26 C
Hanoi
Thứ Ba, Tháng 10 21, 2025

Lững thững… và yêu

C ó những buổi chiều, tôi ngước nhìn...

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...
Trang chủ Blog Trang 8

Cây gạo làng

xr:d:DAGCOTMi0Is:8,j:7560842531599443919,t:24041217

Cây gạo làng tôi đứng ở một góc sân chùa. Từ dưới bến sông nhìn lên qua một con đê nhỏ chỉ thấy vòm cây nhô ra. Mỗi mùa xuân sang, cây gạo nở rộ, đồng loạt bung những cánh mịn như nhung rồi rủ nhau cùng buông mình rụng xuống. Đêm khuya, gió từ sông Cầu thong dong ghé lại khe khẽ lay cành, tiếng bông gạo thỉnh thoảng rụng lụp bụp làm sư thầy tỉnh giấc. Những bông gạo nằm nghiêng giữa nền gạch sân chùa, nghiêng trên đám cỏ,giắt vào mái ngói rêu phong rồi đầucánh xạmdần, đen lại. Chú tiểu mỗi sớm quét chùa lại vun hoa gạo thành từng đống như đống lửa, thỉnh thoảng chú tinh nghịch tung một bông hoa còn tươi lên cao để hoa xoay xoay rồi lại bắt lấy, bỏ vào túi áo nâu.

Hoa của cây gạo làng tôi có màu đỏ thẫm, màu của son môi các cô gái làng hay thoa đằm đằm quyến rũ, chứ không đỏ tươi hay đỏ cam như nhiều cây gạo khác trong vùng. Người làng tôi bao đời truyền lại, từ khi có một ông lão ăn mày phiêu bạt đến xứ này thì cây gạo cũng bắt đầu mọc lên ở sân chùa. Ông lão hiền lành, mái tóc bạc phơ không nhớ tên tuổi quê quán của mình, được người làng cưu mang bữa rau bữa cháo, cho đến khi ông mất dân làng cũng đặt ông nằm lại ngoài cánh đồng mênh mông trước cổng chùa. Còn cây gạo lớn ù ù như thổi. Năm nào cây nở bung hoa, năm ấy dân làng tôi được mùa có thóc ăn thóc để. Đứng từ gốc cây gạo nhìn ra, mộ lão ăn mày chon von giữa cánh đồng.

Ông nội tôi kể rằng có lần nước sông dâng cao lên qua mặt đê tràn cả vào sân chùa. Cây gạo lầm lũi ngâm mình trong nước lụt cả tháng trời. Đến khi nước rút, lá cây võ vàng rụng như trút hết xuống gốc, chỉ còn trơ cành. Ai cũng tưởng cây gạo chết. Năm ấy làng tôi mất mùa, đói to. Ấy vậy mà đến mùa xuân, cây gạo lại nảy lá non, những cây tầm gửi leo trên thân gạo cũng xanh trở lại. Từ đó, cây gạo thành hồn làng gắn với chuyện vui buồn của người dân.

Tôi nhớ ngày bé theo ông nội lên chùa nhặt hoa. Ông tôi cẩn thận chọnnhững bông hoa gạo vừa rụng xuống còn nguyên vẹn, không giập nát đem về tỉ mẩn tách từng cánh phơi khô dùng làm thuốc. Chú Tứ người làng tôi hay rượu, da vàng vọt xanh xao, ông bảo tôi leo lên cây hái tầm gửi để ông làm thuốc chữa gan cho chú, áo tôi bị gai cào rách cả một mảng. Thế mà kiên trì uống thuốc và kiêng rượu da chú Tứ hồng hào trở lại, ngày nào chú cũng ra ngồi gốc cây gạo ngước lên nhìn tán lá mà cười.

Thần cây đa. Ma cây gạo. Cú cáo cây đề… Dân làng tôi ai cũng biết, ấy thế mà cây gạo làng tôi gần gũi thân thiết như một biểu tượng của làng. Người ở xa về, đứng trên bến đò Gầm nhìn lên, thấy dáng cây gạo là như thấy người thân đang chờ mình trên dốc đê làng.
Có cô con gái lấy chồng bên kia sông, khi cây gạo quê mẹ thắp lửa, chiều nào cô cũng cứ đứng bờ sông mà ngóng vọng sang. Có chàng trai đi làm ăn xa mối tình còn vương vấn để cô gái làng chờ đợi, mỗi tháng ba cô đứng dưới gốc gạo hoa nở thắm như màu của mảnh vải đỏ người vợ chung tình trong câu chuyện xưa buộc cổ tay nhắc người đi xa trở lại. Bọn trẻ con chúng tôi mỗi năm đềuháo hức chờ đến mùa hoa gạo. Khi nắng hưng hửng mấy đứa rủ nhau lên chùa, ra gốc gạo nhặt hoa xâu thành vòng đội đầu. Chúng tôi ngồi quây quần dưới gốc cây nghe các liền anh liền chị trong làng tập hát đối đáp bài Quan họ cổ cho ngày hội làng sắp mở, có đứa còn lẩm nhẩm hát theo:

Trèo lên cây gạo cao cao
Khăn thâm vắt dưới, khăn đào vắt trên
Tay cầm nắm trấu tung lên
Trấu rơi xuống đất bạn hiền nao nao…
Trèo lên cây gạo chon von
Trông xuống dưới đất thấy con người bò
Con người ấp trấu ấp gio
Em đi múc nước tắm cho con người…

Lớn lên, có những đứa trẻ ngày ấy đi xa, nhưng trong nỗi nhớ da diết về làng luôn có bóng hình cây gạo, vạt áo tứ thân mớ ba mớ bảy của mẹ của chị cùng những câu dân ca tình tứ đã khắc sâu vào tâm khảm.

Một sớm từ thành phố về làng thăm cây gạo sân chùa, tôi đứng lặng nhìn chú tiểu đang ngồi khoanh chân giữa một vòng tròn được xếp bằng những bông hoa gạo mới rụng cánh còn tươi. Hai tay chú tiểu chắp hình búp sen để trước ngực, mắt nhắm hờ hàng mi dài cong vút, trên cổ chú tiểu cũng choàng một vòng hoa gạo được xâu lại cẩn thận. Vẻ đẹp thánh thiện hồn nhiên giữa một buổi sáng trong trẻo của mùa xuân làm hồn tôi ngơ ngẩn, bao nhiêu ưu phiền của cuộc sống bộn bề ngoài kia bỗng tan biến hết. Tôi cúi xuống khẽ khàng nhặt một bông gạo còn lóng lánh hạt sương mai, cố gắng nhẹ nhàng nhất để không làm chú tiểu giật mình…

Những vòng quay của mẹ về đâu?

C ậu em gửi cho tôi hình mẹ già đang xay bột. Thế là cả một trời thương ùa về. Tôi nhớ mẹ. Mẹ tôi làm bánh mùng ba tháng ba.

Nhà tôi không có cối xay. Mỗi dịp Tết trôi chay, mẹ lại đôn đáo lo xay bột nhờ. Làng trên xóm dưới, mẹ không nhờ được nhà này, lại nháo nhào chạy tới nhà kia. Bởi xay bột thì lâu, mà cả xóm ríu ran sắp hàng chờ tới lượt.

Thương nhất là một lần mẹ xay về thì đã tối muộn, ba giờ sáng trở dậy, bột vẫn nhèo nhèo, mẹ phải vùi vào thùng tro để hút nước thật nhanh. Năm đó, đĩa bánh ngả màu đùng đục chứ không được trắng ngà trắng ngọc như mọi lần. Mẹ nâng đĩa bánh lên thắp hương mà cứ ngùi ngụi như thể mắc lỗi gì.

Ngày bé, tôi thích đi theo mẹ lắm, xăm xắn cầm giùm mẹ chiếc bát sắt con, chiếc chậu nhôm hứng bột. Cái cảm giác mình cũng “có công” nó hạnh phúc chừng nào. Đến nhà bà lão đầu xóm, mẹ nhanh tay rửa sạch từng kẽ cối. Xong đâu đó, mẹ cầm chiếc tay quay bằng gỗ lim nâu óng bắt đầu khởi động.

Chiếc cối đá to, nặng trịch vậy mà mẹ đưa tay kéo khẽ vào lòng, rồi lựa, lái thật nhẹ, thật êm khiến chiếc cối ngoan ngoãn quay tròn đầy diệu nghệ. Mẹ múc bát gạo đổ vào. Cứ thế, đều đặn, bát gạo, bát nước xen nhau. Từng đụn gạo trắng ngần từ từ tụt xuống. Mẹ quay liền tay, không phút nào ngưng nghỉ. Tôi nhìn theo tay mẹ, theo ngõng cối quay mà thán phục sao mẹ có thể kiên trì và khéo léo như thế được.

Lớn lên một chút, thấy mẹ đổi tay luôn, tôi đòi mẹ cho mình quay thử. Nhưng mấy lần bánh cối cứ trật ra, thành thử tôi chỉ biết đỡ mẹ xúc gạo, rồi đủn gạo xuống sao cho thật nhịp nhàng.

