20 C
Hanoi
Thứ Năm, Tháng 10 23, 2025

Lững thững… và yêu

C ó những buổi chiều, tôi ngước nhìn...

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...
Trang chủ Blog Trang 16

Chiều thơm

moc-nhien-1

Tác giả Mộc Nhiên

N gày cạn dần, mặt trời bình thản mọng tròn lẫn vàng ươm như quả thị đang mở khẽ, đâu đây cô Tấm hoá thân cổ tích vào ráng chiều. Mùi hương cứ miên man bất tận khiến ai nhẩn nha bên chiều cũng phiêu diêu căng tràn lồng ngực mà chảy tan vào đường tơ kẽ tóc nét giản dị bình yên. Chiều mênh mông là thế, cũng ngắn ngủi là thế, bảo sao người ta phải thảng thốt rằng: “Có những buổi chiều chẳng biết cất vào đâu!”. Kì thực người ta đã cất chặt vào tim, cất sâu vào ngăn nỗi nhớ. Khi làng quê rộng mở đon đả hứng ánh chiều chính là lúc thương yêu vẹn tròn quá đỗi.

Trông từ phía xa, cánh đồng giống như một dòng sông mềm mại lấp lánh ánh vàng, bao cơn sóng dập dềnh cơ man vỗ vào bờ chiều những guồng thơm ngọt ngào của những vạt lúa chín. Những sợi rơm tươi đã lần lượt thảnh thơi cùng nắng gió, trên khoảng đất, trên vạt cỏ mà phơi phóng những thanh tú mát mềm. Những hạt thóc, những cọng rơm hiền, từ trong lam lũ nhọc nhằn, từ bùn lầy sũng sượt mà vươn ra rồi nở thành hoa trên tay người tảo tần cấy hái, đậu thành quả bên những nụ cười còn bé bỏng vụng dại.

Những giọt mồ hôi dẹt tròn nhễ nhại cứ mặn mòi lấm tấm hằn lên lưng áo mẹ áo cha, thứ mùi quen thuộc mà mọi đứa con nơi quê nhà đều chẳng giây phút nào muốn rời xa, thứ mùi khiến gió cảm động mà thương, chiều thầm lên hương vỗ về man mát. Biết bao lần sợi dây phơi trong sân nhà ai, vẫn chờ người sớm mai giặt giũ. Chiếc quần chẳng đắn đo rằng mình thật cũ, chiếc áo chẳng lấn cấn bởi mình đã sờn, vắt dọc lại vắt ngang dưới trời mênh mang thơm như mùi vở sang trang giữa bốn bề thong dong nắng gió.

Những vòm cây bịn rịn đâu đó, cũng thấm đẫm cảm xúc khi chiều, khi vũ điệu lá cành xào xạc rung rinh lúc lại trầm ngâm phăng phắc cả bóng lẫn hình như thể chuyện trò với đất. Mùi ngái nồng ủ ươm từ chân thật, mùi mộc mạc gói ghém bởi trầm nâu, tới nhiêu năm vẫn thương cây bằng thứ tình thiêng liêng như ruột già máu mủ. Cây trả ơn đất, cây trả ơn trời, cây trả ơn người bằng bóng mát muôn nơi, bằng quả chín đầy vơi rụng vào chiều những làn thơm nưng nức. Kia buồng chuối vườn ai, kìa chùm ổi vườn ai…xanh vàng mà ương chín lai rai khiến cạn ngày mà đàn chim vẫn mê say huyên náo. Chúng ăn tại chỗ, rồi gói ghém mang theo suốt dọc đường, lại nhả hạt đây đó bốn phương. Vườn chủ năm xưa có khi nào biết về những hạt mầm yêu thương đã nhú lên thành muôn cây xanh tử tế.

Chiều quẩy gánh gì mà say sưa khệ nệ, ước chừng là một thứ rất thuộc quen. Xóm làng chuẩn bị lên đèn, gian bếp lại ấm hồng củi lửa. Những đụn khói sặc sụa te tái cay nồng, cứ chậm rãi bung vào mênh mông mãi là một mùi hương bắt nguồn từ sự an yên đầm ấm. Làn khói tưởng chừng mỏng manh mà sâu thẳm, neo đậu bền chặt với hồn quê, sum suê mà gắn trọn hồn người. Chiều dịu thơm mùi khói. Cơm bùng sôi rồi cơm chín bùi hơi, những chiếc bụng đói khúc khích mải chơi lại tung tăng chân sáo ùa về. Những kẻ xa quê thèm một chén nước cơm sền sệt vừa chắt, thèm những tiếng nói cười bằn bặt đã lâu chưa giòn giã tung tẩy đôi lần. Giếng chiều đã nhá nhem tới mấy phần nhưng gầu nước được kéo lên từ mạch nguồn vẫn trong ngân mát lịm. Bao người đã bật khóc khi trông thấy những buổi chiều buông xuống, có chăng nơi xứ lạ cô liêu, nhớ nhà nhớ quê mà rưng rưng thật nhiều.

