22 C
Hanoi
Thứ Năm, Tháng 10 23, 2025

Lững thững… và yêu

C ó những buổi chiều, tôi ngước nhìn...

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...
Trang chủ Blog Trang 11

Đôi mắt Ê Đê

TÁC GIẢ NGUYỄN DUY HÀ

Có một lần được được đắm chìm trong ánh mắt sơn nữ giữa chiều Ma Đrắk đầy gió, một đôi mắt trầm thăm thẳm ẩn sau hàng mi cong vút sánh đầy cái nắng Tây nguyên đại ngàn kỳ vĩ, mông lung.

Ngược rừng xanh thẳm, đến với E H’leo, rồi ghé Đ’Rây Sáp, dọc dòng Sê Rê Pôk lắm thác nhiều gềnh. Qua Buôn Đôn, Buôn Trấp, ngược xuôi trên rẻo đất Tây Nguyên âm vang Cồng chiêng cùng ánh lửa, ở đâu ta cũng được gặp ánh mắt đầy quyến rũ, lấp lánh niềm tin của cuộc sống hồn nhiên, hòa cùng nương rẫy, rừng thiêng. Ánh mắt tạo hóa sinh ra chỉ dành sáng cho đại ngàn xanh thẳm. Ấn tượng đó khiến cho ai cũng nao lòng không thể nào quên được…. Đôi mắt Ê Đê!

Đôi mắt của em đưa ta về với Tây Nguyên hùng vĩ, nơi góc mái nhà rông sừng sững cong vút tựa mũi thuyền đang lướt về phía rực rỡ ánh trăng đại ngàn, Nơi cánh tay trần vươn cao trong ánh lửa gợi cho ta như được cùng Đam San vươn tới mặt trời. Men rượu cần khiến ánh mắt em long lanh, làm ta say nghiêng ngả chiêng ngân, Hỡi Hơbia, cho ta được cùng em ngân lên lời khan Đam San say đắm lòng người, cất cao theo cùng Đing năm, Đinh Ktút.

Ta bên em trong lễ cúng mùa, em vai trần thổ cẩm, hương nếp ủ trong nồng nàn nắng sớm Chư Yang Sin. Em say hồn đất, ta say mắt người. Nương lúa ngời theo tiếng hát vàng đượm trong ánh mắt ấy theo ta cùng tín ngưỡng no ấm ngày mùa, ngày mừng cơm mới trong Buôn. Em nhìn sâu mắt ta dường như nhắn nhủ: “Cùng nhau uống đi, rượu ngọt như mật con ong rừng, vàng như hoa êđắp bên bờ suối. Uống cho sóng sánh mặt nước trong ché, phiêu diêu tâm trí người già và chếnh choáng những bước chân trai trẻ đang cùng nhau vui điệu camrok…”.

Ta theo ánh mắt em về bên nhà dài ấm áp với bếp lửa nồng ngày đêm chưa tắt, đặt chân lên cầu thang đực dõi theo gót chân trần em qua chín bậc hõm mòn năm tháng, lòng thật bình yên giữa hoàng hôn Tây Nguyên huyền diệu. Tiếng “Ching – Cram” cất lên từ phía nhà Rông mời gọi, không ai không mềm lòng cất bước bâng khuâng!

Ta gặp em chiều hồ Lắk, từng rạn mây chiều in bóng nước làm ánh lên màu thổ cẩm em phơi. Con thuyền độc mộc chở ánh mắt em đi đâu làm ta ngơ ngẩn, bất chợt quên rằng hoàng hôn đã phong kín mặt hồ tĩnh lặng.
Ngày trở lại miền đất đỏ bazan, ta lang thang khắp chốn tìm em, chỉ mong gặp lại đôi mắt ngày nào đang dõi theo cánh ong bay tìm mật tháng ba, ánh mắt từng thắp lên ngọn lửa thiêng trước nhà Rông đêm hội, khiến ta say hơn sánh ché rượu cần lớn tuổi.

Rồi tình cờ ta gặp em đêm Buôn Mê lặng gió, em khoác áo thị thành thay thổ cẩm, ánh mắt xưa khuất sau lớp kem đánh vội, em không còn gùi trên vai ánh trăng đại ngàn mười tám. Em cười buồn sau phút lặng yên, rời kể ta nghe như tụu sự với chính mình:
“Rừng đã cạn rồi anh ạ, lũ nai bỏ đi đâu hết rồi, đêm qua em nghe con hoẵng về tác trong mơ”…!

Mắt em nhìn về phía đại ngàn mà ầng ậc nước, hàng mi chẳng còn cong như cánh ná mùa săn, ánh mắt buồn thăm thẳm.

Nhà dài không còn, Buôn xưa không còn nơi cũ vì cơn lũ quét, nhà Rông giờ sàn gạch lặng thinh, bóng bẩy, Kpan làm bằng bê tông lạnh cóng. Trai làng không còn ai thích Đinh Ktút vì ống nhôm thổi chẳng có hồn, giờ tìm đâu ra cây nứa già nữa hả anh?

Ta im lặng nghe nỗi niềm tiếc nuối trong em, rồi cảm thấy dường như mình có lỗi, khi đôi mắt ngày xưa lấp lánh ánh trăng đại ngàn đã trở thành tín vật nơi ta, nay đã nhòe đi giữa ánh đèn phố thị. Em thương rừng đại ngàn đang đau, thương lũ thú phải bỏ nơi này mà đi mãi. Thương dòng Sê Rê Pôk mùa mưa đục ngầu thác lũ, mùa khô cạn kiệt đôi bờ, thương lũ voi già suốt ngày cần mẫn lội nước hồ Lăk quánh sương.

Và em thương người đã từng dọc bìa rừng Tây Nguyên kiếm tìm đôi mắt người xưa trong tiềm thức đẹp, ánh mắt chưa từng phai lẫn bao giờ. Đôi mắt của nàng sơn nữ…đôi Ê Đê!

Xuân về trên đèo mây thương nhớ

TÁC GIẢ: VÕ THỊ THU HƯƠNG

M ỗi chuyến trải nghiệm trong đời người, mỗi khu rừng, mỗi con đèo, con dốc ta đã đi qua đều để lại cho ta những yêu thương, luyến nhớ, những trầm trồ ngợi ca về vẻ đẹp của đất nước và con người đất Việt. Ta đã từng đi qua nhiều con đèo trong mảnh đất hình chữ S, nhưng riêng với Hải Vân, con đèo hùng vĩ, là dải ngăn cách, là gạch nối yêu thương giữa Huế và Đà Nẵng luôn có một sức hút mãnh liệt, thôi thúc ta chinh phục và chiêm ngưỡng bằng trái tim yêu mê đắm .

Cuối năm, nắng xuân ngập tràn trên những vùng biển kỳ vĩ của dải đất Miền Trung. Sau những ngày nghỉ ở Lăng Cô, vùng biển hoang sơ, thơ mộng của xứ Huế. Ta thức dậy khi bình minh bắt đầu he hé những tia hồng hào trên biển. Phía Nam, đèo Hải Vân hiện ra ảo diệu như một bộ phim màu quyến rũ. Thôi thúc, mời gọi ta một cuộc trải nghiệm cùng mây gió, cùng sơn thủy hữu tình.

Ôi Hải Vân, cái tên thơ mộng, mới nghe đã thấy biển xanh và mây trời quấn quýt. Từ chân đèo, từng cụm mây trắng lững thững bay lượn trên những ngọn cây cao lớn xanh um.Ta dừng chân ở lưng chừng đèo, lim dim mắt tận hưởng bầu không khí trong veo, rười rượi của bốn phương. Ta phóng tầm mắt nhìn về phía Bắc, thốt lên những tiếng xuýt xoa trước không gian tinh khiết, mênh mông xanh của đại dương trập trùng vô tận. Xa xa là Vịnh Lăng Cô, là những bãi cát trắng phau phau ôm lấy chân đèo uốn lượn. Những chiếc thuyền đánh cá nhỏ xíu nhấp nhô trên thảm sóng lăn tăn. Ta muốn thu vào tầm mắt làng chài lao xao gió cát, lao xao rừng dừa ấy một lần nữa rồi tiếp tục hành trình.

Ta mê mải ngắm những con dốc hiểm trở nhưng có sức hút mãnh liệt với du khách. Mải ngắm núi rừng hũng vĩ tràn đầy sức sống, mải ngắm biển cả bao la tới tận chân trời, cây và hoa rừng đua nhau chen lấn giữa bạt ngàn không gian.

Ôi Hải Vân, người ta thường nói Hải Vân vào mùa này lạnh cóng nhưng ta chỉ cảm nhận không gian nơi đây mát lành như que kem sữa, nắng xuân dát vàng lên những cánh rừng trùng điệp. Hắt muôn vàn sợi tơ óng ánh xuống biển cả bao la, xanh tít tắp. Cứ ngỡ ta đang lạc vào cõi thần tiên kỳ ảo có màu xanh thẫm của cỏ cây, có màu xanh ngọc bích của biển cả thẳm sâu, có hương hoa rừng ngọt ngào quyến rũ. Có những cung đường vừa hiểm trở vừa nên thơ, vừa hùng vĩ vừa mềm mại. Chập chờn, diệu ảo, thực mà mê, mê mà thực.

Gió xuân đại ngàn vi vu, cái se se lạnh của ngày cuối năm nhẹ nhàng mơn man lên má, lên tóc. Càng lên cao nhiệt độ trên đèo càng xuống thấp hơn một chút. Ta mặc thêm chiếc áo khoác, quàng thêm chiếc khăn len qua cổ. Nắng xuân tuy còn ấm áp nhưng màu vàng đã nhạt hơn, dịu dàng vương lên tán lá rừng, nhường chỗ cho biển mây, biển sương chập chờn khiêu vũ trên từng cung đường mềm mại như dòng suối trắng xóa, ôm ấp những triền núi đang chìm trong giấc ngủ say.