Tôi nhớ lắm những buổi trưa yên ắng chỉ có hai mẹ con bên chiếc cối đá quay chầm chậm, trên hiên nhà xanh rêu, loang vài bông hoa nắng dịu hiền. Những lần ấy, nghe tiếng dạ dày sôi lên ục ục, tiếng thở nằng nặng hơn từ mẹ, tôi hối thúc mình làm nhanh thêm một chút để mẹ được ăn cơm. Nhìn những đụn gạo cứ vơi dần, vơi dần mà lòng tôi hạnh phúc. Còn mẹ thì cười nhìn tôi, cái cười hiền hậu, dịu dàng khôn tả. Tôi lại lén quan sát khuôn má thắm hồng của mẹ. Đôi má tròn đầy lấm chấm vài hạt nám li ti càng lúc càng ửng lên dưới màu nắng mới. Cạnh đó, những sợi tóc mai rìn rịn mồ hôi, bắt đầu kết lại, đen bóng.

Mẹ vẫn quay đều. Vừa quay, mẹ vừa dạy tôi phải quay thế nào cho thật nhẹ nhàng, thật khéo, để bột không bắn ra ngoài, không dồn hết lực mà bánh cối vẫn xiết vừa khin khít để từng hạt bột được tan ra, nhỏ mịn. Tôi cứ mê mải nhìn dòng sữa trắng như mây mềm mại vòng ôm dưới thân cối đá, mà ngỡ, có chiếc voan mây vừa rớt xuống ở lưng trời. Chầm chậm, chiếc voan mây ấy chảy xuống chiếc chậu nhôm một dòng thương nhớ.

Xay xong lần một, mẹ lại tiếp tục quay thêm lần hai, lần ba. Mẹ bảo, phải xay nhiều lần như vậy thì bột mới mịn mềm, bánh mới óng đẹp và quện dẻo thật đều.

Rồi mẹ rì rầm kể bao nhiêu chuyện. Mẹ ríu rít kể rằng quê ngoại ăn Tết này to lắm. Nhà mẹ làm bánh trôi chay, bánh rán, bánh rợm, để dâng cúng tổ tiên, để biếu các cụ hai bên nội ngoại… Mẹ không nói hết, ánh mắt đã cụp xuống ngân ngấn buồn. Tôi nhận ra điều ấy vì hôm nay là ngày giỗ cậu tôi. Cậu liền kề ngay sau mẹ, là liệt sỹ trên chiến trường miền Nam. Cậu mất đúng ngày mùng hai tháng ba. Nhưng mẹ lấy cha tôi xa biền biệt. Tôi biết, chưa khi nào mẹ được về thăm nhà vào dịp Tết trôi chay…

Mùng ba tháng ba lại tới. Chiếc cối năm xưa đã nằm im ở một nơi nào, tôi không rõ nữa. Duy chỉ chiếc cối thời gian vẫn lừng lững quay rất đỗi vô tình. Bần thần ngắm những khối bột xanh đỏ tím vàng bán đầy khắp phố, sau vài phút rèo rèo của chiếc máy xay, tôi chợt giật mình. Có phải tôi là hạt gạo nếp năm xưa bị xiết giữa đôi bờ quên – nhớ? Mà ngậm ngùi thương mẹ, rưng rức hỏi lòng: Những vòng quay của mẹ về đâu?

Phù sa đời cha

C ha trầm lành như đất, tôi là con gái nhưng đáo để nghịch ra trò. Vậy mà hai cha con lại bện nhau như hình với bóng. Khi thời gian hào phóng tặng cho tôi một tuổi thơ dài rộng thênh thang thì cha kiên nhẫn dịu dàng tặng cho tôi một bầu trời trong xanh đầy ý nghĩa.

Rồi sớm sớm, hôm hôm, tôi mải lớn mải khôn mà quên bẵng đi những buổi chiều thẳm sâu trầm lặng. Những buổi chiều cặm cụi, những buổi chiều không nói của nhân gian. Tôi thảng thốt chạy ùa về quê hương, chạy về phía cha tôi mà nước mắt chực giụa giàn. “Cha à! Cha đừng giống chiều khi con còn như nắng…”

Có những ngày, nắng chẳng bận rộn nơi nào xa xôi mà trải vàng con đường từ nhà tôi tới chợ huyện. Cha ngồi phía sau xe, hai tay vịn vào sườn áo tôi thật chặt giống như ngày xưa có đôi tay bé nhỏ bám vào cha chẳng rời. Tôi bé thơ ngồi trên chiếc gối cũ được buộc sẵn vào yên xe êm mềm mà líu lo sau lưng cha hiền cùng những vòng quay yêu thương tròn trịa. Cô con gái bé bỏng của ngày nào giờ đã biết chọn mua áo quần giày dép và đủ thứ cho cha mà lòng vui sướng hệt ngày xưa khi được cha mua cho những món đồ bé nhỏ.

Đời cha giản dị bao nhiêu, lòng tôi càng canh cánh thêm nhiều. Tôi nhận mình là đứa con mắc nợ. Mắc nợ những ngọt bùi phù sa mà đời cha tảo tần chắt chiu để dành cho tôi khôn lớn. Tôi như bắp ngô non từng ngày mẩy hạt, như củ khoai quê trong lòng đất vươn mình, như ngọn cây xanh hướng về ánh bình minh từ đời sông, từ đời cha, một đời trầm tích. Những hạt phù sa bôn ba từ núi non hiểm trở, chông chênh vượt thác xuống ghềnh, lặn ngụp chìm nổi theo dòng sông mà thành bờ thơm bãi ngọt. Những buổi chiều rơi, vệt nhá nhem muôn nơi, sông quê vẫn hiền hoà bình thản, mặt sông bừng lên những đốm sao lấp lánh. Dòng sông hạnh phúc mỉm cười nhìn bãi bờ màu mỡ tốt tươi. Như cha nhìn tôi, người cha thứ bao nhiêu trên cuộc đời nhưng với tôi là người cha đặc biệt duy nhất.

Chuyện xưa kể rằng ông Trời bắt đầu tạo ra người cha đầu tiên trên thế gian bằng một cái khung thật cao. Một nữ thần đi qua thắc mắc vì sao người cha lại cao đến vậy, thật bất tiện nếu ông ta đi chơi bi với trẻ con thì phải quỳ gối, nếu ông ấy muốn hôn những đứa con mình thì phải cúi người. Trời gật gù rằng có lý nhưng nếu để người cha cao bằng lũ trẻ thì lũ trẻ biết lấy ai làm tầm cao mà vươn tới. Khi trời nặn đôi bàn tay thô ráp, nữ thần lại bảo tay to thường vụng về, khó mà đóng tã, cài nút áo hay buộc tóc cho con, không thể khéo léo lấy những mảnh dằm sâu trong da thịt mềm của trẻ. Ông trời bảo đôi bàn tay to lớn vững chãi đó sẽ dìu dắt bọn trẻ qua mọi sóng gió, cho tới lúc chúng trưởng thành. Nữ thần bảo thật hoang phí khi nhìn Trời nặn người cha với đôi vai rộng lực lưỡng. Ông Trời đáp rằng người cha sẽ đặt con ngồi đâu khi phải đưa nó đi xa, lấy chỗ đâu cho đứa con ngủ gật gối đầu, quan trọng hơn đôi vai ấy gánh vác cả gia đình. Và ông Trời đã thức trắng đêm để nặn cho xong người cha đầu tiên. Người cho tạo vật mới ít nói, nhưng mỗi lời phát ra là một lời quyết đoán. Đôi mắt người cha nhìn thấu mọi việc trên đời nhưng lại bình tĩnh và bao dung. Cuối cùng khi đã gần hoàn tất công việc, Trời thêm vào khoé mắt người cha vài giọt nước mắt nhưng rồi lại chùi chúng đi. Thành ra người đời sau không mấy khi thấy được giọt lệ hiếm hoi của người cha, mà chỉ có thể cảm và đoán được ông ta đang khóc.

Cha tôi không cao lớn như người cha đầu tiên được tạo ra trên cuộc đời nhưng bóng cha đủ che cho tôi khỏi cơn mưa xiên và chòm nắng rát:

“Cha là bóng mát giữa trời
Cha là điểm tựa bên đời của con”.