Từng đàn chim cũng nhìn chiều mà vồi vội, sải cánh bay về tổ sau một ngày dài vất vả kiếm ăn, lũ côn trùng tìm gọi nhau những hồi rỉ rả. Còn người đi đâu, có kịp trở về khi chạng vạng chiều buông tầm tã. Cánh chiều vẫn mở những khoảng khắc êm đềm, cho lòng người được vỗ về thêm, bao âu lo nhẹ bớt, những thiếu thốn được đắp đầy khi tình thân gắn kết sum vầy đầm ấm. Sự an nhiên đến từ trong sâu thẳm, lòng người lắng lại những xô bồ sân si. Cỏ cây hoa lá vẫn thơm hương đến lạ kì sau những ngày mưa tuôn nắng đổ thì lòng người hãy cố như kẹo ngọt mà tan ra, đừng như viên đá bão hoà trong nhạt nhẽo.

Đời chiều là lúc nắng gió cần mẫn được thảnh thơi. Đời người nếu dâu bể ngược xuôi, hãy thả mình vào chiều quê mà tìm chút nhẹ nhàng thư thái. Qua đêm nhẫn nại, một ngày mới lại tinh tươm bắt đầu. Ai còn hỏi chiều thơm là đâu. Chiều thơm bởi những mùi hương dậy lên từ những giá trị của muôn loài đang sống. Tôi vẫn lắng nghe và ngắm nhìn chiều xuống, ngắm nhìn cuộc đời, từng thứ đã qua, từng thứ diễn ra lưu dấu mùi hương một cách thật thà. Và chiều lại lên hương bất tận…

Khung cửa mùa hè

L àn gió thơm lành lướt qua khung cửa gỗ cũ kỹ được phết lên màu sơn trầm đục của tháng năm. Chẳng biết có phải vì vui mừng khi được chạm vào làn gió giữa mùa hè khô rát mà cánh cửa rung lên đầy phấn khích, phát ra tiếng kiêu cót két đung đưa. Gió chậm rãi lướt qua song gỗ, mang theo mùi hương sử quân tử nhàn nhạt nơi đầu ngõ.

Vạt nắng chênh chếch nghiêng qua kẽ lá, nhảy nhót trên bệ cửa có đặt mấy chậu sen đá mang sắc xanh mọng nước. Chiếc chậu be bé được làm từ ống tre la ngà có màu vàng đã ủ buồn qua mưa nắng. Cánh sen đá tròn tròn mũm mĩm nằm giữa những viên đá trắng ngần được rải xung quanh, gợi lên một sức sống bền bỉ diệu kỳ. Trong ánh sáng nhè nhẹ của ban mai, có thể thấy rõ những hạt bụi li ti vờn quanh trong nắng. Có hạt bụi nào khe khẽ rơi trên song cửa, để lại những vết dài bàng bạc theo thời gian.

Những ngày hè oi ả, khung cửa sổ là nơi đón những ngọn gió mát lành từ vườn thổi vào. Ngọn gió mang theo mùi hương dịu dàng của cây lá ngời xanh trong nắng cháy. Cuối góc vườn, cây nguyệt quế xanh um bốn mùa điều nở hoa trắng xóa. Hương nguyệt quế dịu dàng khiến cho những đêm mùa hè nơi vườn quê bỗng mượt mà như tơ lụa khi ánh trăng óng ả cứ trượt dài trên phiến lá ngoài vườn. Ngồi bên khung cửa vào một đêm trăng, thảnh thơi nhìn bóng trăng chơi vơi bên trời cứ đi dần về phía núi. Khi bóng trăng ngang qua khung cửa sổ sẽ lả lướt lách qua song cửa vào nhà. Giữa một đêm hè đầy gió lộng và ánh trăng rực rỡ, vườn quê ngoài khung cửa bỗng đẹp mơ màng. Kê đầu lên bệ cửa, lắng nghe bản nhạc réo rắc từ vườn vọng lại, chỉ là tiếng giun dế giữa đêm khuya mà sao nghe thiết tha quá đổi. Trong nhà là đêm tối tĩnh lặng mà ngoài vườn lại rộn rã tiếng hát ca dưới ánh trăng dịu nhẹ. Đêm bỗng rút bớt sự âm u tăm tối mà nhường lại vẻ yêu kiều.

Bên khung cửa sổ những trưa không ngủ, tôi nhớ dáng mẹ ngồi lặng im ở đó khâu lại chiếc áo đã sứt chỉ của đàn con. Hay những lúc tỉ mẫn đơm lại chiếc cúc áo đã rớt đâu đó giữa những ngày hè mãi chạy chơi ngoài đồng bãi. Gió trưa nhè nhẹ len qua khung cửa sổ nơi góc nhà, mơn man trên mái tóc đã đượm màu sương gió.

Dưới khung cửa sổ cha có đặt chiếc bàn bằng gỗ. Chiếc bàn là cánh cửa sổ đã cũ được cha tận dụng cột vào song cửa nép sát mép tường. Chỉ đơn giản vậy mà thành nơi tôi thích ngồi đọc sách vào những buổi chiều hiu hiu gió. Khi người lớn đã ra đồng và nhà chìm trong yên ắng, chỉ có tiếng sột soạt của trang giấy cũ bên khung cửa mở rộng đón gió.