Ôi Hải Vân, từ thưở hồng hoang đã có tên là đèo Mây, phải chăng mây chính là linh hồn của con đèo kỳ vĩ ? Phải chăng ta đang lạc vào cõi mây kỳ ảo như mơ? Có lúc mây bay từng tầng, từng lớp, lơ lửng chơi vơi trên đỉnh đèo. Có lúc mây cuộn lại từng cục mềm mịn như bông luồn vào trong từng gốc cây, từng bụi hoa dại. Có lúc tan ra, quấn quýt vào sương, từng dải mây bao phủ, trườn xuống, len lỏi trong rừng thông.

Ta xuýt xoa, trầm trồ trước một không gian bao la trùng điệp, lãng mạn nên thơ ngỡ như đang chìm trong giấc mộng. Cái mát lạnh dịu dàng, cái nắng vàng êm ái, cái mùi hương của rừng phả vào trong gió đại ngàn mang theo vị mặn mòi của biển khiến cho ta say quên cả lối về.

Ôi Hải Vân, nguồn cảm hứng ngọt ngào của thơ ca, nhạc họa, bất chợt dư âm tha thiết trong ca khúc “Tàu anh qua núi” của nhạc sĩ Phan Lạc Hoa ngân nga trong ta:

“Đi dọc Việt nam theo bánh con tàu quay
Qua đèo Hải Vân mây bay đỉnh núi…
Trời quê hương trong xanh như lời hát
Biển quê hương ru êm êm bờ cát..”

Thế rồi, ta lặng ngắm làn mây bị nắng xua, dần dần tan thành những tấm thảm mềm, mỏng trắng như khói. Những cung đường uốn lượn như dải lụa trên đôi tay của người diễn viên múa hiện ra dưới ánh nắng xuân chan hòa.

Ta lặng ngắm con đèo đang bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài, đánh thức câu chuyện kỳ thú, ríu ran của chim muông, cây cỏ. Dù đã có hầm đường bộ nhưng người dân vẫn vượt đèo để vào Nam ra Bắc bằng các loại phương tiện. Họ dừng chân trên đỉnh đèo để tranh thủ lưu lại những khoảnh khắc tuyệt đẹp của chốn bồng lai tiên cảnh. Những hàng quán trên đỉnh đèo trở nên tấp nập rộn rã, giọng Quảng Nam, giọng Đà Nẵng dễ thương, mộc mạc mới nghe đã thấy hương gió biển nồng mặn, xốn xang. Một quán cà phê được trang trí khá đơn giản bên hòn đá cụ Rùa. Quán cà phê này của một nhóm bạn trẻ, các em nói năng nhẹ nhàng, lịch thiệp và gần gũi:
– Dạ, con chào cô, cô uống nước chi? Cô uống xí trà gừng cho ấm nghe!

Ta vừa nhâm nhi cốc trà gừng vừa thả hồn đắm say trước vẻ đẹp hùng vĩ của núi non, của mây trời biển cả ngút ngàn xanh thẳm. Tu..tu..tu, đoàn tàu hỏa rùng mình, ngoằn ngoèo như một con trăn khổng lồ, rẽ những bụi cây um tùm, từ từ chui vào đường hầm. Xa kia là thành phố Đà Nẵng hiện đại và kiêu sa, sầm uất và duyên dáng, ôm trọn bờ biển cong cong, quyến rũ đến nao lòng. Điểm nhấn là tòa nhà Trung tâm hành chính Đà Nẵng nhìn xa ngỡ như một thỏi son màu xanh độc đáo. Bán đảo Sơn Trà, cù lao Chàm thấp thoáng nổi lên như những chóp ô màu xanh mộng mơ giữa biển trời bao la vô tận.

Những con thuyền đánh cá đang bung lưới ngoài khơi nhìn xa như chiếc lá khô nhỏ xíu, di chuyển chậm rãi để lại phía sau những đường rẽ sóng, trắng xóa ảo diệu. Những cụm mây bồng bềnh, lững thững vương vấn trên thảm lá rừng. Chẳng còn lạnh lẽo, chẳng còn buốt giá. Chỉ có nắng xuân ấm áp giữa không gian kỳ vĩ, tráng lệ. Giữa khoảnh khắc này ta nhận ra con người quá bé nhỏ, kiếp người là hữu hạn trước vũ trụ mênh mông. Giữa khoảnh khắc này, bao nhiêu căng thẳng âu lo, bao nhiêu bực dọc, buồn bã phút chốc tan biến, chỉ còn lại sự an nhiên tĩnh tại, chỉ còn lại tình yêu neo đậu trong tâm hồn ta. Để ta càng thêm tự hào, càng thêm say đắm trước những tuyệt tác mà mẹ thiên nhiên đã ban tặng cho Đà Nẵng, cho mảnh đất hình chữ S yêu dấu:

“Ta muốn hóa là mây một lát
Để bay nhìn biển núi Hải Vân ơi!”
Hoàng Trung Thông

Và ta thầm cảm ơn vua Lê Thánh Tông, đấng anh minh trong lịch sử nước nhà đã gọi nơi này là “ Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Trên dặm trường thiên lý, cái tên ấy mãi mãi được nhắc nhớ như niềm tự hào về một địa danh đặc biệt của dân tộc.

…Bên bãi biển hoang sơ Thanh Khê, ta hít hà cái hương vị mặn nồng của biển cả. Ta lắng nghe giọng nói, nụ cười của những con người chân chất, thân thiện. Ngắm những cánh hoa mai mang sắc vàng của nắng trên đường Nguyễn Tất Thành. Chợt nhận ra mùa xuân đang về trên đèo Hải Vân, đang về với Đà Nẵng. Một Hải Vân, một Đà Nẵng nên thơ, kỳ diệu ai đến một lần cũng chẳng nỡ rời xa…

Ký ức Châu Giang

TÁC GIẢ: CAO PHAN LONG

M ỗi dòng sông đều mang trong mình một câu chuyện kể, từ những mạch thời gian, mềm mại và mát trong. Ai cũng có một dòng sông để thương để nhớ, để uống từng ngụm nỗi niềm xứ sở mỗi lần đi rồi lại quay về. Quê tôi cũng có một dòng sông, dòng Châu Giang êm đềm mênh mang.

Châu Giang là cả một quãng dĩ vãng của những ngày hè về, được đằm mình trong hương phù sa. Châu Giang chảy qua những đồng bãi mía, ngô, rau, lạc, đay, nơi màu xanh quấn quýt từng hạt phù sa. Cây soi mình xuống dòng sông, cây che mát cho nước, rồi cây lại uống nước để lớn lên, vũng chãi và rì rầm câu chuyện kể nghìn năm. Chuyện người con gái Nam Xương mang nỗi oan khiên trẫm mình để lại chiếc bóng soi trên tường và giọng nói bi bô con trẻ.

Chuyện Đức Thánh Trần sải mình trên vó ngựa chiến chinh đã dừng lại an giấc nghìn thu nơi đất Trần Thương, “thác Trần Thương quê hương Bảo Lộc”, còn lại bóng trầm mặc đền Trần soi vào thiên thu đến tận mãi về sau. Những câu chuyện hùng ca hay ai oán đó đều từ lửa khói chiến chinh, chiến chinh đã để lại những vết xước của lịch sử, buồn đau, ai oán, bi thương, hào sảng, để những dòng sông qua mịt mù, sục sôi lửa đạn trở lại bình yên soi bóng mặc trầm.

Châu Giang cũng có giận hờn, có trầm mặc, có ưu tư, có chút dịu dàng lại có cả những xù xì góc cạnh của mỗi tháng năm qua bóng bên bờ. Lúc yên bình, dịu ngọt thì thong thả để trải bóng mây, bóng cây trên mặt nước trong. Khi dỗi hờn thì lăn tăn sóng như người đẹp nhăn mặt nhíu mày. Khi nổi giận thì đỏ mặt cuốn phăng phăng, chẳng thương tiếc gì phận bèo dạt mây trôi. Đâu đó ở huyện Lý Nhân này, nơi dòng Châu Giang gửi vào biết bao hương sắc. Hương sắc văn vật xứ này, từ chuối ngự tiến vua thơm lừng lẫn vào canh cửi và món cá kho niêu Hòa Hậu. Từ sen Trác Nội, Trần Thương mỗi mùa hạ miên man những đầm sen hương đắm say, dịu ngọt. Đan lát đồ tre nứa từ Thọ Chương đến Bảo Lý thành cót, thành nong nia, giần sàng thúng mủng, xứ đồng chiêm quanh năm đầu tắt mặt tối với công việc đồng áng, thôn quê. Từ bánh đa nem làng Chều đến bánh đa Phúc Hạ. Những sản vật, cảnh sắc đó đậm sắc vị của làng quê từ huyện Nam Xang đến phủ Lý Nhân hay huyện Lý Nhân ngày nay. “Sống ngâm da chết ngâm xương” là câu chuyện từ cha ông về những kí ức xứ đồng chiêm trũng xa xưa, giờ chỉ còn là quá vãng. Những cánh đồng ngày nào giờ đã không còn cò bay mỏi cánh, dần bị thu hẹp bởi khu công nghiệp, đô thị và những công trình. Con cò ngày nào giờ chỉ còn dang cánh liệng chao trong kí ức, những kí ức huyền ảo của thời gian.

Sông không thể xa vắng những con thuyền. Những chiếc thuyền tôi thường gặp quãng thời thơ ấu là những con thuyền đánh cá độc mộc, thường có một ngư phủ lênh đênh trên sóng nước với chiếc lưới để quăng chài bắt cá. Đây là một tấm lưới tròn với những viên chì gắn ở mép dưới của lưới. Người ngư phủ ngồi trên con thuyền có một phần là mái che vòm được đan bằng tre nứa để tránh nắng tránh mưa, một phần không có mái che để quăng chài bắt cá. Lưới được quăng ra, nhìn động tác của ngư phủ như một điệu múa xòe trên mặt sông lênh loang nắng chiếu hay giữa một màn mưa giăng xiên chéo xuống mặt sông. Người ngư phủ kéo lưới lên, những con cá nằm trong lưới được gỡ ra nhảy tanh tách trong khoang thuyền, giữa dòng sông dưới ánh bình minh hay hoàng hôn ươm nắng phía chân trời.

