tết Đoan Ngọ đó thôi. Những niềm tin vào đấng siêu nhiên nào đó luôn làm các cháu của bà tin sái cổ như rụng cái răng sữa là đem ném lên mái tranh hú chuột chờ nó trả cho. Đêm đêm mỗi khi tỉnh giấc tôi giật mình sờ thử xem răng đã được trả chưa. Trong cái ngày đặc biệt này chúng tôi cứ vô tư chui từ bụi này sang lùm nọ mà không sợ rắn cắn vì bà nói “trốn như rắn mùng năm” mà. Còn biết bao kỷ niệm thời ấu thơ nữa đã cùng bà sang thế giới bên kia để cho cháu của bà đứng giữa khu vườn xưa nghe trái tim mình chộn rộn. Thoáng chút hương của những ngày xưa cũ làm dậy lên trong lòng ta bao nỗi nhớ mà ta ước gì có thể gói được mang theo cùng về với phố phường nhộn nhịp. Để mỗi khi nhớ về nơi chôn rau cắt rốn ta có thể lấy ra mà hít hà hương vị ấy cho thỏa.

Tranh màu nước của Nguyễn Bá Thanh

     Sống giữa bao đủ đầy của thế giới hiện đại bây giờ chẳng làm cho các giác quan của ta thèm thuồng chi khi mà chỉ cần vài phút đã thỏa mãn. Bởi thế nên ngày tết Đoan Ngọ đã ít nhiều nhạt nhòa và không còn mấy ý nghĩa vì chúng ta giờ ngày nào chẳng là…tết. Bánh ú, bánh tro không phải đợi đến ngày này mới được ăn. Trái cây, hoa quả tận những lục địa xa xôi giờ được bày bán đầy. Những món quà quê mà ngày còn nhỏ ta phải đợi đến tận nửa năm trời mới có. Với anh em chúng tôi ngày tết đánh dấu mốc nửa năm này được ăn món “mít đút” bà làm ngon hơn bất cứ món quà nào khác.

     Chỉ là những múi mít hườm hườm được bóc hạt ra rồi cho vào đó chút nhân làm từ dừa sợi, nếp, hạt mít giã nhuyễn xào với dầu hành đem hấp lên cho chín. Ngon hơn chút nữa là có tí thịt heo băm. Chỉ có thế thôi nhưng là món ăn nhung nhớ cả một đời người bởi nó được làm tỉ mỉ bằng cả tấm lòng của mình dành cho các cháu.

     Những món ăn giản đơn chứa đựng bao tình cảm của người làm giờ chỉ thấy thôi cũng đủ làm cảm giác của ta rưng rưng. Chẳng cao lương mỹ vị gì chỉ là những thứ trái cây có trong vườn nhà, những món bánh được tận tay các bà, các mẹ làm ra như bánh ú, bánh đúc, bánh xèo, bánh tro… rồi cả nhà quây quần bên nhau là đủ ấm cúng. Hương vị tình thân hun đúc nên thứ tình cảm gắn bó keo sơn giữa các thành viên trong gia đình từ đấy cả. Ta mang theo cả cuộc đời dù có đi phương trời góc biển nào. Ngồi thưởng thức bữa tiệc đón mùng năm tháng năm bằng nhiều món ăn hiện đại bây giờ như bánh pizza, hamburger và nhiều loại trái cây ngoại nhập làm ta nhạt nhòa cảm xúc như mất đi một thứ gì đấy luyến tiếc lắm. Ngoài kia vệt nắng giữa ngày đã quét qua con đường nhộn nhịp xe cộ như cuốn đi những ký ức của lễ hội giữa năm này. Còn đâu hương vị năm nào, còn đâu không gian của bao năm tháng cũ. Ta nhớ lắm, nhớ lắm ngày xưa ơi.

Chè khoai vạc

Tháng Chạp ta đã đến thật gần. Tiết trời năm nay thật lạ. Hình như tính khí cũng trở nên thất thường. Mấy hôm trước vừa mưa như trút. Mưa dầm dề mấy ngày không ngớt, vườn nhà ngập nước, mương nước trước nhà chảy ồ ồ vẫn không kịp, nước tràn lên mặt đường, tràn vào sân. Lênh láng. Hôm qua nắng như giữa ngày hạ oi nồng. Và chi qua một đêm thôi, trời rét buốt kèm mưa. Trời mưa rét dễ khiến con người ta hoài niệm. Tôi nhớ những ngày xa. Nhớ vườn khoai vạc cha trồng. Nhớ nồi chè khoai vạc nóng hổi mẹ vừa nhắc xuống khỏi bếp than hồng.