Những trang sách cũ kỹ mà hiếm hoi thủa ấu thơ đã mở ra biết bao chân trời mơ mộng, mà khung cửa nhìn ra vườn lại mở ra một khoảng trời xanh biếc đầy tiếng chim. Nơi đó, tôi đã nắn nót viết những bức thư tay đầu tiên trong đời gửi cho người chị gái rời nhà đi vào Nam làm việc. Sách vở dang dở tuổi học trò vì những neo khó, và bao cánh thư cùng câu chữ bở ngỡ trẻ thơ đã rút lại khoảng cách nhớ thương.

Tôi cũng nhớ mẹ hay ngồi nơi khung cửa ấy, chậm rãi bên tách trà thơm ngát hương hoa. Mẹ chẳng bận bịu điều gì, chỉ đơn giản là ngồi ngắm nắng ban mai đang xôn xao xà xuống vườn nhà. Những giây phút thảnh thơi hiếm hoi ấy, tôi đã thấy mẹ tận hưởng thật nhiều khi ngắm nghía khu vườn xanh mát ngoài kia. Có chú bướm chập chờn trong vườn giữa tiếng chim ca ríu rít. Gió ngoài vườn khe khẽ ngân lên làn điệu du dương mà êm ả. Dường như, chỉ cần ngồi bên khung cửa, để lòng mình thảnh thơi chìm trong mảng xanh ngát của đất trời cây lá ngoài kia, mùa hè bỗng trở nên êm đềm quá đỗi, và những bận rộn trong đời dường như cũng bị bỏ lại đâu đó rất xa.

Một hôm nào đó trở về nhà, ngồi giữa vườn cây xanh mát ở chốn quê và lặng im ngắm nghía ban mai vừa tỉnh thức. Lắng nghe cây lá xì xào dưới nắng trưa đầy gió hay khoảnh khắc bóng trăng mang hương hoa dịu ngọt luồn qua khung cửa, chỉ đơn giản vậy thôi mà thấy ngày tháng trôi đi thật nhẹ nhõm vô ngần.

Thương con chiền chiện

C ả một đồi cây sau làng là thế giới của các loài chim, nhiều lắm, chúng bay thành từng nhóm, từng bầy, có khi từng đôi, cũng có khi riêng lẻ… Khi ồn ào náo nhiệt, lúc lảnh lót ríu ran… Đó là khung cảnh của những ngày tháng xa xưa, còn bây giờ làng cứ rộng dần ra, nhà cửa xây dựng cao dần lên, và đồi cây khép kín thành nhà cửa làng mạc cả rồi.

Các loài chim thì vẫn còn, nhưng không nhiều. Buổi sáng tôi thường đứng trước sân, dưới vòm các cây: Sấu, roi, bưởi, mít đan dày màu xanh biếc mà nghe tiếng chim ríu ran. Chủ yếu là bầy chim sẻ, chim sâu, đôi khi có mấy chú chim dẻ quạt với chiếc đuôi xoè rộng duyên dáng… Một ngày của loài chim chắc cũng giống như của con người, khi trời rạng sáng, chúng như vừa thức giấc, ùa ra lao xao, tựa như chúng gọi nhau hội họp, dăm ba câu chuyện dặn dò động viên gì đó, rồi tản mát mỗi con một hướng, bắt đầu một ngày bắt sâu, nhặt hạt kiếm mồi… Cũng có lúc gần trưa, chúng tụ lại chuyện trò một chút như thế….

Có thể mỗi loài đều có địa bàn của riêng mình, với những món ăn riêng của mình, tôi không biết rõ lắm. Nhưng tôi biết nhiều loài ăn quả chín, như quả cây đa, quả ổi, quả khế, xoài và thị, chuối và na, vân vân… Còn như chim chiền chiện thì hay trở về vào mùa lúa chín. Khi cánh đồng lúa chuyển sang một màu vàng no ấm, đàn chiền chiền chao liệng trên sóng lúa rập rờn, chúng bắt muỗm, châu chấu hay cào cào… chẳng rõ. Còn mùa xuân, mùa thu, khi lúa đang thì con gái xanh non mượt mà thì cò vạc bay về tạo nên bức tranh quê thanh bình, êm ả…

Trong những câu chuyện kể của bà, của mẹ trong những trưa hè oi ả, hay những đêm đông giá lạnh, con cò, con vạc, con chim sâu, chim sẻ… thấp thoáng mà gần gũi. Ngày mùa đi gặt, mẹ bảo bớt lại mấy khóm thưa thớt ven bờ, mấy khóm lúa đổ lúa gẫy… dành cho người đi mót và cho đàn chim chóc còn nhặt nhạnh, kiếm tìm. Mùa hồng, mùa ổi cũng không nên tận thu để còn dụ chim chóc trở về, chúng ăn trái rồi chúng con bắt sâu, bắt muội… giúp cây cối xanh tươi.