Châu Giang nối sông Đáy với sông Hồng, cũng thăng trầm cùng lịch sử, có thời khắc bị ngăn trở thành Tắc Giang, có thời khắc dòng nước bị gập gềnh qua 3 con đập. Dòng Châu Giang nào còn lưu bóng trầm ngâm của hoàng đế Lý Công Uẩn trên đường xuôi sông Đáy qua Châu Giang ra sông Hồng về thành Đại La để xuống chỉ dời đô. Một đêm mùa thu năm Thuận Thiên thứ hai, người đã tựa mạn thuyền rồng trầm ngâm xem thế nước trên dòng Châu Giang lặng lẽ mờ sương.

“Nam Xang tứ cố đại hà” (Nam Xang bốn mặt sông lớn), Lý Nhân được bao bọc bởi những dòng sông, nên đồng ít, bãi nhiều, mới có câu “Nam Xang đồng hẹp bãi dài/Ăn cơm thì ít, ăn khoai thì nhiều”. Núi Đọi – sông Châu đã trở thành thơ, thành nhạc ngân lên trong mỗi tâm hồn của người con Hà Nam xa xứ. Dòng Châu Giang từ Phủ Lý qua Duy Tiên, Bình Lục, Lý Nhân, quê hương tôi, nơi dòng Châu Giang hòa phù sa vào dòng nước mẹ sông Hồng. Chiều nào tôi còn ra tắm mát đợi một bóng thôn nữ bờ bên kia ra sông vo gạo sắp bữa cơm chiều. Một ngày tôi lại về bên dòng Châu Giang để vọng ước những mùa qua soi bóng giữa ngàn mây.

Nụ cười cúc họa mi

NGUỒN ẢNH GIA ĐÌNH

Lê Minh

C ó một loài hoa cầm trên tay cả tháng Mười, chỉ đón đợi vạt nắng cuối thu mới bung nở hết mình gọi ngày xưa trở lại. Hoa không vương giả như ngô đồng, không lung linh như hồ điệp, không nồng nàn như dạ lý bên sông, nhưng ngày hoa nở sưởi ấm cả mùa đông, khiến hoàng hôn cũng phải tần ngần. Hoa tinh khiết trắng trong như nụ cười, đó là nàng cúc hoạ mi.

Có nơi nào ngàn hoa khoe sắc trên những gánh hàng rong, rong ruổi trên những chiếc xe đạp, có nơi nào ai gánh mùa len lỏi đi khắp phố phường như thủ đô Hà Nội. Nhìn những chiếc xe chở hoa nối đuôi nhau qua ngõ phố sẽ biết Hà Nội đang là mùa nào. Cứ như vậy, những chiếc xe chuyên chở cả bốn mùa làm nên vẻ đẹp đầy yêu thương, diễm lệ nhưng không kém phần tinh tế.

Khi tháng Mười cạn ngày chính là lúc cúc hoạ mi trắng muốt biếc cười. Mặc ai nông sâu, mặc ai dỗi hờn, hoạ mi chờ ngày cả gió nở không chạm mùa. Họa mi dịu dàng cánh trắng mỏng manh, ấp ủ bên trong nhuỵ vẫn còn vương vấn vàng thu của nắng. Hà Nội có nhiều mùa hoa, nhưng hiếm có loài hoa nào mang đến cho lòng người nhiều xúc cảm bâng khuâng như cúc họa mi vậy. Dẫu đông lạnh rét căm, họa mi vẫn đứng giữa trời hữu tình bung nở. Có biết bao nhiêu câu chuyện về những loài hoa, nhưng cúc hoạ mi vẫn luôn được nhiều người nhắc tới như một niềm vui vào mùa lạnh trong những ngày đầu đông. Bởi chỉ nhìn thấy hoạ mi nở là lòng người cảm thấy an yên, ấm áp, thanh bình, phơi phới niềm vui giữa cuộc sống dù vẫn còn nhiều bộn bề, hối hả và lo toan.

Ở những cánh đồng dọc ven sông Hồng, mỗi ban mai thức giấc, cúc hoạ mi còn ngái ngủ đẹp mơ màng trong màn sương khói bảng lảng. Đến khi những tia nắng soi rọi hong khô những giọt sương, người ta cứ ngỡ như ảo ảnh cả một khung trời, cúc hoạ mi đẹp tinh khôi rực rỡ giống như hàng ngàn nụ cười xinh xắn đang đón chào ngày mới. Hoa cúc họa mi với vẻ ngoài mảnh mai yếu đuối, nhưng họa mi lại là một loài hoa tràn đầy sức sống mãnh liệt. Dẫu trong điều kiện khắc nghiệt thế nào đi nữa hoa vẫn có thể sinh trưởng và phát triển tốt.

Cúc họa mi tượng trưng cho sự mạnh mẽ và ý chí kiên cường. Thân cúc họa mi có nhiều cành và nhánh dài. Bao quanh màu hoa trắng tinh khiết ấy là đốm vàng đậm của nhuỵ. Lá mọc rời rạc trên cành, bề mặt nhám xanh, đầu lá hơi nhọn. Người người ngắm nhìn cúc họa mi cũng không khỏi tò mò với tên gọi của hoa. Cúc họa mi giống tên một loài chim có dáng hình nhỏ xinh, giọng hót lảnh lót rất hay khiến hoa lại càng thêm phần đặc biệt. Tuy khúc hát của cúc họa mi không thành tiếng, nhưng văng vẳng trong tâm trí người yêu hoa rất nhớ để đông sang tìm về…

Trong thần thoại La Mã, cúc họa mi chính là hóa thân của nàng Belides tượng trưng cho sự nguyên vẹn và tấm lòng trong trắng trinh nguyên. Hoa còn được gọi bằng một tên rất thân thương nữa đó là hoa cúc Baby, hoa trong trẻo hồn nhiên như những đứa trẻ. Có một nhà văn từng nói rằng “tình yêu đôi lứa giống như đứa trẻ không bao giờ lớn”.. Điều đặc biệt nữa cúc họa mi còn có tên tiếng Anh là “daisy” bắt nguồn từ tiếng Anh cổ, “day’s eye” mệnh danh là “con mắt ban ngày”. Hoa được gọi như vậy vì cúc họa mi nở vào lúc bình minh luôn hướng về phía mặt trời. Đến ráng buổi chiều hôm hoa chầm chậm khép mi bằng cách cụp cánh ôm thương lấy nhuỵ.

Mùa cúc họa mi tuy rất đẹp, nhưng chỉ nửa tháng trời nở hoa. Nếu ai vô tình mải mê bận rộn với công việc, đến khi nhớ ra thì đã lỡ một mùa hoa. Dẫu lòng ngẩn ngơ nuối tiếc, nhưng đành lỗi hẹn mùa sau. Họa mi giống như sứ giả tình yêu, nhắc nhớ mọi người hãy nói lời yêu thương khi còn có thể ….

NGUỒN ẢNH GIA ĐÌNH

Đặc biệt, cúc họa mi còn mang nhiều ý nghĩa ẩn giấu đằng sau vẻ đẹp tinh khiết, sáng trong, thánh thiện có phần giản dị. Mẹ tôi thời con gái rất yêu cúc họa mi. Mẹ nói, loài hoa dại mỏng manh này nhường hương kiệm sắc, nhưng lỡ thương một lần sẽ vấn vương cả đời. Ngày ấy, bố tôi theo đuổi mẹ, hành trang yêu thương bố dành cho mẹ trong lần đầu gặp gỡ là bó cúc họa mi gói trong tờ giấy báo. Những bông hoa vẫn còn ướt đẫm sương đêm trên từng cánh. Mẹ đón nhận bó hoa trong tay nở với bố một nụ cười rất tươi. Bố kể lại, đó là nụ cười đẹp nhất mà bố từng thấy – nụ cười cúc họa mi. Ngồi đằng sau xe đạp bố chở, mẹ tôi ôm giữ bó cúc họa mi vào lòng, mẹ như ôm cả sự thổn thức và tình yêu của bố dành cho mẹ…

Đã nhiều năm trôi qua, bó cúc họa mi năm ấy vẫn luôn ngự trị trong lòng mẹ. Mẹ tôi từng nói với bố. Trải qua bao tháng năm làm bạn đời của nhau, tình yêu của mẹ vẫn an yên trên bàn tay bố có bó cúc họa mi ngày nào. Mẹ mãi là bó cúc họa mi thanh thuần trong cuộc đời của bố. Giờ đây, mỗi khi cơn gió mùa đông bắc đầu tiên e lệ lướt qua thềm cửa, những vệt nắng cuối thu khẽ hôn lên tán lá vàng. Bố tôi lại có dịp mua cúc họa mi về tặng mẹ. Mẹ tôi nói, mỗi khi nhìn ngắm loài hoa này, mẹ thấy tình yêu của bố dành cho mẹ hiện hữu khắp mọi nơi, loài hoa được bố mẹ tôi mệnh danh là “đôi mắt của ngày mới”. Hai bàn tay bố mẹ đã cùng cúc họa mi đi qua biết bao năm tháng đời người …

Cúc họa mi là loài hoa gây thương nhớ trong lòng người Hà Nội mỗi độ đông về, luôn nở rộ trong tâm hồn của những người yêu nhau. Ở mỗi cánh hoa không có nỗi buồn trú ngụ, cúc họa mi biết giấu niềm đau ở sâu kín gốc. Cúc họa mi tinh khiết, sáng trong thanh thuần cho những yêu thương còn mãi…

Cúc họa mi cầm trên tay cả tháng Mười, chỉ đón đợi vạt nắng cuối thu mới bung nở hết mình gọi ngày xưa trở lại…Ai gánh mùa thu qua ngang phố…Ngày bố mất, mẹ tôi đã để bó cúc họa mi rất đẹp trên linh cữu của bố. Mẹ tin, bố có thể mang được cúc họa mi theo cùng…Bố tôi không còn nữa, nhưng bố đã nhìn thấy nụ cười đẹp nhất của mẹ- NỤ CƯỜI CÚC HỌA MI…
30/11/2023

Đời phấn

Tác giả Bùi Duy Phong

Nhà giáo Bùi Duy Phong

M ỗi một vật dù vô tri, vô giác trong thế giới bao la này đều có cuộc đời riêng của nó và tôi cũng vậy. Tôi sinh ra trên cõi đời này để gắn phận mình với một nghề mà người ta cho là cao quý nhất – nghề giáo. Tôi chính là viên phấn trắng ngày ngày đồng hành cùng thầy cô và các bạn học sinh. Cứ mỗi khi đất trời nỉ non những cơn mưa dầm dề giữa đông, lòng tôi lại rạo rực dù những rét buốt theo ngọn gió phương bắc đã tràn về.