     Khu vườn nhà cha thường trồng đủ các loại cây.Khi bờ rào bớp bớp đã nở từng chùm hoa tím nhạt tôi lại náo nức vì sắp đến tết rồi. Gần tết, sắc đỏ của cây hồng nhung bung toả trước nhà hương ngào ngạt theo bước chân người. Luống thược dược đủ mọi sắc màu, những bông hoa thi nhau khoe sắc: thược dược đỏ, vàng, cánh sen …rực rỡ. Mặc ai khoe sắc, mặc ai khoe hương. Bụi khoai vạc cứ thế, âm thầm hút nhựa từ lòng đất để dâng người những củ khoai to nhất, ngon bùi nhất. Dây khoai leo lên cây mít mật trước sân. Nhờ tay người cần mẫn chăm sóc nên lá sum suê. Lá khoai to xoè ra như những trái tim. Khoai bị củ có màu tím sẫm luộc lên nứt nở, ăn thơm bùi. Khoai từ mẹ cha trồng thành luống, chúng tôi thường chơi trốn tìm nơi những nơi có cây lá um tùm như vậy. Những loại khoai này vấn vít vào nhau. Khoai cũng như người nương tựa nhau mà sống. Còn bọn trẻ chúng tôi xem chúng như những người bạn thân thiết chẳng kể buổi nào cũng có thể chạy ra mà nô đùa rồi cười vang cả góc vườn nhà. Có khi mải chơi mà quến cả lời mẹ dặn.

Thuở nhỏ, tôi không hiểu sao mẹ cha lại ưu ái trồng nhiều khoai vạc đến thế . Cha trừ giống khoai từ mùa trước. Giống khoai là phần trên cùng của củ khoai khi cắt để ăn cha mẹ không quên phần đầu làm giống đợi mùa sau. Khoai sau khi được cắt để giúp người no bữa sẽ dùng phần trên cùng, già nhất khi vừa cắt xong phải chấm vào tro bếp. Có vậy giống mới không bị khô héo dần rồi không trồng được. Cha mẹ trồng cả một vườn khoai. Thì ra, khoai vạc năng suất hơn nhiều loại khoai khác. Khoai vạc mỡ củ vừa to vừa trắng, nó là vật cứu tinh cho gia đình chúng tôi những ngày giáp hạt. Là niềm vui khi cha mẹ dỡ khoai, có củ khoai to như cái ấm, cha gọi chúng tôi lại cùng xem, tôi thấy áo cha ướt đẫm nhưng niềm vui ngập tràn. Bao nhiêu mệt mỏi dường như tan biến hết. Mẹ nhanh tay xếp khoai vào rổ trên môi nở nụ cười tươi. Trưa hôm ấy, mẹ cho chúng tôi thưởng thức món ăn từ khoai vạc.

     Mẹ nấu canh, những củ khoai bị chắn( bị nhát cuốc phập vào không còn nguyên vẹn) mẹ dành nấu trước. Hình ảnh mẹ tôi ngồi bên giếng khơi trước sân nhà, cặm cụi ,ti mẩn gọt những mẩu khoai rồi ngâm vào chậu nước giếng trong văn vắt. Rồi mẹ lại tất tưởi ra vườn hái những lá mùi tàu xanh mướt mọc chen lấn dưới những gốc chè. Mùi tàu rửa sạch, để ráo nước rồi bàn tay mẹ thoăn thoắt thái chỉ. Chẳng hiểu sao tôi cứ thích được ngắm mẹ tôi làm việc. Đến giờ, tôi cũng không hiểu vì sao mình lại cứ vô tâm mà chẳng biết giúp mẹ những việc làm dù là nhỏ nhặt. Mẹ thương tôi vì tôi còi cọt nên không nỡ bắt làm việc. Còn tôi cứ nhàn rỗi trong sự tất bật của mẹ một cách vô tình thế! Tôi chi chờ đợi nồi canh chín…Bát canh toả khói trong những chiều đông có lẽ suốt cuộc đời tôi cũng không sao quên được. Mùi thơm của rau mùi tàu xanh sắc lá, bát canh sánh đặc, nhin làn khói bốc lên đã thèm nhỏ dãi.