Bàn tay cha cấy cày gặt hái, hương lúa thơm khắp đồng gần đồng xa, bùn chàm bấu riết bên mùa nắng lửa, mùa lạnh cắt thịt cắt da. Đôi vai trầy xước vì chặt tre, vác gỗ, dựng cửa làm nhà, đào ao, đào giếng. Đôi tay khẽ khàng chườm những ngọn ngải cứu lên trán tôi khi ốm, đôi tay nhổ chiếc gai nhọn cắm ngập vào chân tôi ngày bé la cà, đôi tay bế tôi chạy một mạch tới bệnh viện cấp cứu khi bị xe tông ở con đường làng có đoạn ngã ba. Cha kể cho tôi những bài học cha đã từng tích luỹ, cha dạy cho tôi những đạo lý làm người chân chính thiện lương, cả những bài học trên lớp trên trường, cha luôn dõi theo tôi và chỉ bảo. Còn nhiều lắm những điều không thể gọi thành tên, tôi có một người cha hiền, luôn dành cho con bằng tất cả điều cha có. Câu ca dao muôn đời còn đây:

“Cha đưa cả tấm lưng gầy
Chở che con được tới ngày hôm nay”

Ngày niên thiếu, cha chịu nhiều đắng cay từ miệng đời, tuổi thơ cha sóng gió đầy vơi khi ông nội tôi, người cha trụ cột của cha đã ra đi như con thuyền bị lật tung giữa muôn trùng sóng dữ. Cha cút côi giữa những chèn ép trên đời…cho tới ngày cha lớn khôn tự tại. Tôi ngắt lời để nỗi buồn trong cha không lặp lại: “Con sẽ gắng bảo vệ chính mình!”. Ánh mắt cha lẩn khuất những lo lắng vô hình. Cha hỏi tôi về những khó khăn, cha muốn nghe về những điều quanh tôi dù có đủ đầy hay thiếu thốn. Lòng nhân hậu của cha luôn là điểm tựa của cả nhà, cha bao dung với mọi thứ. Đã có những khoảng thời gian tôi biền biệt với quê nhà để rồi một hôm tôi trở về bất chợt, hoa chanh hoa bưởi đang bình lặng toả hương mà như xốn xang nô nức. Cha lúi húi bước ra từ làn khói bếp: “ Sao con về mà chẳng báo trước cho cha?”, đôi mắt trũng sâu nhìn tôi như vỡ oà. Cơn mưa phùn thay cha bật khóc.

Tôi quét dọn mảnh sân cũ và lối cổng chạy dài. Giặt chiếc màn tuyn, vò tấm chăn nhung, rũ bộ quần áo cha ngâm trong chậu rồi ra vườn bằng đôi chân trần, hái rổ rau về cùng cha nấu bữa cơm ấm áp. Cha kể về buổi họp lớp chỉ toàn những người bạn đã tuổi ngoài 70. Cha đọc cho tôi nghe bài thơ xúc động bồi hồi mà cha đã đọc trước bao người trong buổi lễ, thầy giáo chủ nhiệm năm xưa đã ôm cha trong niềm nhớ thương và phấn khởi vô chừng. Nét mặt cha đang thật hạnh phúc.

Và những lần đi, tôi nghẹn ngào nhìn lại, cha bần thần đứng đó rất lâu, bóng cha lọt thỏm dần sâu vào vườn cây, ngõ cổng. Có đàn chim bay về phía xa xa trời rộng, có phải chúng bay về tổ ấm ngôi nhà. Tôi nhắc mình ngày về thăm cha. Cuối làng, dòng sông vẫn lặng lẽ hiền hoà, ngô khoai vẫn ven bờ biêng biếc…

Miền hoa ban trắng

Không hồng dịu như đào phai, mộc mạc như tam giác mạch, không rực rỡ như đỗ quyên, không vàng tươi như dã quỳ phố núi, hay nhỏ xinh như cải vàng. Nhưng có một loài hoa nở trắng núi trắng rừng mỗi độ tháng Ba về, đó chính là hoa ban. Ban trắng là linh hồn của Tây Bắc, hoa ban đã đi vào đời sống văn hóa – tâm linh bao đời nay của người dân nơi này, nhất là dân tộc Thái vùng cao.

Khi hoa ban nở, gần như cả Tây Bắc chìm trong sắc trắng miên man, các thảm hoa lô xô trên đỉnh núi, nối dài, chảy tràn giống như những thác nước khổng lồ vươn từ sườn núi này vắt qua vách đá khác. Tất cả đều mang một màu trắng sáng bừng, tinh khôi đến nao lòng. Ban sà từ trên núi soi dáng mình nơi thung lũng ăm ắp nước đầy, ban hút hồn người lữ khách đến đây. Ngày hoa ban nở cũng là lúc đồng bào dân tộc vùng cao bắt đầu vụ mùa tươi tốt cho các thửa ruộng của mình.

Nhắc đến Tây Bắc, người ta nhớ đến những cung đường quanh co, hết dốc lại đến đèo, có những đoạn khúc khuỷu, gập ghềnh. Có cả những đoạn chạy thẳng rồi bất ngờ như ngút lên trời xanh.
Tháng Ba, hoa ban thổi hồn vào gió, gửi sắc vào không gian, gửi ấm nồng dịu ngọt của mình vào trời đất. Ngắm hoa ban nở, người ta cảm nhận được cái đẹp, thứ đẹp ấy thật giản đơn, không cần giáo huấn hay kinh kệ, nhưng vẫn dễ dàng nhận ra, một vẻ đẹp hoàn toàn thuyết phục bởi ngàn hoa ban trắng. Bỗng nhiên thấy mình thật hạnh phúc giữa đất trời Tây Bắc mang một màu ban. Loài hoa trắng núi trắng rừng ấy nở khắp lưng núi ven đồi, tỏa hương gọi mời ong bướm, hoa vừa dịu dàng vừa thuần khiết. Giữa bao la lộc biếc, chồi non nơi đại ngàn, ban khoe mình từng chùm trắng như bông, xốp đẹp tựa mây, bồng bềnh trôi trong không gian, ban chảy tràn xuống thung lũng…

Tây Bắc là xứ sở của hoa ban và hoa ban là biểu trưng cho Tây Bắc. Theo tiếng Thái, hoa ban có nghĩa là hoa ngọt. Hoa ban có năm cánh xoè thành hình quạt, thân màu xám, có nhiều cành, nhiều nhánh dài. Hoa ban có nhiều màu sắc như tím, đỏ, trắng, nhưng nhiều và phổ biến hơn cả vẫn là hoa ban trắng. Hoa ban Tây Bắc lặng lẽ nở, lặng lẽ tặng dâng hết mình. Hoa ban từ lâu đi vào thơ, ca, nhạc, hoạ. Gần nửa thế kỷ trước, hoa ban đã từng nở rộ trong những trang ký lấp lánh của nhà văn Nguyễn Tuân với “Mùa Xuân đi trong hoa”. Thật cảm xúc, yêu thương và đẹp đẽ biết bao. Cách đây hơn 40 năm, năm 1981,trong chuyến thực tế Lai Châu, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết bài thơ “Gửi Lai Châu” trong đó có câu:

“…Hoa Ban nở thành người con gái Thái
Đám mây bay trong thau nước gội đầu”

Với người Lai Châu, đó là câu thơ hay nhất viết về hoa ban, là sự ví von kiều diễm nhất về người con gái Thái. Lên Tây Bắc, đến Điện Biên ghé Mường Then thăm Mường Trời, ta được hòa mình vào trong sắc trắng bừng ngàn ngạt của hoa ban huyền thoại, cùng thưởng thức những hương vị thanh tao. Tìm một nét cười lấp lánh cúc bạc sơn nữ đâu đó bất chợt nơi lưng chừng núi, lưng chừng đèo, để rồi lạc bước lãng du quên ngày quên tháng trong bạt ngàn hoa ban…

Hoa ban tượng trưng cho đất trời Tây Bắc, người con gái Thái như đại diện cho linh hồn của hoa ban, là cuộc đời người con gái Thái, trong trắng trinh nguyên, tỏa hương dâng sắc cho đời cho người. Từ khi sinh ra người con gái đã thấy cội ban, lớn lên được người mình yêu tặng nhánh ban làm kỷ vật hẹn ước thủy chung. Đến ngày cưới theo chồng, hoa ban cài mái tóc, phòng hoa chúc đẹp trắng sắc ban. Những món ăn đãi khách cũng nhẹ nhàng cùng với hương ban phảng phất. Người con gái Thái rất trân quý mái tóc của mình, đặc biệt xem trọng nuôi tóc, dưỡng tóc từ thời con gái đến khi lấy chồng, họ thường ủ tóc với nước vo gạo và gội đầu bằng nước lá chanh đun cùng sả. Gắn liền với người con gái Thái là chiếc khăn Piêu được dệt nên từ đôi tay khéo léo. Màu sắc trên khăn chảy ra từ huyết mạch của trái tim, bao tình cảm bao nhớ thương được chắt chiu trên từng nhịp khung cửi. Chiếc khăn là tấm choàng, là tấm bùa hộ mệnh bảo vệ tóc, làm tóc đẹp dáng. Cùng với khăn piêu, chiếc trâm bạc cài tóc, hoa ban đã tôn vinh nét đẹp cho những cô gái miền sơn cước giữ được bản sắc rất riêng cho mình. Khăn piêu sẽ kém hoàn hảo, khi thiếu đi sắc trắng hoa ban, hoa ban biết tựa vào cút piêu nâng vẻ đẹp cho người con gái Thái. Vẻ đẹp viên mãn, trinh nguyên tròn đầy, vẻ đẹp mộc mạc mà rực rỡ khiêm nhường, vẻ đẹp hoang dại nhưng không kém phần quyến rũ.