Đó là những báo hiệu của đất trời cho tôi biết sắp được đón chào ngày mà người ta ngợi ca những đóng góp của mình cho sự nghiệp trồng người, tri ân những công lao của các thầy cô giáo. Chút nắng, chút mưa và chút se se lạnh của những ngày đông là khoảnh khắc làm lòng phấn bỗng dưng dịu mềm.

Nó chính là khoảng thời gian lắng đọng nhất trong một năm học dài dằng dặc với biết bao biến cố, căng thẳng mà phấn cùng thầy và trò phải trải qua. Tôi nằm đó, nơi thân quen trong suốt cuộc đời mình chứng kiến gần như trọn vẹn những thăng trầm của giáo dục.

Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ nên mặc dù sinh ra từ đá vôi nhưng tôi lại có duyên về làm bạn với thầy cô giáo, với lớp lớp học trò yêu thương. Tôi và người bạn thủy chung bảng đen đã chứng kiến bao thăng trầm của ngành trồng người này. Nhớ cái thuở ban đầu khi thóc cao gạo kém, thầy cô giáo cơm không đủ no vẫn ngày ngày bám lớp vì bao cặp mắt ngây thơ mở to chờ đón cái chữ. Bao mái đầu xanh học trò vẫn miệt mài bên trang vở gieo lên trong lòng những người cầm phấn một thứ tình cảm trong trắng nhất, tình thầy – trò.

Tuy đói nghèo, áo quần có khi chẳng lành lặn nhưng họ được xã hội tôn vinh, học trò yêu mến. Chữ thầy thật sự cao quí khi truyền thống tôn sư trọng đạo từ bao đời vẫn được xã hội gìn giữ. Phấn tôi ngày ấy cũng mộc mạc với thân hình thô ráp và làn da hâm hẩm chứ chẳng thon gọn, trắng trẻo và láng mượt như bây giờ đâu. Đời thế mà vui vì phấn chẳng khác gì chất xúc tác góp phần chăm bón cho những tế bào non xanh lớn lên từng ngày. Nếu một ngày không có phấn, bài giảng của các thầy cô sẽ không tròn vị và chắc chắn rằng ai cũng hỏi đến tên mình. Tôi vẫn theo chân các thầy cô mỗi sáng, mỗi chiều tận hiến đời mình để viết lên bảng đen những bài học giá trị. Chín tháng ròng không ngơi nghỉ cho đến tận lúc các thầy cô buông phấn tôi mới có được chút thảnh thơi.

Phấn thật sự hạnh phúc khi làm công cụ cho những người nghệ sĩ bục giảng trình diễn. Họ say sưa hàng giờ trong từng tiết dạy để ươm mầm ước mơ. Đôi lúc tôi cảm thấy mình có lỗi khi ngày ngày vẫn đáp lớp bụi phấn trên mái tóc vốn đã bạc theo thời gian giờ càng thêm bạc của họ. Rồi có những cô thầy không vượt qua được cơn bĩ cực của nghề mà đành rời xa bục giảng, đành bỏ phấn. Tôi nằm lăn lóc trên bàn day dứt cho những cuộc ra đi vì thời cuộc. Giọt nước mắt trong những lần chia tay bảng đen phấn trắng cứ làm tôi luyến tiếc mãi cho đến tận giờ.

Hồi thái lai cũng đến khi cuộc sống hồi sinh, phát triển. Chứng kiến sự đổi thay trong đời sống của những người làm giáo dục, phấn cũng vui theo. Thầy cô giáo không còn chạy ăn từng bữa nữa mà có thời gian để đem hết những nhiệt huyết, trí tuệ của mình cống hiến. Chẳng còn những phòng học ọp ẹp mà sự bề thế, khang trang của bao ngôi trường cho thấy xã hội đã quan tâm nhiều hơn đến nghề trồng người này. Phấn tôi cũng không còn tuềnh toàng mà đã trắng sạch hơn xưa, cũng thời trang xanh đỏ tím vàng bắt mắt lắm. Giờ tôi có nhiều thời gian nghỉ ngơi hơn khi công nghệ được vận dụng nhiều vào bài giảng. Có những giờ giảng tôi chỉ nằm trên bàn làm người dự giờ bất đắc dĩ khi anh bạn ti vi hay đèn chiếu độc diễn. Đã có lúc tôi nghĩ ngày mình rời xa nơi quen thuộc không còn bao lâu nữa trong thế giới phẳng này khi mà người thầy ở bên kia bán cầu có thể giảng oang oang cho trò bên này ngồi nghe. Chỉ cần cái click chuột, gần như mọi yêu cầu sẽ được đáp ứng. Kẻ thô sơ, mộc mạc này rồi cũng đến lúc người ta khai tử thôi. Mới chỉ nghĩ đến phải chia tay thầy cô, học sinh, trường lớp, lòng phấn đã xôn xao một nỗi.

Tranh sơn dầu của Lê Sâm

Sự phát triển của công nghệ đem lại sự đổi thay lớn cho giáo dục làm phấn tôi mừng lắm. Người ta bắt đầu đổi mới nhiều thứ cho kịp với thời đại nhưng dục tốc bất đạt. Đã có những giờ thầy cô thay đọc chép bằng chiếu chép mà học sinh chẳng khác gì khán giả của một thời xem phim màu truyện chiến đấu Liên Xô. Sách giáo khoa thay như người ta thay áo đến nỗi vừa mới làm bạn cùng tôi năm trước thì năm sau đã theo bà đồng nát mất rồi. Còn nội dung nghe đâu tranh luận rộn ràng cõi mạng lắm. Nhìn đám học trò từ nhỏ tới lớn bơ phờ sau những ngày kiểm tra, thi cử mới biết chẳng nhẹ hơn chút nào.

Nồi canh được thêm nhiều lá hẹ làm khổ những người cầm phấn khi tiên ông của câu chuyện cổ tích “Cây tre trăm đốt” cứ cầm cây phất trần mà hô trong thế giới hiện đại này. “Chiếc cày” giáo dục không biết đến khi nào được đẽo xong để đem ra sử dụng dài lâu. Nghề cao quý giờ thành nghề nguy hiểm bởi vì sơ hở một chút là các thầy cô được cả thế giới biết ngay. Nhưng than ôi nhân vô thập toàn nên biết làm sao để các thầy cô giữ được mình trước những hỉ nộ ái ố của bao tình huống sư phạm. Không biết tự bao giờ họ tự biến mình thành những người “thợ dạy” không hơn không kém. Nhìn thầy cô khiêm nhường trước những học trò ngỗ nghịch mà phấn tưởng mình đang xem phim “Sao đổi ngôi”. Có những lúc giải lao, phấn giật mình sờ lên trán lấm tấm mồ hôi vì cứ nhầm là lạc vào sàn đấu MMA khi đám học trò kẻ đấm đá, người quay phim. Vấn nạn bạo lực học đường này vẫn chưa có hồi hết vì chưa có thuốc đặc trị. Rồi giáo dục “kinh doanh” đem đến sự khinh thường của xã hội và làm hoen ố hình ảnh của người thầy. Phấn ứa nước mắt khi chứng kiến bao bà giáo già tay yếu, chân run, mắt kèm nhèm trèo lên bục giảng hay thị phạm những động tác múa cho các cháu mầm non trong những năm tháng cuối cùng của sự nghiệp. Chẳng thấy có chế độ hưu trí ưu tiên gì cho cái nghề “sưng cổ nổ hầu” này. Còn biết bao điều mà mình muốn tâm sự nhưng cái ngày dành cho những người cầm phấn sắp đến rồi.

Tác giả Bùi Duy Phong

Hãy gác lại những muộn phiền và vui lên đã vì cũng còn biết bao nhiêu trẻ thơ đáng yêu trên khắp đất nước này đang chờ phấn và các thầy cô giáo. Hy vọng những đổi thay tiếp theo sẽ kéo “con tàu giáo dục” băng băng trên những con đường mới chứ không còn ì ạch trên những thanh ray cũ kỹ dù có được sơn phết hay đánh bóng đi nữa. Mong lắm thay!

Ngoài đường những bông hoa đã bắt đầu tung tăng trên phố. Trong lòng phấn buồn vui lẫn lộn với những đổi thay của thời cuộc. Thương những người cầm phấn vẫn bám nghề sống kiếp tằm tơ giúp ích cho đời dù chữ “thầy” đã bị bào mòn đi nhiều lắm trong xã hội hiện đại này. Đâu đây câu hát bài “Bụi phấn” với nhịp valse nhè nhẹ làm rộn ràng không khí của những ngày đông. “…khi thầy viết bảng, bụi phấn rơi rơi, có hạt bụi nào rơi trên bục giảng, có hạt bụi nào rơi trên tóc thầy…”

Cô gái của cánh rừng

Tác giả Thứ Trịnh

T ôi là cô gái thuộc về những cánh rừng, đó là tuổi thơ, là nơi giữ vía cho tôi từ khi cất tiếng khóc đầu tiên. Người Tày quê tôi có tục lệ những đứa trẻ khi sinh ra sẽ cắt cuống rốn cho vào ống nứa, mang treo lên ngọn những cây to bên bờ suối với mong muốn được rừng che chở và lớn lên khí phách sẽ hiên ngang như cây trước gió, tấm lòng sẽ trong mát như suối bản. Tôi và bao nhiêu đứa trẻ ở làng đều gửi vía mình vào rừng, gắn bó với rừng và lớn lên trong sự bao dung của cánh rừng.