Thành phố trẻ nơi tôi cư trú quy hoạch nhiều công viên to đẹp. Mỗi buổi sáng sớm, hay chiều hôm đi bộ trong công viên tôi thường ngước mắt lên những vòm lá xanh mát mà ngóng theo cánh chim bay lượn. Theo năm tháng, tán cây mỗi ngày mỗi dày lên, thì chim chóc cũng nhiều hơn, nhưng chủ yếu là chim sẻ, chim sâu nhỏ xíu xíu, chúng bay vù vù giữa các cành lá, chuyền từ cành này sang cành kia, xao động cả một vòm trời. Đi dưới tán cây tôi lại nhớ về chuyện những chú chim khổng tước thích ăn hồng, con chào mào ăn quả đa, quả ổi, cả chuyện con chim Thần bay về ăn khế trả vàng… và cả câu chuyện trồng cây ăn quả ở những khu du lịch sinh thái.

Trồng loài cây gì là cả một bài toán khoa học gọi chim về. Ví như mận, đào, xoài, nhãn, ổi, mít, hồng xiêm, hồng đỏ… càng phong phú thì càng nhiều loài chim quần tụ trở về. Tôi lan man ngắm và điểm tên những cái cây trong các công viên thì thấy phần lớn là cây lấy bóng mát, lấy hoa làm đẹp như hoàng lan, ngọc lan, phượng vỹ, bằng lăng, muồng, ban, osaka … thoảng hoặc có vài cây xoài. Mùa quả chín từng chùm quả đu đưa trong gió, thỉnh thoảng rụng xuống vài quả chín mà chim đã ăn quá nửa. Cũng có mùa tôi thấy mấy người vác chiếc sào dài đi hái quả, hái hết cho riêng mình…

Đi dưới vòm xanh mỗi ngày, tôi cứ ước ao người ta quy hoạch nơi công viên này thêm nhiều cây ăn quả, những loại cây thuần chủng giống cũ như ổi găng, ổi mỡ, những cây thị, cây nhãn mà càng cổ thụ, càng chót vót cao xanh, quả nhỏ mà thơm nưng nức mời gọi muôn loài chim về làm tổ.
Năm nay nhuận hai tháng Hai mà chẳng có mấy mưa xuân. Đang giữa xuân mà nắng chang chang kéo dài như đầu hè. Giữa vòm cây yên ả phơi dưới nắng, một tiếng chim vít vịt ngang qua trời, loang xa khắc khoải… Phải chăng là biến đổi khí hậu? Làng quê cũng đang dần dần ít cây xanh, công viên nơi đô thị quy hoạch đẹp mà ít cây ăn quả. Chợt nghe phong thanh trong thẳm sâu nỗi nhớ hương vị của mấy quả xoài còi, quả ổi, quả thị… Bé xiu xiu mà dậy hương nưng nức.

Cha tôi một thời hoa lửa

dinh-tien-hai

Đinh Tiến Hải

T háng tư, thời tiết không còn đỏng đảnh, nồm ẩm như mấy bữa trước nữa, từng sợi nắng mỏng manh như tơ nhện đã vương hồng lên mái bếp. Mẹ bảo, đấy là nắng non buổi sớm sau những ngày mưa xuân, mưa bụi. Nắng non khiến con người ta rạo rực, thân thiện hơn bằng các mối tương giao, hòa quyện giữa vạn vật đất trời. Ngoài vườn những bông hoa bìm bìm rung rinh theo làn gió nhẹ, cạnh bờ giậu lích chích tiếng chim sâu bên những vạt sương còn vương trên lá cỏ, từng giọt lung linh rơi trên nắng mới tinh khôi, bình yên đến kỳ lạ.

Mẹ cắt một đóa hoa loa kèn trắng muôn muốt đem vào cắm trên chiếc bình gốm Chu Đậu rồi sai đứa cháu ra trước giại hiên nhà hái giúp bà mấy lá trầu. Mẹ ngồi têm trầu bên cánh phản bằng gỗ mun, mùi thơm của trầu lẫn vào mùi vỏ của cây chay làm căn nhà ấm sực lên. Trầm ngâm một lúc rồi mẹ nói: Thời gian trôi nhanh quá, loáng cái đã hết đời người. Bằng này, cách đây bốn mươi tám năm là tôi vừa sinh ra anh đấy, anh vừa tròn một tháng tuổi thì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sự kiện tháng 4 năm 1975 là một ngày vui không bao giờ quên được. Mấy hôm nữa thể nào xã cũng gửi giấy mời cha anh đến dự lễ kỉ niệm bốn tám năm ngày giải phóng miền nam.

Cha ngồi sưởi nắng trước hàng cau, bóng cha đổ dài trên sân gạch, mái tóc cha đã bạc trắng theo năm tháng, đôi bàn tay đầy vết đồi mồi loang từng đốm nhỏ. Cha lặng lẽ rót trà hoa cúc từ chiếc ấm đất ra hai chiếc chén con như một nghi thức. Đã nhiều lần tôi pha trà nhưng cha không ưng ý, bởi tôi thường tham lam cho nhiều hoa nên nước có vị đắng và màu xỉn. Khi pha, cha chỉ cho vào đôi ba bông cúc đơn nhỏ, loài cúc ta, cúc trồng làm cảnh trong vườn và trong các chậu cây bên bờ giếng. Hoa cúc sau khi hái, phơi được nắng có hương thơm và vị rất dễ chịu. Cha bảo, dạo này tôi hay mất ngủ, uống trà hoa cúc của mẹ anh làm tôi thấy ngủ ngon hơn. Dạo cuối năm vừa rồi, Hội cựu chiến binh của tỉnh mời đi thăm lại chiến trường xưa, sau khi thăm viếng, thắp hương cho đồng đội mỗi người cũng được tặng một phần quà và một hộp trà hoa cúc. Nói rồi cha nhấp chén trà và ngồi hồi ức lại những năm tháng hào hùng đã đi qua.