Trong tiếng suối đêm ngày róc rách vang vọng nơi đại ngàn hùng vĩ, là lời thì thầm của đất mẹ về huyền thoại con chim lông vàng lẻ bầy suốt đời suốt kiếp đi tìm người yêu Ô Quy Hồ, và thủ thỉ bên tai về loài ban – một thiên tình sử bất tử của dân tộc Thái. Hoa ban được dệt lên bằng sương khói miền cổ tích xa xưa cùng mối tình đẹp mà bi thương của đôi trai gái người Thái. Đó là câu chuyện tình yêu của nàng Ban và chàng Khum. Tình yêu và niềm tự hào của người Tây Bắc đối với hoa ban có lẽ cũng được bắt đầu từ câu chuyện này. Những cánh trắng mỏng manh mà bền bỉ như sự chắt chiu của khí trời, khoáng đạt của đá núi thăng trầm, và của đại ngàn hùng vĩ. Vì lẽ đó hoa ban được coi là hình ảnh đại diện cho mảnh đất Tây Bắc vùng cao. Hoa ban tựa như “búp tay người con gái Thái”, chịu thương chịu khó bằng cả tấm lòng.

Khi mùa hoa ban nở, cũng là bắt đầu mùa lễ hội lớn nhất trong năm của người Thái. Đó là Sên bản, Sên mường (cúng bản, cúng mường) cầu mưa, cầu phúc, cầu mọi điều tốt đẹp cho bản mường của đồng bào dân tộc Thái. Loài hoa ban mỏng manh ấy lại mang trong mình huyền thoại về tình yêu, tình vợ chồng và còn là biểu tượng cho đạo hiếu của con cái với đấng sinh thành. Mùa ban nở theo gió rừng thầm thì bên tai lời yêu tiếng thương, những đôi trai gái tìm gặp nhau, cùng tỏ tình, cùng tính chuyện trăm năm. Mùa ban nở nơi núi rừng là mùa yêu, mùa ấm áp, mùa đoàn viên đến thắt đáy lòng người…

Theo những già làng nơi đây trải lòng, từ khi sinh ra và lớn lên, người dân trong bản đã gắn chặt cuộc đời mình với cội hoa ban. Hoa ban không chỉ là một loài hoa đẹp, đặc trưng của núi rừng Tây Bắc, mà khi những cánh ban bung nở cũng là lúc người dân Tây Bắc chuẩn bị cho một vụ mùa gieo trồng trên nương. Người dân nơi đây biết bám vào thiên nhiên, quan sát những thay đổi các loài cây, đặc biệt là sự thay đổi của cây hoa ban để biết được, cũng như nắm bắt được khoảng thời gian gieo trồng của mùa. Đến Tây Bắc, tháng Ba mùa hoa ban, ta được ngắm sắc hoa trắng tinh khôi, được cùng tham gia những vòng Xòe, được thưởng thức hương vị thanh tao của những đóa hoa rừng … để rồi đâu đó bất chợt thấy một nét cười “lấp lánh cúc bạc” nơi lưng chừng núi, một dáng váy thướt tha “gùi ban trên núi.” Người ta được cảm nhận từng hơi thở về loài ban trong truyền thuyết, qua cuộc sống của người dân. Thấy được dòng chảy lịch sử văn hóa với những chiến công cùng sự đóng góp của người Tây Bắc “vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến” trong cuộc kháng chiến chống Pháp gắn với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm nào, “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. … Tây Bắc nên thơ, Tây Bắc đã chuyển mình như thế trong sắc trắng của hoa ban…

Tháng Ba chập chùng thương chập chùng nhớ…Ta lại muốn nhờ gió và cánh ban dẫn đường, để được thấy mây đan mây trên vùng cao Tây Bắc. Để được nghe lời thì thầm của đất mẹ đại ngàn hùng vĩ, nghe tiếng suối chảy róc rách, lời thủ thỉ bên tai một thiên tình sử bất tử về hoa ban của dân tộc Thái. Câu chuyện bi thương của nàng Ban và chàng Khum năm nào, nhưng là nỗi buồn đẹp trong tình yêu thật thà. Hoa ban trắng tượng trưng tình cô gái Thái, bị ép duyên ngang trái bởi người cha. Khi cô chết hóa thành bông ban trắng. Tình yêu thủy chung có đất trời chứng giám, một tình yêu chẳng thể nói nên lời. Ban tinh khiết trắng trong như nhắn nhủ, trái tim này mãi thuộc về anh.

Ta muốn nhìn được thêm những cánh ban soi bóng mình bên thung lũng ăm ắp nước đầy, muốn nhìn thấy những người cha thanh thản giục trâu bừa thửa ruộng, những người mẹ lụi cụi gùi con, gùi mây dưới cành ban trắng bình yên.

Khi mùa hoa ban khép lại, cũng chính là lúc đất trời Tây Bắc dang tay chào đón những cơn mưa đầu mùa cho mùa nước đổ, cho những vụ mùa mới tiếp theo. Mùa nối mùa, yêu thương của hoa ban luôn ở lại, bởi hoa biết kể yêu thương, trao gửi yêu thương của mình trên những cánh ban, biết thổi hồn vào gió, gửi sắc vào không gian, gửi dịu ngọt, ấm nồng vào trời đất…

Món quà của biển

Khi mặt trời chưa nhô lên khỏi mặt nước của đại dương mênh mông mà chỉ hắc chút ánh sáng soi rõ bóng của những con tàu đánh cá trở về, trên bến đã lao xao tiếng nói cười. Nhìn khuôn mặt rạng ngời của các bà, các mẹ ngồi đợi chồng, đợi con của mình về từ trùng khơi, ai cũng biết ngư dân chuyến này trúng lớn. Tiếng máy nổ xành xạch, tiếng người gọi nhau chuyển hải sản lên bờ khi tàu cập vào âu thuyền làm không khí của miền biển quê vui như những ngày hội. Dọc theo ven bờ của cửa An Dũ nơi con sông Lại hòa mình vào biển cả trong những ngày đầu xuân này, cái mùi ngai ngái quen thuộc của thứ sản vật đang phơi làm giác quan của những người sành ăn phải lên tiếng. Ai cũng mong đợi mà thốt lên “trời ơi ruốc!”

Loài hải sản bé nhỏ này có mặt ở các vùng biển ven bờ từ bắc chí nam với tên gọi khác nhau như moi, khuyết, tép, ruốc… Thân hình bé nhỏ và có đến mười chân nhưng loài giáp xác của biển cả này không di chuyển nhanh được. Chúng bơi thành từng đoàn ven bờ và nhanh chóng lặn sâu khi có động. Chỉ đến lúc trời yên biển lặng trong những ngày sang xuân mới nổi lên trên mặt biển tận hưởng những phút giây tĩnh lặng hiếm hoi của đại dương. Từng đoàn, từng đoàn ngoi lên như để hít thở khí trời của những ngày xuân ấm áp làm mặt biển lao xao. Đoàn tàu đánh cá nằm gối đầu lên những con sóng lăn tăn ven bờ ngủ yên trong những ngày người ta còn du xuân đã giật mình tỉnh giấc chạy xuất hành đôi vòng để lấy hên trong những ngày nắng đẹp. Đây cũng là lúc ngư dân xem chừng đã đến mùa ruốc nổi hay chưa mà chuẩn bị đánh bắt.

Khi phát hiện loài giáp xác này trồi lên tận mình dâng hiến, mùa khai thác ruốc bắt đầu. Có nhiều cách đánh bắt nhưng những ngư dân của cửa An Dũ thích dùng phương pháp trũ mành. Bằng cách đánh bắt này, con ruốc với thân hình trong veo được vớt lên rất sạch mà không bị lẫn tạp chất khác như cách đánh bắt giã cào. Ở những vùng biển nông người ta còn đi nhủi ruốc bằng tay nữa nhưng cách này ruốc thường bị lẫn lộn với cát. Những con thuyền khai thác nhỏ ven bờ trúng luồng ruốc theo những tầng nước cứ vào ra rộn ràng để kịp mang vào bờ những khoang thuyền đầy ắp ruốc. những thúng ruốc tươi roi rói theo chân các bà, các chị kịp đến những phiên chợ sớm nhất. Có những lúc trúng lớn và gặp lúc nắng giòn đầu xuân, ruốc được đem phơi khô. Khắp những bãi bờ ven biển dậy lên một mùi ngai ngái của thứ hải sản này.

Ruốc tươi được chế biến thành nhiều món ăn dân dã nhưng cực kỳ ngon. Nếu ta đã từng thưởng thức một lần trong đời chắc chắn sẽ không bao giờ quên được. Ai cũng mong thời gian trôi qua nhanh để mau đến mùa ruốc mà thỏa mãn sự trông đợi của vị giác, khứu giác. Với người Bình Định, món salad ruốc được chế biến chẳng chút cầu kỳ mà ăn hoài không biết chán. Ruốc tươi xào cùng gia vị rồi trộn với các loại rau mơn mởn những ngày xuân mà chủ yếu là xà lách, dưa leo, cà chua xanh, khế tạo nên món ăn “dưới bảo trên không nghe”. Nhìn đĩa salad với màu hồng của ruốc, màu xanh của rau điểm xuyến những vòng xốt mayonnaise trắng muốt làm nước bọt ta tứa ra đầy khoang miệng. Ngoài ra còn có món ruốc xúc bánh tráng dân dã cả cách chế biến lẫn thưởng thức. Ruốc tươi đem xào vừa chín tới cho khô nước rồi thêm chút mắm nhỉ An Dũ cho vừa ăn. Lấy miếng bánh tráng nướng giòn cứ thế xúc nhai cà rộp, cà rộp mà không muốn dừng. Nồi canh rau thả mớ ruốc tươi vào ăn ngọt đến tận bao tử. Những năm tháng bao cấp đói khổ, món ruốc khô rang lên thả vào chén mắm ớt cũng dễ đưa chén cơm độn củ lắm.