Hồi nhỏ, tôi hay ngồi trước hiên nhà sàn và mơ, một ngày nào đó có thể ngồi trên đỉnh núi trước nhà và dùng cây sào là có thể chạm tới mây. Khi lớn lên, tôi leo đến nơi cao nhất, hóa ra không cần đến sào mà tôi vẫn có thể chạm tới mây, ngồi giữa mây và thong dong chơi đùa cùng mây.

Mùa hè đến, những vạt sương luồn qua từng tán lá bồng bềnh nhẹ trôi như có bàn tay vị thần đang vẽ khu vườn cổ tích với ríu rít tiếng chim, róc rách tiếng suối, tiếng gió xôn xao vấn vít vào cỏ, vào cây, vào những cánh hoa mùa hạ nở rộ sắc màu.

Ở đỉnh núi thường cây sẽ mọc khẳng khiu và thưa hơn ở chân núi, nhưng những loài cây ăn quả mà mọc trên đỉnh núi bao giờ cũng thơm và ngọt hơn, có lẽ là vì trên đỉnh núi được đón nhiều nắng hơn. Tuổi thơ của chúng tôi là buổi sáng đến trường, buổi chiều làm bạn với cây cỏ, núi rừng. Ngày xưa chẳng có đồng hồ đeo tay hay điện thoại di động để xem giờ nhưng chúng tôi chưa bao giờ lỡ hẹn nhau, đồng hồ của chúng tôi dựa vào thời gian di chuyển của nắng.

Vì làng tôi là một thung lũng được bao bọc bởi trùng điệp núi đá vôi, buổi sáng nắng sẽ chỉ hửng ở dưới chân núi, đến chiều khi mặt trời chuyển dần về phía Tây thì trên đỉnh núi sẽ ngập tràn nắng, nhìn những cánh rừng ngửa bụng lá no căng lấp lánh vàng đó là lúc chúng tôi í ới nhau đi vào rừng. Rừng là bạn, là khu vui chơi không mất vé, là nguồn sống vô tận của chúng tôi. Ở rừng mùa nào thức nấy, đặc biệt nguồn thực phẩm từ rừng vô cùng sạch và giàu dinh dưỡng. Có lẽ đó cũng là một trong những lí do gái Tày quê tôi rất xinh và trắng trẻo, người già quê tôi có câu ví “Mận Hồng Thái, gái Thượng Lâm”. Đó là vẻ đẹp của những bông hoa mùa xuân phới phới, tinh khôi.

Tôi thích ngồi trên đỉnh núi mỗi khi đi rừng. Trên đỉnh núi là một thảo nguyên xanh mướt cỏ, thi thoảng điểm vào những khóm hoa màu xanh dương, màu tím nhạt, màu vàng lớt phớt. Ngày nhỏ chúng tôi đi tìm trâu, lấy củi, xúc cá, tìm măng thường dừng chân ở đây để buộc lại vợt, đóng cán thuổng, bôi thuốc vắt. Ở rừng không khí trong lành nhưng cũng rất nhiều muỗi và vắt, muỗi và vắt mà ngửi thấy hơi người là nó không trừ một ai. Thuốc bôi vắt của người Tày quê tôi cũng rất đặc biệt, đó là bài thuốc dân gian từ lâu đời mà các cụ truyền lại. Nướng quả “phác cóng” lên rồi cho một ít muối, thuốc lào, vôi trộn đều và giã nát hỗn hợp. Lấy hỗn hợp cho vào một mảnh vải rồi buộc lại thế là có thuốc để đi rừng. Quả “phác cóng” là cây cùng họ bồ kết nướng lên để giã lấy bọt gội đầu và rửa bát rất sạch nhưng người Tày chúng tôi không biết tên phổ thông. Vì bôi thuốc vắt để đi rừng nhiều nên bàn chân của chúng tôi lúc nào cũng khô ráp, đen nhẻm vì những vết nứt bám đầy nhựa cây rừng.

Nhiều muỗi, nhiều vắt là thế nhưng chúng tôi chỉ thích vào rừng. Thích nhất là mùa măng Vầu đắng và mùa măng Nứa. Mùa măng Vầu là mùa xuân, sau mưa xuân những mầm măng còn chưa nhú khỏi mặt đất chúng tôi đã vác cuốc, vác thuổng, gói cơm nguội, mang bật lửa vào rừng. Rừng măng đang rậm rạp được chúng tôi xới tơi lên như ruộng bậc thang, có khi đi cả buổi chỉ được vài củ nhưng sẽ giành củ to về nhà còn củ bé mỗi người góp nhau mấy củ để lên đỉnh núi ngồi nướng măng ăn với cơm nguội xong mới về.

Còn mùa măng Nứa thường bắt đầu vào mùa hè, đó là lúc chúng tôi không phải đến lớp, thoả sức mà khám phá. Măng nứa thường mọc thành từng khóm ở các vùng đất thấp, bên cạnh các con suối. Măng nứa non và nhiều lá, chúng tôi thường đi bóc măng để mang ra chợ bán cho người miền xuôi. Tôi còn nhớ mãi năm tôi lên lớp 3, mẹ tôi vào rừng bóc măng bán để chuẩn bị tiền cho hai chị em tôi đi học. Hôm đó trời tối mịt mà mẹ chưa trở về nhà, hai chị em tôi ngồi ngoài sàn phơi thóc sợ không dám vào nhà. Bác tôi chăn trâu đi qua thấy hai chị em khóc khản cả giọng bác mới lên nhà nhóm bếp cho hai chị em. Trăng nhô khỏi núi, ngọn đuốc sáng từ cuối làng đang đi dần về hướng nhà tôi, lúc đó hai chị em mới thôi không khóc vì biết mẹ đã về. Đó là mùa măng đã găm sâu vào kí ức của tôi, là năm học đầu tiên tôi có cặp sách mới hình nhân vật hoàn châu cách cách thay cho chiếc túi vải chàm.

Cứ độ rộ măng nứa cũng là mùa quả chín, lúc nào đi bóc măng về trong túi vải chàm của mẹ cũng thơm nức quả bứa, quả dâu gia, cũng có khi là nấm tai mèo và trám rụng cuối mùa. Vị ngọt của rừng ngấm vào từng tế bào, từng mảng kí ức tươi đẹp của trẻ con miền núi để khi xa quê luôn đau đáu nhớ vị của rừng, nhớ khói nhà sàn bên bếp chiều của mẹ.

Tôi đã trưởng thành còn vía tôi thì nhỏ dại, hàng ngày rừng vẫn hát ru vía tôi, dẫn lối tôi trở về quê núi. Chiều nay khói bếp toả hương, nồi măng nhồi thịt trên bếp lửa xình xịch thơm nồng vị quê, tôi ngồi bên mẹ ôn lại ngày thơ và rúc vào mẹ như một đứa trẻ khát sữa.

Mùa những đêm không ngủ

Tác giả Nhật Lượng

M ưa tạm ngưng. Gió cũng thưa dần tiếng ào ào quật vào lùm tre trước ngõ và vật vã bụi chuối sau nhà. Đã ngót thêm một ngày tiếng mưa không dứt, tầm tã trắng xoá bốn bề không gian. Mưa xối xả như chưa từng được mưa. Mưa hối hả như sợ chỉ cần ngưng trong chốc lát, ruộng đồng nứt nẻ bấy lâu sẽ nuốt chửng sạch nước đi.

Đúng là mùa hạn kéo dài, những thửa ruộng kêu tanh tách lớp bùn khô, để lại chằng chịt mạng lưới nứt nẻ, há miệng hết sức đợi mỏi mòn một cơn mưa. Và rồi mưa cũng đến! Nhưng mưa dầm dề suốt mười ngày không ngớt. Mấy ngày đầu, những kẽ nứt mềm oặt vui sướng, rồi rã ra, trở lại dạng nguyên sơ ban đầu của bùn đất. Ngót hôm nay, trắng đồng chỉ còn lơ thơ vài khóm tre bụi thấp, chơ vơ và choáng ngợp trước những gì xảy ra xung quanh mình.

Nước lênh láng, khi cuồn cuộn, khi lững thững như vận động viên đường dài, vừa đi bộ vừa điều hoà hơi thở sau một cuốc chạy mệt nhoài. Nước lồng lộn chảy xiết cũng nguy mà nước lững lờ ngâm đồng ruộng cũng hiểm. Màu nước đục ngầu, pha lẫn rác rưởi bấy lâu người ta giấu ở bờ kia bụi nọ.
Trong cơn mưa, nỗi buồn của cảnh và vật là nỗi buồn vô tri, nỗi lo của cảnh và vật là nỗi lo bất lực. Chỉ có con người mới buồn nỗi buồn trăn trở; chỉ có con người mới lo cái lo của những thất bát đang chực chờ phía trước.
Mẹ nhìn em gái tôi, lòng như lửa đốt. Khoai chưa kịp thu hoạch có lẽ cũng đã thối mất rồi. Đừng nói lấy củ, rau bứt về heo bò cũng chê vì vương mùi hôi tanh của bùn, đành nhắm mắt vứt cả phía sau chuồng, chờ sức giẫm của trâu bò để mai mốt làm phân bón cho vụ tới.

Những đêm mưa gió thế này, anh tôi không hề ngủ. Khoác tấm áo mưa rách bươm cùng chiếc đèn đội đầu, anh dò dẫm, đạp những vũng nước ven đường để đến với mấy hồ cá trên đồng. Hồ cá chứa cả tài sản, mồ hôi và công sức của các thành viên gia đình tôi.
Mùa hè đến, mấy anh chị em cùng nhau nạo vét lòng hồ sạch sẽ, khử khuẩn kỹ càng. Cơ thể đau nhức ê ẩm, lòng ruột thắt bóp chặt vì những khối bùn nặng nhọc. Nhưng rồi khuôn mặt lấm lem lại nở nụ cười khi mẹ chở những xô cá giống về thả vào trong hồ xanh ngắt. Chúng tôi thay nhau chăm sóc, cho cá ăn mỗi ngày chẳng hề khinh suất, lòng mong mỏi ra giêng quăng chài đem bán để có tiền nộp học phí cho tôi và cho em.