     Ngày ấy, đói. Chao ôi, đói. Nhất là những ngày đông bụng lúc nào cũng như kẹp lép lại. Khoai vườn nhà có sẵn, song hết nấu canh lại luộc. Những miếng khoai vạc trắng tinh, cứ nứt nở ra. Luộc cũng chán mà canh cũng ngậy. Một ít cơm còn chủ yếu là canh nên cả thèm đó nhưng xem ra chóng chán. Phàm cái gì cũng thế, ăn nhiều sinh ra không mấy trân trọng. Ngày một, ngày hai…chứ cứ liền tù tì đâm ra…chán! Nhớ nồi cháo chè khoai vạc mẹ nấu thơm cả chiều đông. Mấy ngày nay các bác kéo che ở sân nhà kho hợp tác( kéo che là ép những cây mía đê lấy nước nấu mật, người dân quê tôi dùng trâu để kéo che). Vui nhất khi cậu út gọi to:

-Chị ơi! Về nhanh lên. Mẹ nấu cháo chè chị ạ.

     Bát cháo chè khoai vạc được mẹ múc ra bát còn nóng hôi hổi. Chi mong được sà ngay vào bàn, húp lấy húp để bát chè cho đỡ cơn thèm. Bát chè ngọt ngào hay là vị ngọt của tình mẫu tử. Bát chè mẹ nấu ngọt đến tận ngày nay mẹ ạ. Những ngày cuối năm con lại cảm thấy lạnh giá hơn mẹ ạ. Mẹ ơi, mẹ có thấu lòng con không, mẹ kính yêu!

     Nhớ nồi cháo chè trong đêm giao thừa. Lễ tế Tổ họ Vương của chúng tôi muộn nhất trong tất cả các họ trong làng. Đúng mười hai giờ họ chúng tôi mới thực hiện nghi thức tế tổ. Họ Nguyễn Đình nhà cái Hương đã tế từ lúc 9 giờ. Họ Nguyễn Văn rộn ràng trống họ lúc đồng hồ chi mười giờ đêm. Họ Trần ở gần đó, lại là họ ngoại của tôi cũng bắt đầu tế tổ. Chị em tôi lại rồng rắn sang xem. Bác Hải, anh Hùng mặc bộ đồ lễ trông thật trang nghiêm…Chúng tôi mấy chị em cùng họ đi xem các họ khác tế tổ đã xong mà vẫn mới chi mười một giờ. Dạo loanh quanh cũng chán, mà giờ tế họ chưa đến tôi bèn rủ cái Uyên (Uyên cùng tuổi lại học cùng lớp) đi về nhà tôi. Nhà tôi chi cách nhà thờ họ có một quãng ngắn. Vừa về đến nhà đã nghe tiếng mẹ từ bếp vọng ra:

– Hai chị em về rồi à? Đã tế họ đâu mà về nhanh thế ?
– Con đói bụng rồi mẹ ạ.

Tôi nhìn lên bàn thờ, hương đang cháy đỏ, mùi hương trầm thơm ngát. Mẹ đã chu đáo mâm cỗ giao thừa với năm bát cháo chè thơm ngọt.

Mẹ tôi bao giờ cũng chu đáo trong việc cúng đơm. Hôm cha đào khoai vạc mẹ đã âm thầm chọn những củ khoai ngon nhất, không sứt mẻ một tí tẹo nào, mà phải là củ khoai cân đối, vỏ khá trơn tru để cất vào góc nhà. Những củ khoai ấy mẹ dành cho ngày lễ tết. Mẹ thường dạy chúng tôi phải trên kính dưới nhường, phải thành tâm với người đã khuất. Để có nồi cháo chè khoai vạc cúng lễ giao thừa mẹ mua mật trước đó cả tháng rồi. Mẹ chọn mật có màu vàng nâu sánh mọi. Nhìn ánh mắt mẹ ánh lên niềm vui được chuẩn bị cho lễ cúng giao thừa. Mẹ nói : Con người có cội nguồn, phải biết ơn, trân qu‎‎í tổ tiên, cố can, ông bà đã cho ta cuộc sống này, con ạ. Mẹ luôn nhắc nhớ chúng tôi nhớ về nguồn cội :

« Con người có cố, có ông
Như cây có cội, như sông có nguồn »
« Khôn ngoan nhờ đức cha ông
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ »

     Bát chè khoai ngọt thơm mẹ dâng lên người đã khuất, tôi như thấy ông bà đang nở nụ cười hiền. Tôi và cái Uyên ríu rít bên mẹ. Mẹ ơi, nhà thờ họ Nguyễn năm nay đông lắm ạ. Chúng con vừa ở đó về. Uyên thì nhanh nhảu : Làng mình có nhiều nhà thờ bác nhi, chúng cháu đi khắp luôn, bác ạ. Chúng tôi chờ đến giờ để xuống nhà thờ họ. Bỗng tiếng mẹ nhẹ nhàng cất lên : Còn chỗ cháo chè trong nồi hai chị em ăn nhé ! Bao giờ cũng thế, mẹ là người tâm lí nhất và yêu con nhất. Bát chè ngọt vừa độ, mùi khoai vạc thơm bùi, màu mật vàng nâu, những miếng khoai vạc bên trong trắng muốt, bát chè khoai vạc ngày xưa cũ con mãi nâng niu.