Nói đến ruốc mà không kể đến thứ mắm được làm từ loài hải sản này là một thiếu sót lớn. Đặc sản mắm ruốc có ở khắp các vùng miền ven biển và mỗi nơi có những cách làm để cho ra sản phẩm với hương vị khác nhau. Thứ ruốc sạch tươi roi rói cho vào hủ sành với tỷ lệ muối phù hợp, ủ chượp lên men trong vòng sáu tháng sẽ cho ra thứ mắm ruốc đặc trưng mà không thể thiếu được trong mâm cơm người Việt. Thịt ba chỉ kho mắm ruốc, bánh tráng nướng mắm ruốc, cơm chiên mắm ruốc, bún bò mắm ruốc…chắc chắn là những món ăn mà bạn đã từng thưởng thức một lần trong đời. Người miền quê cửa biển An Dũ vẫn ưa thích món mắm ruốc muối xổi hơn cả vì độ ngọt ngon của nó. Bữa ăn với chén mắm ruốc còn nguyên con hồng hào sủi bọt trong mùi thơm của ớt, sả, chanh. Thêm đĩa thịt luộc và cà chua xanh xắt mỏng nữa thì nồi cơm nấu bằng than củi cháy sém vơi nhanh lúc nào không hay.

Ngoài kia cái nắng mùa xuân vẫn đang dát vàng lên mặt biển xanh phẳng lặng. Những con tàu vẫn đang nổ máy khép chặt vòng lưới cho ruốc nặng đầy khoang. Trên bờ những ánh mắt rạng ngời đang đợi chờ để hóa kiếp loài hải sản của trùng khơi thành những món ăn tuyệt diệu mà đã thử một lần ta nhớ mãi không quên.

Xin lỗi hoa xoan

N hững cây xoan thẳng chạy dài trồng đều tăm tắp ven đê đang mùa trổ hoa bên bờ đê ven sông mà lâu lắm rồi nay mới có dịp được gặp lại. Tôi đi thật chậm quan sát kĩ từng cây một, ngắm từng bông hoa xoan li ti rơi trên vành nón các bà các mẹ đi làm đồng về. Hàng xoan thân thương như dẫn dụ, nắm lấy tay tôi dắt trở về nhặt từng mảnh ký ức năm xưa nơi làng quê yên ả.

Ngày ấy, quê tôi cây xoan vẫn còn nhiều lắm. Xoan được trồng ở những khoảnh đất trống bên sông, bờ ao và cả trong những khu vườn nhà rộng. Ông nội tôi vẫn hay kể: Ngày xưa nếu sinh con trai các cụ lo xa nên thường trồng xoan ở cuối vườn, chúng mau lớn, cứ trồng vất đó chả cần phải tưới tắm chăm sóc gì. Khi các con có gia đình riêng thì có gỗ xẻ ra dựng nhà, làm giường, đóng bàn ghế tủ. Nội thất đóng bằng gỗ xoan đẹp, nhẹ, thớ thẳng, một màu vàng sáng, ít biến dạng mối mọt, nên xưa nay thường ví von “xoan già là bà gỗ lim”.

Tôi sinh ra thì đã thấy mấy cây xoan to bên con ngõ nhỏ trước nhà. Ăn Tết xong đến giêng hai, khi những hạt mưa xuân giăng giăng khắp nhân gian thì cũng là lúc từng chùm hoa xoan tim tím xuất hiện bên những lá non mươn mướt. Hoa xoan lấm tấm nhanh nở nhanh tàn. Chúng cũng không kiêu sa đài các, không sắc nước hương trời nhưng ngan ngát, mang một màu tím dịu hiền như cô gái thôn quê chân chất. Dưới gốc xoan những bông hoa nhỏ bé rụng rơi như trải thảm lối về miền cổ tích sau từng cơn gió nhẹ. Cùng với hoa chanh hoa bưởi thì độ này hoa xoan cũng đi cả vào trong thơ ca nhạc hoạ tô điểm cho đất trời xuân, làm nên nét đặc trưng của sắc hoa mùa nhớ. Ngày ấy bà tôi thường bảo: theo các cụ có kinh nghiệm truyền lại thì khi thấy mầm lá nảy ra ở đầu ngọn xoan “chân chó” thì dấu hiệu hết rét nàng Bân chuyển mùa nắng ấm. Sang đến mùa hạ thì tán xoan xanh mướt căng tràn nhựa sống như cái ô khổng lồ, che mát cho lũ trẻ chúng tôi khỏi cơn nắng cháy trưa hè, giống như thiên đường vậy. Ngày đó chúng tôi hay lấy quả xoan bắn súng ống phốc chơi trò trận giả, bày bán đồ hàng, lấy cành xoan khô đốt ra nghiền làm pháo sáng. Còn mẹ hay vặt lá xoan đun nước tắm cho tôi khỏi rôm sảy mụn nhọt, dấm ủ chuối xanh cho nhanh chín.

Rồi một ngày khi đất trời sang thu thì cây xoan lại khoác lên mình chiếc áo mới, chuyển dần sang màu vàng, trên cành lơ lửng từng chùm quả sai chi chít. Lũ trẻ lại có dịp í ới gọi nhau nghển cổ lên ngắm từng đôi chim kéo nhau về mà tổ. Đến mùa đông lạnh giá cây xoan trông khẳng khiu gầy guộc như không còn sức sống, cũng chính vì thế mà nhiều nơi người ta gọi cái tên khác là “sầu đông” nghe thương đến nao lòng.

Thời thơ ấu tôi cũng đã được nghe nhiều câu chuyện vui buồn về loài hoa dân dã ấy. Những câu chuyện tình yêu đôi lứa hẹn thề nên duyên chồng vợ vào mùa xoan nở. Hay những câu chuyện của các bà mẹ tiễn con đi tòng quân với những lời nhắn gửi hẹn ước ngày trở về. Nhưng mãi mãi những người con thân yêu đã hoá hình hài đất nước, để lại những người mẹ già chờ con mòn mỏi vào mỗi mùa hoa xoan nhung nhớ.

Đến tận bây giờ tôi cũng không hiểu, sao cây xoan gần gũi thế mà người đời lại hững hờ với nó. Có phải giữa cái tháng ba giáp hạt, cái đói đeo bám mà hoa cứ phơi phới trước mắt những con người mà lòng họ đang bộn bề lo toan. Tội cái là chúng đẹp đấy nhưng các bộ phận đều không thể ăn được: Lá và quả xoan có độc tính, hoa xoan thì chẳng ai hái về cắm lọ hay để trong nhà mà còn lại gắn với sự ghẻ lạnh, chúng gắn với mùa bọ chó, ngửi thì điếc mũi, mùa hoa rụng nhiều thì quét ngõ suốt ngày, rau cỏ trồng dưới gốc thì khi chế biến xào nấu có mùi xoan, gỗ xoan ngâm dưới ao làm nhà thì nước thối om, lợn mua vào mùa xoan thì khó nuôi…. Rồi người đời còn bảo nó :” Không có sức hút, đến các loài ong bướm chúng cũng không mặn mà với loài hoa này” chỉ có lũ kiến đen hôi là hay kéo nhau đến làm tổ trên cành. Xã hội phát triển, đất chật người đông, nhà xây tường gạch mọc lên, người ta chặt bỏ xoan không thương tiếc nên tìm được cây xoan cũng khó. Nhưng ấn tượng nhất với tôi nhất là câu nói “ hoa xoan hoá muỗi” nên ngày nhỏ chúng tôi ghét mùa hoa xoan lắm, có cây con nào trong vườn là nhổ cho bằng hết. Nhưng không phải, tôi đã nhầm. Bây giờ quê tôi chả còn cây xoan nào mà muỗi vẫn nhiều. Hoá ra do thời tiết mùa này ẩm nồm trùng hợp nên sinh sôi ra nhiều muỗi, sinh ra bệnh tật thuỷ đậu hay sốt huyết, bệnh cúm gia cầm theo mùa tự nhiên chứ đâu phải tại hoa xoan.

Hôm nay đi giữa trời mưa xuân lất phất, dưới “lớp lớp hoa xoan rụng rơi đầy” xung quanh lời thì thầm của gió đồng mà lòng chênh chao, con tim thổn thức như luyến tiếc một cái gì đó đã qua đi theo năm tháng. Tôi bỗng nhận ra. Nhân duyên khi thiên nhiên đã ban tặng cho nhân gian cái gì đều có cái đẹp và chức năng cung bậc riêng biệt của nó. Chúng ta phải biết trân trọng yêu thương vạn vật với lòng biết ơn chứ sao lại dũ sạch. Cả tuổi thơ tôi ngủ êm ấm trên chiếc giường xoan, gắn bó với ngôi nhà gỗ xoan che nắng che mưa của ông bà nội. Thế mà sao tôi nỡ trách nhầm xoan, tôi đã nợ xoan một ân tình sâu nặng. Xin lỗi hoa xoan!