Cơn mưa càng lớn, nỗi lo càng dâng cao. Anh hầu như thức trắng cùng mưa, dò dẫm quanh mép hồ, kiểm tra kỹ lưỡng, xem chỗ nào có nguy cơ vỡ để kịp thời gia cố. Mỗi tiếng đóng cọc từ đằng xa vọng lại, lòng tôi thêm quặn thắt. Lo cho anh sức khoẻ có giảm đi chăng, lại mất ngủ mấy đêm rồi, lỡ tay sẩy chân, ai sẽ là người cáng đáng chu toàn cho chúng tôi? Nếu bảo anh về, hồ cá vỡ toang, coi như công sức đã qua đổ theo nước bạc, mà thuê người về làm lại hồ chi phí cũng càng cao!

Từ cửa sổ phòng học nhìn ra, thấy nhiều ánh đèn loang loáng khắp cánh đồng, tôi biết, không chỉ gia đình tôi lo lắng thôi đâu. Mọi người trong làng đều cùng nỗi lo chung của mùa mưa lũ. Mùa hạn, đất đai tơi xốp, rất dễ tổn thương. Một cơn mưa dầm dề sẽ dễ dàng sạt lở tất cả. Những chú gà chú heo trong chuồng cũng có thể trở thành những cái xác trương sình, lềnh bềnh cùng dòng nước trôi nhanh.

Mùa mưa về, mái nhà ngói đã cũ lại bị dột. Mưa bên ngoài nghe ráo rít, giọt mưa trong nhà gõ vào chậu nghe long tong. Trời hè dài làm mái ngói khô rốc, co cả lại; mưa đột ngột về, ngói không kịp nở, lại tạo kẽ hở cho ngàn giọt mưa tuôn. Những lúc như thế này, ánh mắt mẹ lại sâu hơn, tối hơn. Hai đứa chúng tôi còn đi học, tiền bạc mẹ và anh phải chắt bóp để mua sách vở áo quần, lấy đâu ra để sửa lại mái nhà.

Anh trai đang ở tuổi cập kê, hỏi con gái nhà ai lại chịu gả vào nơi mái nhà chẳng thể che nỗi qua mùa mưa! Cũng có thể do trời mưa mà chẳng thể ngủ; và cũng có thể, do trời mưa nên chẳng dám ngủ. Phải cố thức để kịp lùa bất cứ thứ gì bỗng đột nhiên thành mục tiêu của mưa dột ra xa, mà cũng thao thức đợi anh từ ngoài hồ cá trở về. Có nhiều hôm, tiếng bước chân anh về bên chái hiên, mở cửa hông là trời đã bàng bạc ánh sáng của ngày hôm sau.

Thương cho anh những đêm không ngủ, mang nỗi lo trong lòng đóng cả vào bờ hồ, để giữ cho em út được tiếp tục đến trường. Thương cho mẹ nhiều đêm mưa âu lo, nhìn lên mái ngói, đếm từng ngày tích cóp để xây lại ngôi nhà xuống cấp đã bao năm. Thương cho bà con xóm giềng sâu con mắt trong cơn mưa, để lũ lợn gà được ngủ no say!

Tiếng “ệng oạng” của con ễnh ương bên hốc ao nhỏ khi gần khi xa. Hình như mỗi khi con ễnh ương kêu: ễng oạng… ễng oạng, thì cơn mưa lại vơi đi! Mà cũng có khi nhờ cơn mưa tạnh, nhường không gian cho tiếng ễng oạng… ễng oạng được rõ hơn! Cơn mưa nào tầm tã rồi cũng sẽ dứt. Nỗi lo nào khắc khoải rồi cũng sẽ qua! Cũng như cơn mưa gây ngập lũ sẽ đắp bồi phù sa… Thêm một mùa những đêm không ngủ…

Thương miền muối mặn gừng cay

Tác giả Nguyễn Minh Nguyệt

M

ười tám tuổi tôi đã xa Vinh – cái thành phố bé tẻo tèo teo chưa đi đã hết, mùa Hè nóng như chảo rang, mùa Đông hun hút gió lùa. Thành phố nơi tôi sinh ra, nhọc nhằn lớn lên trong cảnh gia đình nghèo túng, hơn một lần tôi đã mơ ước phải học thật giỏi để có thể đi xa đến những miền đất đẹp giàu và quên đi những tháng ngày cơ cực, ấy thế mà khi xa lòng tôi lại không nguôi đau đáu nhớ về…

Nhớ Vinh là nhớ những con đường lổn nhổn đá dăm, đầy ổ gà thồi thõm. Ai đó đã đặt tên cho Vinh là “thành phố bụi” bởi trong chiến tranh chống Mỹ hầu như không còn một ngôi nhà, một con đường nào nguyên vẹn, mặt đất bị cày xới, cây xanh bị tàn phá, cả thành phố như một công trường cát bụi mịt mù. Từ Thanh Chương nơi trường cấp ba sơ tán trở về, lũ học trò chúng tôi đã bỡ ngỡ biết bao với cảnh hoang tàn đổ nát của khu nhà tầng thuộc Đại học sư phạm được bố trí cho trường Huỳnh Thúc Kháng học tạm. Con đường đất dẫn vào trường hàng ngày vang lên tiếng chuông xe đạp kính coong, tiếng chuyện trò rộn rã của từng đoàn học sinh đi bộ đến lớp. Cái nắng chói chang của mùa Hè, cái lạnh tê tái của mùa Đông cũng không làm tắt được tiếng cười lanh lảnh vui tươi của những đứa trẻ một thời phải sơ tán xa nay được trở về với nơi mình sinh ra, dẫu còn bao gian khó bộn bề nhưng thật tự hào vì giờ đây ta đã là công dân thành phố.

Nhớ Vinh là nhớ dáng Cha gầy gò, đôi bàn tay xương xẩu, đen đúa quanh năm vì lao động nặng nhọc. Ngày hai buổi Người đi làm trên chiếc xe đạp cũ kỹ, lưng áo đẫm mồ hôi mỗi buổi trưa Hè, khuôn mặt nhiều nếp nhăn tái xanh vì cái lạnh mùa Đông. Người quên đi mọi nhu cầu tối thiểu cho bản thân mình, nhịn từng bữa sáng để dành tiền mua sách cho con. Tôi nhớ hiệu sách Cửa Bắc nơi có cô nhân viên luôn ân cần hỏi han mỗi khi cha con tôi bước vào và không giấu được ánh mắt ái ngại, cảm thông khi thấy Cha tôi vét mãi túi quần túi áo mà vẫn không đủ tiền để trả cho cuốn sách tôi đòi mua. Mười tuổi tôi đã ngấm cái khổ của đứa trẻ con nhà nghèo, đã biết ghé vai sẻ san cùng Cha Mẹ nỗi vất vả của việc kiếm sống. Tôi đi kiếm củi, đi mót lúa mót khoai, đi bán kem, bán bánh mỳ…phụ Cha Mẹ nuôi đàn em đông đúc.

Những sáng mùa Đông dậy sớm, đạp xe trên con đường gió lạnh, tôi đã thấy một Vinh rất khác: Vinh của tầng lớp lao động nghèo, bươn chải nhọc nhằn một sương hai nắng. Bác xích lô mải mốt đạp nhanh cuốc xe trong gió ngược, những gánh hàng nặng trĩu vai của các bà, các cô đi chợ sớm, anh xe thồ mướt mồ hôi đẩy hàng từ ngoại ô vào, những đứa trẻ cỡ bằng tuổi tôi hoặc nhỏ hơn trở về từ ga tàu, bến xe – nơi tiếng rao đêm của chúng khản đặc mời mọi người đọi nước chè chát xứ Nghệ…Sau này dù sống ở đâu tôi cũng luôn tự hào mình là người Vinh – từ quê nghèo xứ Nghệ, mảnh đất mà càng khó khăn, khốc liệt, càng hun đúc nên những tính cách kiên cường, dạy con người biết vượt khó vươn lên để thành công trong cuộc đời.

Qua bao năm, giờ đây Vinh đã khang trang hiện đại hơn nhiều. Phố xá sầm uất, những con đường rộng rãi rợp bóng cây xanh, chung cư cao tầng, khách sạn, nhà hàng san sát. Mỗi dịp về tôi đều thấy ngạc nhiên trước sự thay đổi nhanh chóng của một thành phố được gọi là “trung tâm thương mại Bắc miền Trung”. Thế nhưng khi nhớ Vinh thì trong tôi luôn hiện lên hình ảnh thành phố nhỏ bé thân thương của mình những năm bảy mươi thế kỷ trước: Một Vinh mộc mạc, đơn sơ với cuộc sống giản dị của những người dân vừa trở về từ nơi sơ tán chung tay xây dựng lại quê hương từ đống đổ nát hoang tàn.

Nhớ Vinh là nhớ những ngày đến lớp với bao kỷ niệm ngọt ngào của tuổi học trò. Nhớ dáng thầy cô hao gầy bởi sau giờ lên lớp còn phải cuốc đất trồng rau, nuôi gà, đan len, bóc lạc…để kiếm thêm chút tiền trang trải cuộc sống. Có những người thầy suốt cả mùa Đông mặc một chiếc áo “Tôn-Trung-Sơn’’ sờn cũ, lên lớp học trò cứ thì thầm chỉ trỏ vì áo dính bột trẻ con. Có cô giáo cầm phấn viết bảng ngón tay còn bám mủ rau muống đen xì… Đói cơm, rách áo nhưng tấm lòng thầy cô với học trò là trách nhiệm và tình thương vô hạn. Từ những bài giảng của các thầy cô nghèo mà cao quý đó, chúng tôi đã nhận ra chân-thiện-mỹ của cuộc đời, đã mang sức lực và trí tuệ dựng xây nên cuộc sống ngày càng tốt đẹp. Một số người đi xa, nhưng phần lớn lứa học trò ngày ấy vẫn ở lại với thành phố quê hương, chính họ đã góp sức mình làm nên một Vinh thay da đổi thịt, to đẹp và hiện đại ngày nay.