Năm 1969, cha tôi là bộ đội thông tin. Cuộc chiến chống Mỹ cứu nước lúc bấy giờ vô cùng khốc liệt. Trên lưng mỗi người lính ngoài khí tài là các phương tiện kỹ thuật nhằm bảo đảm kịp thời thông tin liên lạc, điện đàm với bộ đội công binh, pháo binh và pháo phòng không. Nhiều lần nghe cha kể về những năm tháng vượt núi cao, rừng rậm, suối sâu để chuyển và nhận những bức điện tín từ sở chỉ huy, đặt mạng lưới thông tin liên lạc sao cho vừa đảm bảo bí mật, vừa thông suốt vô cùng khó khăn, gian khổ. Cha nói, chỉ có những người lính vào sinh ra tử mới hiểu thấu cái giá của hòa bình và chỉ những người lính trong cuộc chiến mới mong mỏi hòa bình hơn bất cứ ai, bởi họ là những người trực tiếp cầm súng chiến đấu. Khoảnh khắc ngày 30 tháng 4 năm 1975 là thời điểm cả dân tộc được “Núi sông liền một dải, Nam Bắc hợp một nhà”, hàng vạn ngôi nhà thao thức sáng đèn, hàng triệu người dân vui mừng không ngủ được, bởi ai cũng biết rằng cha con, vợ chồng từ nay sẽ mãi mãi được đoàn tụ bên nhau.

Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước đã đi qua, đất nước đã im tiếng súng. Cha tôi trở về thăm nhà cũng vào một buổi chiều tháng tư năm 1976. Mẹ kể, lần nhận được thư cha viết từ căn hầm bí mật trong chiến trường gửi ra lúc ấy tôi vừa tròn một tháng tuổi và hôm nay cha trở về tôi cũng vừa đầy một tuổi. Nỗi vui mừng khôn xiết khi mẹ nhìn thấy cha trở về khỏe mạnh trên chiếc xe đạp mượn của binh chủng thông tin ngoài Hà Nội. Trong bộ quân phục màu xanh người lính cùng chiếc mũ tai bèo của anh giải phóng quân, gặp ai cha cũng chào hỏi rõ to. Cả cơ quan mẹ náo nức vui như ngày chiến thắng, ai cũng đến chia vui và chúc mừng. Cuộc sống ngày ấy tuy khó khăn, thiếu thốn nhưng tình người thì vô cùng ấm áp và cảm động. Bữa liên hoan tối hôm đó chỉ có lạc rang, nước vối và đóa hoa loa kèn được cha mua vội từ chợ hoa phố Hàng Lược mang về tặng mẹ. Mẹ bảo, bó hoa ấy mãi mãi là bó hoa đẹp nhất đời người. Sau này năm nào mẹ cũng trồng một vài luống hoa loa kèn để nhắc nhớ về những ngày tháng tư hào hùng lịch sử. Thời gian là thước đo cho mọi giá trị và hòa bình đã chứng minh cho những giá trị đó chính là đất nước phồn vinh, hạnh phúc như ngày hôm nay.

Cách đây vài năm, nhìn đôi bàn tay gầy guộc của cha lần giở những kỷ vật chiến trường còn sót lại sau ngày giải phóng miền nam như những báu vật lòng chợt rưng rưng thổn thức. Cha lấy từ hòm đạn cá nhân ra một chiếc võng dù, chiếc ống nhòm cũ kỹ, một đôi quân hàm đã bạc phếch màu thời gian, một cuốn sổ ghi chép trong chiến trường, chiếc bi đông đựng nước bằng nhôm, bức ảnh đen trắng chụp cùng đồng đội đã ố vàng, bong tróc và đặc biệt một con chim chích bông nhỏ được khâu từ mảnh vụn chiếc tăng và nhồi bông rất khéo để tặng chị gái tôi trong những ngày cha nằm dưỡng thương trong trạm phẫu. Đó là tất cả những kỷ vật của cha tôi sau ngày chiến thắng. Những đồng đội của cha trong bức ảnh bây giờ người còn, người mất, có những người đã ngã xuống trong cuộc chiến và mãi mãi nằm trong lòng đất mẹ, những người đã hy sinh xương máu và một phần cơ thể cho ngày thống nhất đất nước. Đó là những ngọn lửa thiêng không bao giờ tắt trong lòng người chiến sĩ như cha tôi và những người may mắn được trở về.

