Đ èn thắp từ chiều, rùng rình sáng trong giá buốt, đêm giao thừa rực lên, trông xa như trăng sao giáng xuống cánh đồng vạn hội, như đất trời điệu người về hoàn cõi, thảo thơm ân nghĩa tình người.

Lần nào gọi điện cho tôi, mẹ đều hỏi: “Nhà còn gạo ăn không con? Để mẹ gửi lên. Hết gạo phải bảo, đừng mua bên ngoài con ạ, vừa đắt, vừa kém ngon! Nhà mình lúc nào thóc lúa cũng đầy ra đấy. Bây giờ nhiều người bỏ ruộng, đất quê thành ra hoang hóa, không cấy cày thì phí lắm! Mẹ già, nhưng ông trời còn cho sức khỏe thì mẹ vẫn ra đồng…”. Nhà có mỗi vợ chồng với đứa con nhỏ nên gạo thóc dùng đáng là bao.

Tôi luôn trả lời mẹ thế. Nhưng sau mỗi cuộc điện thoại, lại thấy lòng mình chùng xuống, nghĩ ngợi xa xôi. Mẹ tôi đã ngoài bảy mươi tuổi, vẫn sớm khuya chăm lo cho khoảnh ruộng đồng xa, để thêm hạt lúa, mớ rau làm quà gửi cho con cháu.

Thú thực, cứ dăm lần mẹ hỏi về gạo thóc thì mới có một lần tôi mở lời xin. Cũng chẳng phải đứa con đã bén hơi phố thị như tôi, dám chê những hạt gạo từ bàn tay lam lũ của mẹ. Mà chỉ vì một nhẽ, mẹ già rồi, người ở quê vào tuổi ấy đã nghỉ ngơi, không cần bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Năm hai vụ lúa, ngoài gia đình tôi sống ở xa, quanh mẹ còn đông con nhiều cháu, có thể chăm lo ruộng đồng.

Ấy vậy mà mẹ không muốn nhờ ai, cứ tự mình chọn giống, gieo mạ, cấy lúa, nhổ cỏ và gặt hái. Có lần, tôi bảo mẹ, muốn cấy thì cứ cấy, muốn trồng thì cứ trồng, nhưng hãy thuê người hoặc để con cháu đỡ đần. Nhưng mẹ chỉ im lặng, trả lời đứa con xa bằng giọng cười ấm áp, rằng mẹ còn làm được, không cần phiền đến cháu con nhiều.

Có bận, anh cả tôi gọi điện, giọng điệu chân thành nhưng khẳng khái: “Em khuyên mẹ đừng làm ruộng nữa. Mẹ già rồi, làng xóm người ta nhìn vào lại cười cho. Mà nhà có thiếu gì đâu. Từ nay, nếu mẹ gọi điện hỏi chuyện gạo thóc, em cứ nói nhà con hãy còn, còn nhiều lắm, để mẹ không gửi lên và cũng không trồng cấy nữa. Ở vào tuổi của mẹ bây giờ, có mấy ai còn cày cấy nữa đâu.”. Nhưng rốt cuộc, chẳng ai khuyên nổi mẹ tôi. Con cháu không cần đến gạo của mình làm ra, một năm mẹ vẫn miệt mài đôi vụ với niềm tin âm ỉ, vững bền, rằng biết đâu, lúc nhỡ nhàng, khi bận rộn, con cháu lại cần.

Tôi biết, mỗi lần gửi được gạo lên cho gia đình tôi, là mẹ mừng lắm. Cứ gọi điện cười nói vui ra mặt, rồi sàng sẩy, nhặt nhạnh hết sạch trấu mùn, tất tả đong đếm gói ghém, nhờ người mang ra bến xe, nhắn gửi dặn dò kĩ lưỡng, bao gạo màu gì, buộc dây, đánh dấu ra sao…. Thế nên mỗi lần con cái từ chối là mỗi lần mẹ buồn, cứ rấm rứt, tủi hờn mãi: “Con đừng chê công sức của mẹ mà tội. Mẹ làm ra hạt lúa, mớ rau là làm ra sức khỏe. Con không ăn thì mẹ làm ra nỗi gì!”, rồi bà tắt máy mà không nói thêm lời nào. Tôi biết mẹ không bao giờ từ bỏ cánh đồng của mình.