Xuân sau giêng giếng về đâu

Đào vừa ấp nụ hồng đã phai. Mai rực vàng chưa mấy độ đã tàn. Ngoảnh mặt, đã già nửa tháng ba. Chớp mắt, đã qua một mùa hoa Giêng giếng. Đếm thời gian trôi trên từng mùa hoa, sao mỏng manh, chóng vánh đến vậy. Bất giác, từ trong vô thức, câu “Kiều” của thi hào Nguyễn Du sống dậy: “Ngày xuân con én đưa thoi”…

Không biết tự bao giờ mà tháng ba in dấu trong tôi bằng mùa hoa Giêng giếng. Một sớm nào không rõ, mùi hương đồng nội nguyên sơ hoang hoải ấy đã lướt qua khứu giác vô cùng nhạy bén của tôi, sắc vàng rười rượi ấy đã hồn nhiên trải ra trước tầm mắt tôi. Cả cái tên gọi Giêng giếng lạ lùng kia nữa cứ vang vang bên tai tôi. Nghe quê mùa mà duyên dáng, mà tình tứ, mà đong đưa đến lạ.

Giêng giếng!

Tôi chẳng thể tìm thấy mối liên hệ nào giữa cái tên ấy với màu sắc ấy, dáng vẻ ấy, hương thơm ấy. “Ra giêng Giêng giếng trổ vàng”… Hay bởi Giêng giếng nở rộ vào dịp tháng giêng ta nên dân gian gọi vậy để nhắc mùa? Bao lần Giêng giếng nở là bao lần tôi băn khoăn đi tìm lí lẽ, nguyên cớ cho một cái tên. Giêng giếng cũng tự nhiên thế mà neo vào tâm cảm tôi chăng? Để rồi một hôm bất chợt vỡ lẽ: Riêng gì Giêng giếng, những Hồng, Huệ, Nhài, Mai, Lan… cũng thế, nào có cơn cớ gì. Mà sao tôi chưa từng căn cơ? Như thể những cái tên ấy hiển nhiên vốn đã vậy.

Tháng ba, Giêng giếng nhuộm vàng một dải bờ sông Rào Cái. Nhiều nhất, rộ nhất là quãng đê ven sông từ chân cầu Thạch Đồng xuôi về biển. Mặt đê quãng ấy người ta đã đổ bê tông, nhưng mái đê vẫn nguyên nền đất mỡ màu hằng năm được phù sa bồi đắp nên Giêng giếng chen chúc với đám cây bụi mà sinh sôi. Xuân sang, những ngọn mềm mại khỏe khoắn len lỏi trườn qua tầng lá dày, vượt lên đám quần sinh kia rồi phủ tấm voan vàng rực rỡ điểm tô đôi bờ.

Giêng giếng rực rỡ thế, từng chùm khỏe khoắn là thế nhưng quá đỗi mong manh. Hoa chỉ sống trọn vòng đời trong khoảnh khắc như loài Phù dung – sớm nở tối tàn. Hương nồng nàn, nhất là lúc chiều muộn, như quấn như níu lấy chân người, một lần cuối dâng hết cho đời trước khi lặng thầm rã cánh tan vào đêm…

Bước chân tôi bao lần bị màu hoa ấy, hương hoa ấy quyến luyến, không đừng được mà chậm lại dừng lại mỗi khi ngang qua. Bàn tay bao lần không ngần ngại mà chọn lấy mấy cành vàng rực rỡ chấp chới như trăm ngàn cánh bướm xuân ấy về chưng. Và bao lần những chiếc gai sắc nhọn chi chít trên cành Giêng giếng cào xước bàn tay, găm vào đầu ngón tay đau nhói. Có những chiếc gai nằm lại, mưng mủ hay lâu ngày thành vết chai. Đám gai ấy sinh ra vốn dĩ để giúp loài thân gỗ mềm yếu ấy bấu víu vào thân cây nào đó mà vươn ngọn lên cao ngạo nghễ trổ hoa hay để bảo vệ những cánh hoa mong manh giữa miền hoang dã? Sinh vật nào mà chẳng mang trong mình bản năng tự vệ, có quyền tự vệ. Và bất kể sinh vật nào, một khi muốn sở hữu cái đẹp, đoạt lấy cái đẹp, đều ít nhiều phải trả giá. Tôi sực nhớ đến chàng lãng tử một đời kiếm tìm những “phận hoa bên lề”, kiếm tìm cái đẹp để tự tình, rồi mãn nguyện mà chấp nhận bị gai đâm. Phải Giêng giếng cũng là một “phận hoa bên lề”? Và tôi, hơn một lần vẫn “nên bị gai đâm” vậy.

Có những ngày công việc cuốn tôi đi. Vừa ngước mắt thấy một chân trời rực vàng Giêng giếng đấy thôi, mà cúi mặt lầm lụi qua mấy bữa, cả triền đê đã xác xơ, cơ man những chấm tàn dập dờn xuôi theo dòng nước. Tôi không khỏi giật mình ngác ngơ vì đã hững hờ đi qua một mùa hoa Giêng giếng. Tháng ba đã cạn. Mưa bụi cũng qua thì… Nghe lòng mình như một thoáng hoang mang…

Nay mai, thành phố không còn dừng lại ở chân cầu Thạch Đồng, tả ngạn dòng sông Rào Cái mà vươn dài, trải rộng qua bờ bên kia, xuôi mãi ra tận biển. Những con đường đang rộng mở. Những bờ kè ven sông ngày một nối dài.

Nay mai, một vùng đô thị mới sẽ trải dọc hai bên bờ sông. Những xôn xao thì thào của ngàn lá xanh sẽ được thay bằng những khối bê tông trơ lì câm nín.Giêng giếng có còn nơi trú ngụ để thắp sáng đôi bờ mỗi tháng ba về? Loài hoa hoang dại ấy sẽ về đâu? Sắc vàng mong manh ấy mai này dạt trôi về đâu?

Mùa cải về bên núi

Cuối chiều, những sợi nắng vắt ngang chân núi bắt đầu nhạt dần. Thi thoảng, một cơn gió se se lạnh lại rón rén len vào từng nếp nhà nhỏ, mang theo mùi hương hăng hắc, ngòn ngọt từ những bông cải nở vàng chân núi. Trong sương mù, từng vạt hoa vàng dập dềnh múa lượn, rung rinh đùa vui cùng cơn gió. Trông xa, sắc vàng ấy như chiếc khăn lụa mềm ai đó đánh rơi nơi cuối rừng. Lại thêm một mùa cải vàng hoa nữa trở về bên sườn núi quê tôi.

Khi những nương lúa ngả vàng cũng là lúc bắt đầu một mùa cải mới. Những vạt đất nơi cuối rừng, dưới chân núi, mới hôm qua còn lơ phơ cỏ dại vậy mà hôm nay đã được người dân dọn sạch. Chiều hanh hao gió, vài ba đụn khói đốt nương lửng lơ bay lên quyện vào mây trời tạo thành những rải mây ngoằn ngoèo màu xám bạc. Lớp cỏ cháy để lại lớp tro đen óng trên mặt đất, hứa hẹn một mùa cải tươi non, giúp cho người dân quê vượt qua những ngày đông tháng giá. Đầu đông, trời lâm thâm mưa, sương mù như chiếc khăn mỏng manh, hờ hững vắt nơi đầu non chính là lúc những hạt cải bé li ti như hạt cát nhỏ bắt đầu được gieo xuống những vạt đất ven rừng. Vài bahôm sau, những hạt cải bé tí xíu bắt đầu cựa mình, tách lớp vỏ nâu, nhú ra hai chiếc lá mầm hình trái tim non búng như hai bàn tay bé xíu xòe ra đón những giọt sương rơi. Chiều nào mẹ tôi cũng cầm gói hạt cải để dành trên gác bếp, đảo qua thăm nương cải một vòng. Chỗ nào cải mọc chưa đều, bà lại rắc thêm một nhúm hạt còn xót lại. Nửa tháng sau, trong hanh hao gió, từng vạt cải non mơn mởn xanh, nổi bật giữa những vạt sắn, vạt ngô lá đã úa vàng phơ phất đang chờ ngày thu hoạch. Màu xanh của những nương cải như làm vợi đi nét buồn bã, u ám của mùa đông.