Chiến tranh đã đi qua gần nửa thế kỷ, ký ức về một thời hào hùng, hoa lửa vẫn nằm sâu trong trái tim cha. Tôi biết người lính không nuối tiếc tuổi thanh xuân, sống hết mình vì nghiệp lớn nhưng người lính muốn tìm lại tuổi thanh xuân trong vòng tay đồng đội. Cứ mỗi độ tháng tư về thời tiết trong trẻo, dịu dàng hơn bởi những mùa hoa loa kèn nở trắng phố. Tôi nghe niềm xúc động dâng lên trong cha, tháng tư mùa hoa, mùa của tâm hồn và tháng tư mùa của độc lập, tự do và hạnh phúc.

Cây cầu cô đơn

Một buổi Frankfurt thành phố tự do, thành phố lớn một thời của đế quốc La Mã thần thánh, người nghệ sỹ già trầm ngâm với cây phong cầm, những bản nhạc về tình yêu như một cây kim vàng xuyên những kẽ nắng cuối ngày suồm suộm qua những chiếc khóa trên cây cầu tình yêu. Buổi chiều đẹp như một Love story hòng tan chảy vào những cái nắm tay thật chặt, những nụ hôn dìu dặt, những cơn gió không nỡ ngoảnh mặt, những đôi mắt tím bặt thủy chung.

K

hi Xuân ban sớm, nó như một hơi thở ôm từ Long Biên thắt đáy lưng ong, thấm tháp, chờn vờn, ghé mình lên bờ vai Hoàn Kiếm mà phả màn sương ấm. Khi trưa đang vắng, nó lầm lụi cúi đầu oi bức mà ngả mùa Hạ xuống phù sa như hoa, hồng hoa, dòng sông là hoa. Khi Thu ngập ngừng, nó rón rén mố cầu, thân cầu, nhịp cầu, những đoạn đường tàu mà vòng lên cánh cung điệu vàng mê mải. Khi Đông nhà ai, ven sông nhà ai, manh gió nhà ai, ngược chiều nhà ai, thổi vào te tái… cây cầu cô đơn!

Cây cầu đã cô đơn từ bao giờ, thân cầu đã cô đơn từ bao giờ, đời cầu đã cô đơn từ bao giờ, đời tôi đời ai đời em… đã cô đơn tự bao giờ? Tôi chẳng còn biết nữa, tôi chẳng còn nhớ nữa, Từ một cây cầu thế kỷ, soi  bóng mình xuống dòng sông thế kỷ, soi gương mình lên trời mây thế kỷ, bỗng thành một câu hát ru thầm thĩ. Từ dạo em đi…

Không phải là Tây Bắc, không phải là Đồng Văn, không phải là Hà Giang, chẳng phải là một đêm, hai đêm, lại năm bảy đêm tiếng khèn Sủng Là, hay ngọn đồi Mâm Xôi cô gái nhà ai lòe xòe ban mai, váy áo nhà ai nhìn tôi vươn vai… Tôi và An lại chia tay nhau lần cuối cùng ở giữa cây cầu này, giữa nhịp cầu này, giữa những bao nhiêu bươn bả phù sa thấm vào thịt da này. Và gió. Và Nắng. Và những triền đề hun hút bùa mê. Từ dạo em đi…

Từ dạo em đi, từ dạo trăng treo, từ dạo những câu hát nhàn nhạt, từ dạo những ngọn gió xiêu bạt, từ những hạt mầm nứt ra trong một buổi trưa thanh vắng, mà mùa Xuân cũng cứ thế lớn lên như thể chưa từng có mùa Đông. Có lẽ sự cô đơn đã làm cho con người ta hóa thành đứa trẻ để trú ngụ nỗi hờn. Cây cầu chẳng già đi, chỉ có thời gian mải mốt soi mình, mỗi khi gió đổi mùa rung rinh vài bụi cỏ. Ở đâu đó, bình minh còn chưa bắt đầu. Ở đâu đó tình yêu còn chưa bắt đầu. Ở đâu đó câu hát còn chưa bắt đầu. Hay là tất cả những sự bắt đầu trễ nải đều là nguồn cơn của nỗi cô đơn? Giống như nhịp cầu này bắt lấy nhịp cầu kia, rộng dài thế, chơi vơi thế, mênh mang thế? Như những áng mây bước nhẹ xuống cầu vồng. Cũng từ dạo ấy tôi luôn có cảm giác bất an khi đi trên những cây cầu và mọi cây cầu luôn luôn trễ nải. Như gió nhà ai, như nắng nhà ai, như một nụ cười đã choàng lên vai ai…

Từ ấy em đi. Từ ấy tôi đi. Từ ấy những màu hoa Pằng Tớ Dày chẳng bao giờ đi nữa, giống như mùa Xuân mãi mãi đã ở lại La Pán Tẩn, giống như con thú hoang thì mãi đợi bìa rừa, giống như tiếng chim  Ô Quy Hồ thì vẫn xô màn đêm câm nín. Tôi không còn nhiều thời gian để hàng ngày nhớ thương cây cầu.