Lần lượt những đứa con cứ khôn lớn rồi đi xa, đồng làng thì vẫn đấy. Những đứa con mỗi năm vài bận giỗ chạp trở về, nhưng cánh đồng thì ăn đời ở kiếp với mẹ, tần tảo khi thiếu đói, bình yên nặng hạt lúc ấm lo là thế… Làm sao có thể nói bỏ là nhẹ nhõm dứt ra cho được. Mẹ yêu cánh đồng như yêu những đứa con của mẹ.

Tôi vẫn biết thế, vẫn thầm mừng vui vì mẹ còn sức khỏe để tự làm ra hạt thóc nuôi mình. Nhưng cũng đầy thấp thỏm, ngậm ngùi khi trả lời câu hỏi từ mẹ. Mẹ có biết những khi cầm lên bát cơm được góp từ bàn tay mẹ là tôi cũng mừng lắm. Mừng vì mẹ vẫn còn sức khỏe để gửi thương, gửi nhớ cho con cháu phương xa. Mừng vì mẹ vẫn có niềm vui nơi thôn dã. Đồng đất chưa bao giờ phụ bạc con người và cánh đồng đã nuôi lớn chúng tôi, đã hào phóng với tuổi thơ tôi từ những con cào cào, muồm muỗm, cá tôm…

Đã có lúc, chẳng cần cuộc gọi của mẹ, tôi vẫn phải tức tốc nhảy lên chuyến xe cuối ngày để về lại cánh đồng làng. Đó là lúc vợ tôi đau ốm, thuốc thang mãi không giảm, rồi ý nghĩ tôi lóe lên hình ảnh cây sắn cồn mọc ven các gò cao, đơm hoa vàng như ai vốc từng vụn nắng vãi tung như người gieo mạ có thể chữa được bệnh. Đó cũng là nơi cha tôi vĩnh viễn nằm lại trong lòng đất ấm, bên trời lá xanh.

Cây sắn cồn bé tin hin, củ trắng nõn như sâm cắm sâu xuyên qua từng lớp đất già. Kiếm tìm đã khó, gom cho đủ thang thuốc còn khó hơn. Đúng khi mắt mỏi mòn, chân tay nhíu lại, ngẩng lên, tôi gặp mẹ, chị gái và chị dâu tôi đang cần mẫn kiếm tìm, đào sâu cả gang tay xuống nền đất khô khốc. Vị ngọt thơm, đắng mát của sắn cồn làm dịu từng cơn đau và xóa đi vết dấu bệnh tật của vợ tôi.

Những hình ảnh về buổi chiều đông đó cứ trở đi trở lại trong tâm trí tôi. Từng khóm hoa như le lói ánh đèn. Gương mặt mẹ và các chị tôi lành hiền, lặng lẽ, sáng trong như một vầng mây trắng. Cũng cánh đồng ấy, đêm giao thừa sẽ sáng rực lên. Quê tôi có tục, mỗi người mới nằm xuống, chiều ba mươi Tết sẽ được thắp những ngọn đèn bên nấm mộ. Không chỉ trong gia đình, mà họ mạc, xóm làng hay bất cứ ai còn nặng lòng thương nhớ người đã khuất đều ra đó làm lễ thắp đèn.

Đèn thắp từ chiều, rùng rình sáng trong giá buốt, đêm giao thừa rực lên, trông xa như trăng sao giáng xuống cánh đồng vạn hội, như đất trời điệu người về hoàn cõi, thảo thơm ân nghĩa tình người.