     Mẹ kính yêu của con ơi ! Bánh xe thời gian đã chuyển dần về những ngày cuối năm. Bầu trời đùng đục, gió vẫn thổi buốt thịt da, vườn rau nhà mình không hiểu sao mùa này không lên nổi mẹ ạ. Cả luống khoai sọ các năm xanh tốt là vậy mà nay lá khô dần, rũ xuống. Mẹ có biết không, khoai vạc, khoai bị đã đến kì thu hoạch. Hôm trước con qua chợ Truông dã thấy họ đã bày bán khá nhiều đó mẹ. Nơi góc chợ quê, con hình dung bóng mẹ một thời gồng gánh, tảo tần khi mớ chuối, mớ khoai. Mùa khoai lại tiếp mùa sao mẹ của con đi mãi. Mẹ ơi ! Mẹ về với con đi mẹ. Con ước được nhìn bóng mẹ. Con ước được nghe tiếng mẹ. Con thèm được cất lên hai tiếng : Mẹ ơi ! Hình bóng mẹ vẫn đâu đây mà con không bao giờ chạm tới. Con vẫn như nghe văng vẳng bên tai câu ca dao xưa mẹ thường hay đọc : « Từ từ, vạc vạc/ Bên bác mang về… » Bụi khoai vạc nhà chú Ba trước ngõ nhà mình lá úa vàng và bắt đầu rụng xuống. Nay mai chú sẽ thu hoạch thôi mẹ ạ. Mẹ có thèm ăn khoai luộc như có lần mẹ bảo lúc này chi thèm một miếng khoai vạc thật bột, loại khoai mỡ thật trắng để ăn không ạ . Lần ấy, mẹ yếu lắm rồi, không thể nào nuốt khoai được nữa. Có những khi, mong ước bình dị, mong ước nhỏ nhoi nhất nhưng cũng không có cách nào thực hiện được.

     Mùa khoai tháng chạp, con lại thấy thấp thoáng bóng mẹ đâu đây. Mẹ thoăn thoắt ra vườn với chiếc rổ tre trong tay trên môi nở nụ cười hiền hậu. Chị em con cùng nhặt những củ khoai cha vừa đào được. Mẹ lại tất bật với những khoai luộc, nấu canh, nấu chè …Bao nhiêu món ngon được tay mẹ nấu. Ngôi nhà thân yêu lại rộn rã tiếng nói cười. Những giây phút ấy chúng con hạnh phúc biết bao. Thế nhưng, tất cả chi là một giấc mơ. Không bao giờ chúng con được gặp mẹ nữa dù chỉ một lần…một lần thôi. Có chăng mẹ chi hiện về trong những giấc mơ. Mẹ hãy về trong giấc mơ của con, mẹ nhé ! Đã gần một năm rồi chúng con không còn mẹ, Cha và chúng con thật không dễ gì chấp nhận sự thật này. Khi về nhà mình, con vẫn cất tiếng gọi mẹ, tìm cha. Con vẫn có thói quen mở nhẹ tấm mành và nhẹ nhàng gọi mẹ. Sau đó cất tiếng gọi cha. Tìm cha nhà mình thật dễ mẹ nhi ? Nếu cha không đọc báo trong phòng thì chắc sẽ ra vườn bắt sâu, tưới nước cho mấy cây rau, cây hoa sau trước vườn nhà.

     Mùa khoai vạc năm nay, con và cả cái Uyên nữa chi biết nấu cháo chè dâng lên những người mẹ kính yêu của chúng con. Vườn nhà mình năm nay không trồng được gốc khoai từ, khoai vạc nào mẹ ạ. Nhưng con tin ngày tết vẫn không thể thiếu bát cháo chè khoai vạc với tấm lòng thành kính dâng lên người đã khuất. Thức quê dân dã với tấm lòng thơm thảo. Món quê gọi về bao kỉ niệm những ngày xa.