Một hôm Đà Nẵng, gặp lại Lâm và Huyền bên cây cầu Tình Yêu, ngồi uống bia vặt vỉa hè, nghêu ngao hát, thấm thoắt guitar, ngước nhìn những ổ khóa tình yêu của các bạn trẻ cũng thấm thoắt vào nhau lạch tạch, họ nhìn, họ cười, họ hứa hẹn, họ chang chang nắng, họ trong veo gió, mà sao những cái ổ khóa đã vội cô đơn tự bao giờ. Mọi ổ khóa luôn luôn cô đơn, cho dù bạn có ngoắc chặt chúng lại với nhau, trên những lan can thép sáng mà hằng ngày người người qua lại. Đó là điều mãi sau này tôi mới hiểu.

Tôi đi dọc dải đất hình chữ S, trùng hợp thay nơi đâu cũng là những cây cầu. Có những cây cầu là trang nhật ký oai hùng, có những cây cầu là những bài hát yêu thương, có những đoạn cầu, mố cầu, thân cầu là những câu chuyện hi sinh mất mát. Rồi có những đoạn đời tôi ghé mình vào những kênh rạch nhỏ nhoi, ướm đôi chân mình lên những chiếc cầu tre lắt lẻo. những tưởng cái không gian lơ thơ như một cõi nhân gian bé tí kia sẽ xóa đi cảm giác chông chênh hụt hơi trên những nhịp cầu dài. Nhưng không, lạ thế, chỉ vài sải chân thôi đôi khi, mà từ bên này cầu để đạp đất bờ bên kia, có cảm giác tôi thấy mình đã bước qua nỗi cô đơn thế gian…

Một hôm ở Frankfurt, thành phố tự do, sự tự do từ thời của đế quốc La Mã, sự tự do như thể hàng trăm hàng ngàn ổ khóa ngoắc vào những thanh thép hoa uốn cong trên thành cầu kia có làm nỗi ám ảnh của tôi vụn vỡ?

Người nghệ sỹ già chơi đàn phong cầm lắc lư đôi vai để những dải âm thanh lùa vào nhau sóng sánh. Những đôi mắt sóng sánh, những nụ cười sóng sánh, những ánh bạc từ lòng sông bay lên sóng sánh và tình yêu của thiên hạ trong khóe mắt ai long lanh…

Nếu bạn đang là một kẻ trốn chạy, xin hãy dừng lại. Nếu bạn đang là một kẻ sợ hãi thì nhất định nỗi cô đơn ở chính trái tim nhỏ bé của mình. Chỉ một trái tim nhỏ bé mới thực sự cô đơn. Khi bạn đứng ở một nơi mình yêu thương nhất, khi bạn đứng ở một nơi có thể dễ dàng hát lên bài ca của đất, của nước mà nỗi cô đơn còn bủa vây thì ở trên thế giới này, mọi nơi bạn đến đều cô đơn…

Từ Frankfurt hay từ tiếng phong cầm phong cầm của người nghệ sỹ già, buổi chiều dường như tan chảy vào khúc biến tấu thời gian. Những thân cầu cứ bươn dài theo gió, những mố cầu như níu vào âm thanh, những dải âm thanh bước xuống từng nhịp cầu vồng.

Tôi không còn nhớ mình đang ở đâu nữa, hay là Những cây cầu ở quận Madison  từ  Robert James Waller? Tôi chỉ thấy một cây cầu quen thuộc, chỉ thấy những thân cầu thân thuộc, chỉ thấy những thành cầu rướn lên hình cánh cung gối đầu lên bờ thương nhớ. Cây cầu ban sớm, cây cầu ban trưa, cây cầu em nắng, cây cầu cơn mưa. Sông Hồng khẽ thở,  phù sa khoan thai, mặt trời chín đỏ, Cây cầu vươn vai…

Me đất

le-phuong

Tôi yêu me đất, yêu màu tím nhẹ nhàng, man mác của hoa, gặp me đất tôi như nhìn thấy một góc vườn xưa, thấy lại những ngày tuổi thơ ở quê nhà, mà từ những năm nào mà tôi đã vô tình bỏ lại.

H oa me đất nở tím trong vườn nhà, một màu tím ngan ngát, dịu dàng gợi nhiều thương nhớ. Gọi là me đất hay chua me đất để phân biệt với loại me quả, kết chùm ở trên cao gắn với tuổi học trò, gắn với những kỷ niệm khó phai của những ngày còn cắp sách.

Tôi không biết me đất mọc lúc nào vì chúng đến lặng lẽ và đi cũng lặng lẽ, chỉ thấy sau những cơn mưa xuân bay bay nhẹ nhàng, trời ấm nồng và me đất bắt đầu mọc đầy trong các khu vườn, tạo thành từng vạt quanh các gốc cây hay men theo bờ rào. Me chua đất thích mát, nó mọc trong bóng râm dưới những tán cây lớn, nơi chỉ có vài đốm nắng lọt qua khe lá rơi lốm đốm xuống đất. Đất mát và ẩm là nơi cho me đất ngoi lên rất mạnh. Ở bờ ruộng, đôi khi ta cũng bắt gặp những bụi me chua đất phát triển rất tốt, lá xanh thắm, mượt mà.