‘’Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng vẫn còn cay

Chứ đôi ta tình nặng nghĩa dày

Dù có xa nhau đi chăng nữa, thì ba vạn sáu ngàn ngày cũng nỏ xa…’’

Câu dân ca xứ Nghệ tôi nghe từ thuở nằm nôi qua giọng Bà, giọng Mẹ cứ theo tôi suốt cả cuộc đời. Người xưa thật thâm trầm, ý nhị khi ví tính cách người Nghệ như hai thứ gia vị gừng và muối: cay nồng và mặn mòi. Câu ca dao có hình ảnh gừng và muối gợi cho ta tình người thủy chung son sắt, có trải qua những dư vị đắng cay thì mới thấy tình nghĩa thêm sâu đậm, thân thương. Phải chăng vì sinh ra trên mảnh đất đói nghèo, khí hậu khắc nghiệt, phải mưu sinh nhọc nhằn nên dù sống ở chân trời góc bể nào người xứ Nghệ cũng đối đãi với nhau thật chân tình, nhân ái.

Tôi đã nghe một người anh từng nhập ngũ những năm sáu mươi kể về những đợt hành quân gian khổ, hiểm nguy trong rừng thời chống Mỹ, đang đi mà nghe một giọng Vinh cất lên của cô gái thanh niên xung phong nào đó bỗng trào nước mắt vì nhớ nhà, nhớ thành phố quê hương…Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ có biết bao những chàng trai, cô gái thành Vinh đã ra chiến trường và không phải ai cũng nguyên vẹn trở về. Họ ra đi khi lứa tuổi còn xanh, thành phố còn nghèo nàn, lạc hậu. Giờ đây khi Vinh đã vươn mình lớn dậy, to đẹp đàng hoàng thì những con người bất khuất ấy không còn được chứng kiến và hưởng thụ. Họ yên nghỉ ở Nghĩa trang thành phố hoặc vẫn còn đâu đó trong những cánh rừng, những dòng sông của mọi miền đất nước… “Uống nước nhớ nguồn’’cũng là một câu thành ngữ cửa miệng của người Nghệ.

Từ nơi xa, tôi thường dõi theo về thành phố quê nhà, thấy rưng rưng xúc động và tự hào bởi nhiều thế hệ trẻ vẫn duy trì các hoạt động đền ơn đáp nghĩa với những gia đình thương binh, liệt sỹ, những người có công với Cách mạng. Một đô thị sầm uất, xinh đẹp từ ngày xưa mà những người dân đã chấp nhận tiêu thổ kháng chiến, bỏ lại cơ ngơi, của cải, biến nơi ở thành “vườn không, nhà trống” để ngăn chặn quân Pháp, đến thời chống Mỹ lại gửi ra chiến trường những đứa con mạnh khỏe, ưu tú của mình… Nơi ấy xứng đáng là miền đất triệu triệu người ngưỡng mộ, là nơi những đứa con xa trăn trở nhói lòng vì chưa thể về thăm.

Nhớ Vinh là nỗi nhớ triền miên, khắc khoải không dễ gì phôi phai theo năm tháng. Kể cả khi đã về, đi trong thành phố ta vẫn thấy lòng mình bâng khuâng xao xuyến trước mỗi con đường, góc phố, hàng cây vì chúng chứa chất đầy kỷ niệm, nhắc ta nhớ tới bao người. Chẳng còn nữa những hầm hào lô nhô trên phố thời chiến tranh, chẳng còn nữa những con đường đất nhuốm đầy bui đỏ, những căn nhà dựng vội tềnh toàng bên bờ cây còi cọc xác xơ vì gió Lào…Vinh giờ là một thành phố sạch đẹp văn minh đâu kém gì những thành phố lớn trong Nam ngoài Bắc. Nhịp sống của một đô thị phát triển đôi khi làm ngỡ ngàng những kẻ hoài cổ như tôi. Biết rằng không thể đi ngược lại xu hướng vì sự phồn vinh, phát đạt, hiện đại là điều nhiều người cùng hướng đến. Vậy mà ta vẫn không nguôi thương nhớ một Vinh xưa – Vinh của hoài niệm, Vinh của những con người gừng cay muối mặn vẫn nguyện bên nhau suốt cả cuộc đời…

Lòng ta là rứa đó Vinh ơi!

Mùa gió nắng lao xao

Tác giả Trần Hiền

T ừ trong sương sớm, những hạt nắng đầu ngày đã ươm mình trên từng cánh lá nhỏ đang lao xao dập dềnh trong gió. Gió tinh nghịch rung rinh những hàng cây bãi cỏ trong bản đồng ca bất tận của mùa sang. Để nắng ngẩn ngơ rơi mình từ nơi này qua nơi khác, nắng nhảy nhót chuyền cành từ cành này sang cành khác. Thu chuẩn bị sang ngang rồi đấy, đông về rét buốt, ấy mà nắng cuối mùa vẫn cứ lịm ngọt mê say. Ta đi trong nắng mai hồng, óng ánh như tơ lụa, vai ta đầy nắng chảy, tóc ta gió mê mải, thổi bồng bềnh nhẹ bay.

Khoảng khắc mùa đi qua mùa, thu tan vào đông là khoảnh khắc lòng ta bỗng dưng dịu mềm lắm. Nắng vừa ấm, óng như mật, không đủ làm rơi những giọt mồ hôi oi nồng. Gió lao xao mát lành thoáng chút lạnh se sẽ, vừa đủ để lòng ta dịu dàng, vừa đủ để lòng ta luyến nhớ, dễ dàng mỉm cười với từng người ta quen trên phố, dễ dàng bỏ qua những giận hờn rất khẽ, quên thật nhanh những bực dọc bất ngờ và thường trở lòng nhớ tới những bóng người đã lâu không gặp. Tưởng như lại về trong mùa gió trở năm nào, đứng dưới cánh tràm rơi vương đầy trên tóc mây nơi bến bờ có gió nắng lao xao. Có một màu áo trắng hoá mê say.

Để ta thương sắc vàng của tràm gió, cứ mỗi độ hoa rơi sắc vàng lại phủ kín cả lối đi. Vài nhánh hoa vô ưu còn đeo mãi dưới gót giày năm cũ, về đến sân nhà vẫn ngơ ngẩn hoài những hạt vàng tràm vương. Để ta lại về nơi bờ đê đầy gió, buông tim mềm ôm trọn hết sắc cải trổ ngồng rợp cả bến sông bờ bãi. Sắc cải vàng miên man nhắc nhớ người con gái năm rất xưa nào đó sao cứ đợi ai không lấy chồng. Nên đông buồn mênh mang không đủ ấm dù cải vàng đốt nắng vàng hoang hoải giữa mùa buông. Để ta thương nhụy vàng thăm thẳm giữa sắc trắng tinh khôi của Xuyến chi trong chiều, hoa trắng mảnh mai hoa buồn diệu vợi, hoa nhắc ta nhớ về người năm cũ không tên.

Dẫu nắng có buông dài hết thảy giữa trời mây, thì gió vẫn uyển mình giữa mênh mang hoa cỏ, gió đem lạnh về tìm gặp những chiếc khăn đan. Gió đem lạnh về ủ ê cả một mùa đông xám. Gió hát lao xao trên từng nhánh lau gầy, lại gợi buồn thương chân người viễn xứ. Những bông hoa dại ven bãi cỏ bờ đê vẫn da diết hoài những tâm tình không nói. Là những mối tình vì bởi chia xa mà hoá tình thành vĩnh cửu, hoá thành lau sậy mãi buông trong mịt mờ, rung rinh thân mềm chôn nỗi nhớ người đi xa. Liệu có mùa nào dẫn bước chân cũ quay về tìm hoa không? Để mỗi khi thu tàn đông tới, mùa gió nắng lại lao xao trên mỗi nhánh hoa mềm.

Có những ngày ta rong ruổi trên đường, mở hết khẩu trang áo nắng để da mềm miên man cùng gió. Để lòng ta rộng thênh thang, để tim ta đừng chật chội bởi nhớ nhớ quên quên của nếp trở tuổi trưởng thành. Để ta thấy mình cũ kỹ như là quá khứ, như mùa đông nào đó ngồi lặng im bên ô cửa sổ bằng sắt màu xanh thiên thanh mỏng, ngắm hàng tràm vàng phía xa và thả trôi lòng giữa hồn nhiên cây cỏ. Là những năm mặc chiếc áo khoác thật dày rồi đắm mình trong giấc mơ thanh xuân về mối tình cây lá và gió, về những mối tình lãng mạn mùa đông với chiếc nhẫn cầu hôn giữa những cánh hồng hình trái tim thắp trên nền tuyết lạnh xứ Hàn. Rồi chợt buồn thương những nhành hoa không màu sắc. Xót xa lòng những hoài niệm xa xôi.

Đông về theo từng cơn gió khi nắng nhạt màu dần rồi tan loãng vào mùa trôi. Đông về trên từng tán bàng bỗng một sớm mai thức dậy thấy khẳng khiu trơ cành trụi lá. Màu bàng lá đỏ xen với những chiếc lá vàng rơi vãi dưới gốc cây già thường thức dậy cả một niềm bâng khuâng khó tả. Chân bước nhẹ nghe tiếng xào xạc bỗng thấy thương cả một đời lá thở mùa xanh. Ta đã nghe ai đó gọi cây bàng là cây báo mùa, mỗi mùa trôi qua, bàng đều vì mùa mà thay màu lá, vì mùa mà tốt tươi, vì mùa mà rơi rụng. Ta bỗng thương những hạt nhựa trống trải trên cây, nơi chỗ cuống lá rụng, còn đó những run rẩy xa xót của cành. Hãy nhẹ nhàng thương cây mùa rụng lá, nếu tình yêu là chiếc lá màu xanh, ta sẽ hiểu nỗi đau của cây mùa lá rụng. Phải vậy chăng?

Khi đông đã về ngang đầu ngõ vắng, nắng cuối đường sắp nhẹ cánh bay xa. Khi những chuyến xe trên đường cũng vì đông mà chùng chình chậm rãi, đất hanh hao khô nứt những vết hằn. Ta bỗng thấy tim gầy thao thiết bao hoài nhớ, những ngày cũ năm nào bỗng thức dậy lao xao!