Giữa đông, sương muối ngày càng dày. Màu xanh trên những nương cải chuyển dần sang màu vàng nhẹ, từ những ngồng cải mảnh mai bật lên một vài bông hoa đầu tiên. Vài hôm đầu những bông hoa vàng còn lác đác xen lẫn trong màu lá xanh. Trông xa như tấm áo hoa dịu dàng. Mươi hôm sau, màu xanh ấy dần chìm khuất nhường chỗ cho sắc vàng phủ tràn chân núi. Những ngày hoa nở rộ, người đi dưới núi choáng ngợp bởi sắc vàng hoa cải. Không phải vài bông, không phải vài đám mà cả một vùng chân núi trải dài sắc vàng rực rỡ. Người trôi trong hoa, bước chân như bồng bềnh trên dòng sông vàng rực. Nắng cũng nhuộm một màu vàng miên man. Các loài sâu bọ như mụ mị bên màu hoa vàng rực ấy. Từng đàn ong mật, chân vàng phấn hoa, ngày đêm rù rì thì thầm trò chuyện cùng bông cải bé xinh. Những cánh bướm đủ màu sắc chấp chới bay liệng, ríu rít bên những cánh hoa mỏng manh dịu dàng. Đôi ba chú chim nhỏ đánh đu trên nhành hoa cải, mắt ngó nghiêng như đang say sưa ngắm nghía những cánh hoa xinh xắn ấy. Mùi hương cải hăng hắc, ngòn ngọt cứ nhẩn nha theo đôi cánh mỏng manh những chú ong nhỏ mà lan xa mãi. Hương quyện vào gió, hương lẫn vào sương đêm tạo nên một mùi thơm ma mị, vương vấn theo bước chân mỗi người.

Ngày xưa, vào những ngày hoa cải nở rộ, đám trẻ chúng tôi thường xúm xít chơi đùa bên những vạt cải hoa vàng, có lẽ đó là mùa đẹp nhất trong năm. Đám con gái ngắt những bông hoa xinh xắn chơi đồ hàng, kẻ bán người mua trao nhau vài chiếc lá, vài bó hoa cải bé xíu vậy mà nụ cười đứa nào đứa nấy tươi như những bông hoa vàng đang rung rinh theo gió. Đám con trai mắt không rời những chú ong nâu chăm chỉ đang rù rì bên cánh hoa. Chiều về, vắt vẻo trên lưng trâu là những đứa trẻ với nụ cười roi rói, tay đứa nào cũng nắm chặt một vài nhành hoa cải.

Cũng có hôm trời nắng đẹp, tôi theo anh trai vác giá vẽ, máy ảnh lang thang nơi cuối rừng. Trong lúc tôi nâng niu những cánh hoa mềm, mỏng manh đang rung rinh trước gió hay ngẩn ngơ ngắm sắc hoa vàng rời rợi đang rực lên trong nắng thì anh say sưa bên giá vẽ. Từ bàn tay anh những cánh hoa vàng xinh xinh lung linh, huyền ảo cứ dần dần hiện ra. Bóng anh trai nghiêng nghiêng in vào nền trời bồng bềnh mây trắng làm cho sắc vàng hoa cải càng thêm rực rỡ. Cuộc sống vốn nhiều bộn bề, anh tôi thôi cầm cọ vẽ. Bàn tay mềm từng vẽ nên những bức tranh rực rỡ sắc vàng hoa cải giờ sần chai bởi những tháng ngày cầm vô lăng rong ruổi trăm miền gió bụi. Nhiều bức ảnh, bức vẽ những mùa hoa cải năm xưa giờ nằm im lìm trong chiếc hòm phủ bụi thời gian. Thỉnh thoảng, tôi lại thấy anh lần giở những bức tranh sực rỡ sắc màu, mắt nhìn xa xăm như đang lần giở ký ức của riêng mình, ký ức về một thời hoa niên tươi đẹp, thơ mộng với bao hoài bão và ước mơ rực rỡ như sắc vàng hoa cải.

Những ngày cuối đông, ngọn gió bấc hun hút lùa ra từ các hõm núi, phả ra làn hơi nước trắng nhờ nhờ, quét bàn tay tê tái, giá lạnh lên những bông cải nhỏ nhoi cuối cùng. Hoa cải tàn dần. Những cánh hoa tạm biệt thân cây guôc gầy, rơi xuống lẫn vào đất nâu. Những cánh hoa rơi xuống ngày một nhiều, rải một lớp vàng nhạt trên mặt đất. Vài chú ong ngơ ngác bên những nhành hoa chỉ còn lác đác vài bông hoa lẻ loi. Từ nơi góc cành khẳng khiu từng chùm quả bé xíu như chiếc kim khâu màu nâu thẫm chĩa ra. Nắng, gió hanh hao từng ngày, từng ngày hong khô dần những chùm quả nhỏ bé ấy. Mẹ lên nương, chặt những chùm quả mẩy đều, bó thành từng bó, treo lên gác bếp. Bếp ấm mùa đông, ngày đêm lửa hồng reo tí tách ôm vào lòng những hạt cải li ti, giữ lại cho mùa sau những vạt rau non tơ.

Tuổi thơ cứ trôi qua êm đềm theo những mùa hoa nở vàng chân núi. Chúng tôi lớn lên mang theo trong hành trang của mình hình bóng mẹ hiền và những mùa hoa quê hương, theo bước chân đi khắp những nẻo đường đất nước. Người lên vùng cao làm cô giáo bản, kẻ xuôi về phố thị bận rộn với cuộc sống mưu sinh, người khoác áo lính, ba lô trên vai dong ruổi nơi miền biên viễn. Có lúc lòng bỗng thấy nao nao khi bất chợt bắt gặp bên đường một dải hoa cải vàng phất phơ trong gió. Nhìn màu hoa rực lên trong nắng chiều, lòng lại không nguôi thương nhớ về những năm tháng êm đềm xa xưa. Để khi đông đến, bước chân mỗi người lại líu ríu tìm về mùa hoa cải vàng trải dài dưới chân núi quê hương.

Kèn hồng hóa Sài Gòn thành nàng thơ

Cái nắng tháng ba giữa mùa khô phương Nam cứ như lửa táp nóng rát từng phiến lá non vừa chớm xanh phố Sài Gòn, có cảm giác mọi vật đang trân mình để ráng cho qua mùa bỏng cháy.
Những ngày nắng hanh hao khô khát không giọt mưa cho lá me rắc ngọc xuống lòng phố đậu hờ trên tóc ai. Cũng không ngọn gió nào cho trái chò nâu khiêu vũ trong khoảng không rồi nhẹ nhàng dừng lại bên vỉa hè để một tà áo dài trắng bỗng giật mình lùi lại.

Và ngay cả những bông điệp giống như cả khối vàng ép lại thờ ơ chẳng buồn động đậy cho khoảng không gian phố càng như rộng thêm trong nắng chói chang… Nhưng như một phép màu kỳ lạ. Khi mùa tới đỉnh, tháng tư về, khi bầu trời từ sáng sớm đã xanh ngắt trong veo thủy tinh, là lúc nhiều con phố Sài Gòn bỗng ửng màu hồng tím ngọt của loài hoa được mệnh danh “anh đào phương Nam”, nhưng người Sài Gòn, nhìn theo dáng hoa hình cái kèn tí hon nên đặt tên rất giản dị “kèn hồng”, hoa thong dong nở từng nhịp dịu dàng, để thoáng chốc Sài Gòn hóa Nàng Thơ cho bao kẻ rối lòng ngẩn ngơ, bâng khuâng.

Nghe đâu, cây được mang từ châu Mỹ du nhập khoảng năm 2009, được gọi là hồng chuông, hồng phấn, hồng loa kèn…, khi cây mới mọc, nhìn còi cọc, xấu xí, nhiều người đã nghi ngờ loài cây hoa ngoại nhập này chắc không hợp phong thổ đất Sài Gòn, và chẳng thể mang lại vẻ đẹp nào trang điểm cho “Hòn ngọc Viễn Đông”.

Nhưng rồi, một ngày kia, cây đã làm bao trái tim của cư dân thành phố tan chảy bởi màu hồng tím nhạt tựa sắc hoa anh đào, những chùm bông hình cái chuông nhỏ, nhìn giống cái loa kèn tí hon, từ từ bung nở, kéo thành những vệt hồng tím ngọt ngào phố suốt từ tháng ba vắt sang tới tháng sáu. Khi những cơn mưa rào sầm sập ập xuống, hoa mới hết mùa, để xao xuyến luyến nhớ cho bao tâm hồn thơ mộng, nén lòng tương tư đợi mùa sau.

Không biết có phải “kèn hồng” cũng muốn phô diễn hết vẻ đẹp lộng lẫy quý phái trong sắc màu hồng tím ngọt lịm sang trọng, mà khi hoa bắt đầu nở thì lá cũng dần rụng, và khi trên đầu mỗi cành gần như trơ trụi lá, chỉ còn nhìn thấy những cụm hoa hình loa kèn xinh xinh.

Nắng càng to, trời càng trong, hoa càng đậm màu, như vẽ vào sắc trời xanh nắng vàng những bức tranh “kèn hồng” quyến rũ, kiêu kỳ, và khi gió nhẹ nhàng lướt êm qua, cả chùm hoa bồng bềnh rung khe khẽ, cảm giác như môi chạm môi gợi cảm, dễ thương, như đang có những áng thơ tình lãng mạn dần tạo hình trong ngôn từ nhân gian.