Bên tiếng trống khai trường…

hoa-bang-lang
Chỉ có trí tuệ và sự dũng cảm mới giúp con người tự giải thoát khỏi giáo điều để có thể đứng thẳng và nhìn bầu trời!Nhà giáo Trịnh Thu Tuyết

N gày khai trường luôn là thời điểm đưa tới rất nhiều náo nức xúng xính của trẻ thơ khi được tới trường, còn người lớn, hoặc lo toan cho con trước những gánh nặng của năm học mới, hoặc chia sẻ với con niềm vui ngày tựu trường, cũng là lúc nhiều người lớn lại một lần được trở về với xa xôi, đong đếm còn hết, mất được…

Tự dưng bỗng nhớ quá mùa thu năm 1980 xa xăm ấy, khi lần đầu dự lễ khai giảng trong vai trò giáo viên. Vẫn nhớ cảm giác thật lạ khi đứng giữa lớp học trò nhiều em chân đất, hiếu động và nghịch ngợm, cố tập trung hướng lên khán đài mà tai vẫn nghe hầu hết tiếng thì thào của học trò xung quanh, nhìn thẳng phía trước mà vẫn nhận ra rất nhiều ánh mắt trẻ thơ lấp lánh, tò mò nhìn cô giáo trẻ lạ lẫm từ thành phố về, những nụ cười láu lỉnh, những tiếng lào xào trong gió:

Ơ cô giáo mà “húi” tóc ngắn, nhìn như con trai ấy nhỉ! – Trẻ thế này mà dám vào chủ nhiệm lớp cá biệt bọn mình à, gặp bọn thằng Phúc rồi biết! – Đừng đùa, cậu nhìn mắt cô xem, lạnh như gió mùa đông bắc…! – Lại còn mặc quần phăng nữa kìa!…

Gắng giữ vẻ nghiêm túc để tạo ấn tượng đầu tiên với lớp trò nghịch ngợm mà vẫn không thể không mỉm cười! Mà ngày ấy là khai giảng thật, là ngày đầu tiên học trò trở lại trường sau ba tháng nghỉ hè, nên nhìn trẻ con, mặt đứa nào đứa nấy sáng trưng, các hàng lớp chỉ ngay ngắn được lúc chào cờ, sau cứ rì rào, náo nức; nhất là cô giáo mới ra trường, vừa bỡ ngỡ vừa say mê, rất ít kinh nghiệm và thật nhiều mơ ước. Nằm bên bờ sông Châu nước xanh thăm thẳm, bốn phía là những cánh đồng heo hút gió, lồng lộng thinh không, nơi chỉ cần khẽ ngước lên là gặp mênh mông mây trời, hướng nhìn ra xung quanh là lúa xanh, cỏ xanh, bạch đàn xôn xao màu xanh bạc, ngôi trường đầu tiên đã trở thành niềm yêu day dứt, tựa như mối tình đầu lỡ dở, da diết theo suốt cuộc đời…

Sau ngày khai giảng đầu tiên ấy, tôi đã có 4 năm trời gắn bó với trò quê, nước giếng, chợ làng… mộc mạc, nghĩa tình, thương mến tới rưng rưng mỗi khi ai gợi nhớ – để rồi một ngày, vội vã rời xa mênh mang gió, vội vã trở về với phố phường, quen thuộc và chật hẹp, để trong lòng mãi hoang vu một nỗi nhớ nhung. Nhớ tới tận bây giờ…

Rồi lại nhớ ngày khai giảng mùa thu năm 2013. Năm học ấy đặc biệt với cả cô giáo và học trò lớp chủ nhiệm cuối cùng khi trò bước vào năm học cuối cùng của cuộc đời học sinh phổ thông, còn cô giáo cũng dạy khóa cuối cùng trước khi nghỉ hưu năm 2014. Ngôi trường cổ kính bên hồ Tây, bốn mùa tươi xanh những tán cây cổ thụ, sắc tường vàng và cửa sổ màu xanh trăm tuổi, ngôi trường mà thầy trò bao thế hệ yêu quí, mỗi người một lí do rất riêng và rất thật, người mê vẻ đẹp thâm trầm của kiến trúc, người tự hào vì bề dày truyền thống trường Bưởi, người rụt rè một niềm chân thật: “Yêu lắm vì check in góc nào cũng đẹp” – ngôi trường ấy đúng là đẹp trong mọi thời điểm: dù khi mưa giăng mờ kín sân trường hay khi nắng lấp lóa trên sắc tường vàng rực rỡ; dù mùa bát ngát màu xanh trên vòm cổ thụ hay thời điểm lá rụng vàng phủ từng vạt sân, giòn vỡ dưới bước áo dài; dù khi nõn nà lá non mùa xuân hay khi ngậm ngùi lá đỏ lúc đông về; dù khi náo nhiệt ồn ào lễ hội hay những khi êm đềm, tĩnh lặng ngày hè…

Riêng tôi, ngôi trường ấy gắn với những khóa học trò chuyên văn lãng đãng, mộng mơ, thông minh và tình nghĩa, với khóa ban D út ít ra trường cùng thời điểm cô chủ nhiệm nhận sổ hưu, nên không lạ khi ngày khai giảng năm học cuối cùng ấy như một lần đánh thức lại trong tôi từng trang kí ức, cả vui buồn, cả vận hạn và ân tình… Đứng chụp cho lớp chủ nhiệm mấy bức ảnh trên sân trường, mới bắt đầu ngày khai giảng, biết là còn cả một năm học sắp tới, mà đã ngẩn ngơ nghĩ tới phút chia tay. Cùng các em ngước nhìn những chùm bóng bay thả lên trời, màu trời mùa thu năm ấy xanh kì lạ trong ánh nắng vàng, mơ hồ nghĩ một ngày nào đó, ngút ngát hư vô… Xong cả phần lễ với những diễn văn và trống khai giảng, xong cả phần hội với múa hát…, sân trường vắng dần để chuẩn bị cho ngày mai thực sự bước vào năm học mới, tôi vẫn lang thang phía sau nhà A, sát gần hồ Tây, lưu lại từng vòm lá, gợn sóng, màu tường vôi vàng thao thức, sắc rêu nhà Bát Giác… trước khi tất cả sẽ được xếp gọn trong vùng kí ức khi nhớ khi quên…

Rồi lại đến ngày khai trường đặc biệt nhất, buồn bã nhất của mùa thu năm 2021, dù cũng đầy đủ những ước lệ rất thật cho một ngày khai trường, có nắng thu, thêm chút mưa thu, có hơi thu khí thu và mây thu bên ngoài cửa kính phòng điều hòa, có diễn văn và tiếng trống khai trường từ ô cửa sổ màn hình Zoom khi nét khi mờ, khi được khi mất, có tất cả, chỉ thiếu thế giới thực với nắng thực, mưa thực, thiếu cả sân trường đầy ắp học trò cùng những nụ cười rạng rỡ trong nắng thu, thiếu những lời ngập ngừng vì bỡ ngỡ, xúc động chứ không phải vì trục trặc của đường truyền…, tôi đã dự lễ khai giảng lần thứ 41 cho cuộc đời làm nghề như thế! Ngày khai giảng online năm ấy có bức ảnh cô Hiệu phó một trường ở giữa Hà Nội, đứng đọc diễn văn khai trường trước một khoảng sân chỉ có mênh mang gió và loang lổ nắng thu, có lẽ trong lịch sử học đường, chưa có bức ảnh nào xót xa tới thế, chưa có một lễ khai trường nào hiu hắt, trống trải đến thế, dù không hề ở vùng sâu, vùng xa…

Có phải em cũng đang thèm một sân trường ồn ã và đông đúc, có phải em cũng đang thầm cầu xin, như tất cả chúng tôi, đây sẽ là lần đầu tiên, cũng là lần duy nhất, em phải đứng trước một sân trường không có học trò… Rồi một ngày, sân trường sẽ lại đầy ắp những nụ cười rạng ngời trong nắng thu, đâu đó lại đôi tiếng thì thào khe khẽ trong xao xuyến gió thu, để em phải dừng lại giữa chừng, khẽ nhắc… Chắc chắn sẽ đến một ngày thành phố không còn hoang vu, sân trường không còn hiu hắt, cuộc sống sẽ hồi sinh trở lại, Smartphone sẽ xóa ứng dụng Zoom, dành chỗ cho âm nhạc và những lời yêu thương…, học trò của chúng ta thức dậy mỗi ngày theo tiếng chuông báo thức để chuẩn bị tới trường, thay vì sợ hãi nhìn những con số của phần mềm Bluezone…
Lại tới hôm nay, lần khai trường thứ 43 trong cuộc đời nhà giáo, nỗi phập phồng sợ hãi của cả nhân loại sau mấy năm dịch giã đã qua, sự tĩnh vắng thi vị của thành phố trong mấy ngày nghỉ lễ đã hết, ngày khai trường lại rì rào trong gió thu, lấp loáng trong nắng thu, vội vã trong tắc đường, cuộc sống đã bình thường trở lại. Nhưng khi cùng các con đưa cháu tới trường, gặp vợ chồng cô học trò cũ cũng đưa con tựu trường, mới mơ hồ nhận ra những khoảng trống mênh mông heo hút đâu đó trong lòng; mới thấy mình để lại phía sau nhiều quá, không chỉ tuổi trẻ, sức lực, nhiệt tình… mà cả những hồi ức, hoài niệm, những hình xưa bóng cũ, cả tình yêu và những xao xuyến ngọt ngào… Thì ra, khi con người hoặc vô tâm, hoặc bận rộn với những vặt vãnh của đời, thời gian vẫn lặng lẽ chảy trôi, không chờ đợi, chẳng đoái hoài, cần mẫn và khắc nghiệt, xoá dần tất cả, thậm chí khiến ta quên cả sự lãng quên của mình, nhạt nhẽo dần, nhoà mờ dần, như cõi trống không!
Chỉ đáng buồn khi nhận ra cũng chẳng để làm gì, chỉ biết lặng lẽ mỉm cười, như thời gian!

(5/9/2021 – 5/9/2023)