Mà hoa cũng kỳ lạ, hoa nở nhanh, cứ y như nở theo từng cơn gió lướt, và khi đang ở đỉnh của rực rỡ chưa kịp héo tàn, cũng theo từng cơn gió ngang qua mà rụng xuống, tạo thành một thảm hồng mềm mại dưới gốc cây, một vẻ đẹp của tàn hoa mong manh, lộng lẫy, mê hoặc đến tê dại con tim những người nhạy cảm với vẻ đẹp của hoa…

Lần đầu được ngắm màu hồng tím của “kèn hồng” anh đã xuýt xoa. Làm sao pha được sắc dịu ngọt nhẹ như áng mây hồng trong bình minh chen vào sắc tím nhạt mỏng như màn sương hoàng hôn? Làm sao họa được cái run rẩy mơ hồ như hơi thở của cánh hoa như một cây kèn tí hon đang thổi khúc nhạc của gió mơn man? Làm sao vẽ cho ra bức tranh “kèn hồng” để có thể cảm nhận giai điệu hư ảo mộng mị của bản hòa tấu từ hàng vạn cái kèn hồng lơ lửng trên khoảng không trong veo kia…

Em đã đưa anh qua những con đường “kèn hồng”, từ đường Võ Thị Sáu đến đường Điện Biên Phủ, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, rồi hướng về trung tâm Sài Gòn, đi hết đường Hàm Nghi, băng ngang, vào đường Võ Văn Kiệt, hay hướng ra phía ngoại thành qua ngã tư Hàng Xanh tiến thẳng mạn Thủ Đức… Miên man, ngợp sắc “kèn hồng” như mộng, để anh cảm, để anh thấm, để anh khám phá, để anh lắng đọng, rồi chắt lọc những tinh tế, rồi thả tình vào cây cọ, vừa vẽ vừa trò chuyện với những cánh hoa trong tranh, như hoa là một mỹ nhân bí ẩn quyến rũ…

Sài Gòn, những ngày tháng ba, tháng tư, kéo dài sang tháng năm, tháng sáu, nắng gắt như hắt lửa, thi thoảng vài cơn mưa đầu mùa như dọn đường cho hạ trườn đến ẩm ương, đầy bực dọc và khó chịu, không khí đường phố hầm hập như trong một cái hồ lô nút kín, oi ả, nóng nảy, tức tối… Như để làm dịu đi những cơn cớ không nguồn không ngọn, sắc hồng tím của “kèn hồng” như một hò hẹn bí ẩn của mùa, biến Sài Gòn bỗng chốc thành Nàng Thơ.

Em áo hồng đưa anh qua những cung đường phố Sài Gòn ngợp sắc hồng tím hoa “kèn hồng”, để có thoáng chốc, trong anh dâng niềm xúc cảm, em có phải là một bông “kèn hồng” đang biền hình, để cộng vào tương tư Sài Gòn của anh, không chỉ bằng lăng tím, hoa muồng vàng, lá me xanh, hoa dầu như nốt nhạc xinh, mà còn là mùa “kèn hồng” dịu ngọt như một Nàng Thơ , để thương, rồi nhớ

Những mùa hoa xuyến chi

Những buổi chiều mùa xuân, tôi hay tha thẩn ngoài cánh đồng làng. Gió mùa xuân mơn man, nắng mùa xuân dịu dàng, đồng làng yên ả xoa dịu bao nỗi lo toan. Tôi ngồi lặng im bên cánh đồng nghe miên man lúa hát. Những đám lúa đang thì con gái cứ mơn mởn xanh trải dài ngút ngát trước tầm mắt tôi. Hai bên đường làng, dọc theo các triền lúa là những vạt hoa xuyến chi rập rờn trong gió. Những cánh hoa trắng mỏng manh như những cánh bướm nhỏ xinh gieo vào lòng tôi bao thương nhớ.

Tôi cũng không hiểu vì sao mình lại đem lòng yêu loài hoa bé nhỏ, mỏng manh ấy đến vậy. Không kiêu sa như hoa hồng, không quý phái như hoa lan lại càng không ngát hương hằng đêm như hoa quỳnh, hoa bưởi nhưng mỗi lần bắt gặp một triền xuyến chi là lòng tôi lại xao xuyến không nguôi. Loài hoa không sắc không hương nhưng lại có sức sống vô cùng mãnh liệt. Dù ở bất cứ nơi đâu dọc đường làng, triền sông, bờ đê, ruộng lúa hay chỉ cần một vết nứt nhỏ trên đá thì xuyến chi vẫn vươn lên, cành lá tươi xanh vẫy gọi ánh mặt trời. Dù khô cằn sỏi đá hay đất cát bỏng da loài hoa ấy vẫn bung biêng trắng qua nắng, qua mưa, qua bão, qua dông.

Lam Khuê

Nhiều năm sau ngày ngoại mất, mỗi khi trở về, tôi lại bần thần ngồi bên chái bếp xưa. Tôi nghe trong nỗi nhớ vọng về tiếng cơm sôi, tiếng củi cháy, tiếng ngoại mắng yêu “cha cô, chỉ giỏi ăn chực”. Ngoại giờ đã hóa thành ngọn khói trắng mang theo muộn phiền phiêu diêu tận cuối trời xa. Và tôi, dù bây giờ được đi nhiều nơi, ăn nhiều món ngon nhưng mãi mãi không có món nào ngon như các món ngoại đã từng nấu tôi ăn, mãi mãi không nơi nào ấm áp bằng chái bếp cũ kỹ, đơn sơ của ngoại suốt một thời thơ dại.

Có lẽ xuyến chi biết phận mình là loài cỏ dại không được chăm bẵm, vun trồng nên cây cứ kiệt cùng mà xanh, vắt cạn sức mình mà vươn lên, trổ ngàn bông trắng. Bầu trời xanh thênh thang, gió mênh mang, ánh nắng cuối ngày dịu ngọt, cả cánh đồng hoa xuyến chi rập rờn trong gió. Tôi cứ mải say sưa, đắm chìm trong khoảnh khắc đó, cứ sợ một tiếng động khẽ của mình sẽ làm phá vỡ khoảng trời yên bình ấy.

Tôi ngắm nhìn những bông hoa xuyến chi điểm xuyết nhụy vàng chợt nhớ những ngày tuổi thơ xa lắc, tôi cùng lũ bạn chăn bò trên cánh đồng làng rợp trắng hoa. Tụi con gái chúng tôi hái những cành xuyến chi kết thành vòng hoa đội đầu làm cô dâu. Những buổi chiều lộng gió, đồng làng sau mùa gặt, đàn bò nhẩn nha gặm cỏ còn lũ trẻ chúng tôi sẽ thả lên nền trời xanh thẳm những cánh diều đủ màu sắc. Chúng tôi cứ mải mê đuổi theo những cánh diều mà không hề để ý những hạt xuyến chi bám đầy gấu quần. Cánh diều tuổi thơ bay lên, tiếng cười hồn nhiên của chúng tôi bay lên và ước mơ của những đứa trẻ nghèo chúng tôi bay lên…

Lớn lên tí nữa, tôi thẹn thùng nhận bó hoa trắng tinh khôi từ tay chàng trai nhà bên cạnh với lời hứa khi nào học xong sẽ trở về. Nhưng ngày đó tôi nào đâu biết, xuyến chi chỉ rực rỡ khi được sống giữa hương đồng gió nội, uống cạn sương đêm, tắm đẫm giọt sương mai, nếu ngắt xuyến chi để cắm thì hoa sẽ héo tàn ngay. Chàng trai trẻ từ quê lên phố làm sao cưỡng lại được vẻ đẹp kiêu sa của những hoa hồng, hoa lan, tulip. Và mối tình thời thơ trẻ cũng như xuyến chi lụi tàn mau, từng cánh hoa rụng tả tơi chỉ còn lại những quả cầu gai găm vào trái tim non nớt những nỗi buồn âm ỉ.

Những ngày lòng chơi vơi năm mười tám, đôi mươi tôi hay ngồi lặng im giữa triền hoa trắng. Tôi thương mình như cô gái trong câu chuyện sự tích hoa xuyến chi vẫn luôn thủy chung, chờ đợi người lữ khách quay về. Và sau này khi trưởng thành hơn tôi mới nhận ra mình cũng như loài hoa dại ấy, dẫu hôm trước giấu nỗi buồn ủ rũ vào đêm thì sáng hôm sau cũng sẽ khoe những cánh hoa trắng rạng rỡ dưới ánh mặt trời. Xuyến chi cũng như các nàng thôn nữ, tự biết mình chỉ là loài hoa dại, không mỹ miều cũng chẳng ngát hương đưa nên đã chọn cho mình một sắc trắng rất riêng để ai lỡ một lần chạm phải là mãi xao xuyến, nhớ nhung.

Tôi mỉm cười ngắt một bông hoa xuyến chi cài lên tóc và nhớ đến hai câu thơ mình từng tặng cho loài hoa yêu quý: “Xuyến chi ơi hỡi xuyến chi/ Mỏng manh cánh nhỏ, người đi sao đành”
Mùa xuân vẫn đang độ chín, gió vẫn hát rì rào trên cánh đồng xa, xuyến chi vẫn ngời lên màu nắng và trong tôi vẫn mãi xao xuyến một màu hoa…