Quan sát kỹ, ta thấy me đất có cọng dài nối liền với củ li ti nằm dưới lòng đất, phía trên có chiếc lá gồm ba chét hình tim chụm vào nhau mà ta nhiều khi cứ ngỡ là ba chiếc lá ở đầu ngọn, cũng vì có ba thìa lá nên me đất có nơi còn được gọi là cỏ ba lá. Cỏ ba lá trong chuyện tình yêu đẹp, là mong ước về sự may mắn, là khát khao hạnh phúc viên mãn tràn đầy.

Tôi thích nhất là bông me đất. Bông me đất khi mới nở như chiếc chuông nhỏ màu hồng bé tý, rồi xòe ra thành bông hoa xinh xắn nổi bật trên nền lá xanh lục dịu dàng. Màu tím hồng của bông nhìn rất quyến rũ, nó là thứ đồ hàng cho lũ con gái đi hết những ngày tuổi thơ của mình. Tôi nhớ mãi, ngày bé, tôi cùng các chị mình hái từng cụm hoa me đất để chơi nhiều trò, khi thì kết thành vòng hoa đội đầu, khi thì bó thành cụm nhỏ làm hoa cô dâu, khi thì ngắt nhỏ làm đồ hàng. Cả lũ hăng say mua bán với những đồng tiền là lá hái trong vườn cây. Ai cũng say mê trong phiên chợ giả của mình và quên hết thời gian, quên cả nắng trưa hay bóng chiều tàn rồi giật mình khi nghe tiếng gọi về ăn cơm í ới của bà và mẹ . Màu tím hồng của chua me đất ngày ấy như đọng mãi trong tâm hồn.
Hấp dẫn lũ trẻ còn là củ me đất! Củ me bé xíu, lột bỏ lớp vỏ nâu cùng đất, củ lộ ra trắng tinh ăn ngòn ngọt, giòn giòn rất thích. Tôi cũng không biết tôi đã ăn bao nhiêu củ me đất qua mỗi mùa, chỉ biết mình hay bị mắng vì môi và má lem nhem đất. Như tên gọi là me đất, me đất hiền, vị chua là loại lá nấu canh chua rất tốt.
Hợp nhất với me đất là nấu với cá tràu (cá lóc ). Giữa trưa nắng chang chang, con cá lóc được làm sạch, cắt lát vừa phải rồi ướp tiêu hành mắm muối vừa đủ, để một lúc cho thấm . Múc một muỗng mỡ nhỏ cho vào soon, phi hành cho thơm rồi đổ tô cá đã ướp vào, đảo nhẹ để cá khỏi nát, mùi cá um bốc lên thơm ngào ngạt, đổ ít nước vào đợi sôi, cho một lọn me nhỏ vào và duống xuống, thêm chút hành, ngò vào rồi múc ra tô . Những khứa cá trắng ngần hòa cùng lá me nấu chín, điểm chút hành ngò phía trên, nhìn rất thích mắt. Lấy muỗng mà thử một chút, vị ngọt của cá hòa vị chua của me, dìu dịu tan vào cổ họng.

Nhưng có lẽ, ở dải dất miền Trung, đầy nắng cháy, me chua đất rất hợp với khuyết (có nơi còn gọi là con ruốc). Mùa me đất lại trùng với mùa khuyết. Ngày nào trời nhiều sương mù, trưa càng nắng và khuyết ở chợ càng nhiều, me trong vườn cũng đã mọc dày.

Mấy O, mấy mẹ đi chợ về, bên cạnh rau, hành, mắm muối còn có một vài chén khuyết (ruốc). Con khuyết tươi, màu tim tím từa tựa màu me chua đất, được rửa sạch rồi cũng ướp tiêu hành mắm muối vừa đủ. Mẹ tôi xắt một chút thịt ba chỉ rán vàng cho ra mỡ, phi hành rồi cho chén khuyết vào, dùng đũa đảo đều, mùi khuyết chín thơm lan tỏa cả khuôn bếp, khuyết lúc nầy có thể múc ra ăn. Nhưng không, mẹ tôi lấy ấm nước đun sôi để bên chế vào, nước sôi nhào trong soon, cho lọn me vào rồi tắt bếp. Khuyết hòa với me tạo vị ngọt thanh.

Bữa cơm dọn ra có đĩa cá kho khô, chén ước mắm ớt, dĩa rau sống đặt cạnh tô canh me đất nấu khuyết, cái nắng miền Trung như tan loãng trong tô canh thanh dịu mà nồng nàn.
Canh me đất không chỉ ngon mà còn có có tác dụng tiêu nhiệt, lợi tiểu và thanh mát cơ thể. Me chua đất hoa vàng còn là vị thuốc ho cho trẻ con rất tốt. Những khi gió bấc về, trẻ bị ho, mẹ tôi lại lấy me chua đất hấp trên nồi cơm rồi gạn lấy nước mà cho uống, chỉ vài ba hôm là khỏi.
Canh me đất dân dã, bình dị nhưng nhiều khi còn là kỷ niệm, là nổi khát khao của ai đó. Tôi nhớ một lần, bác dâu trong họ tôi bị ốm nặng, bác không ăn được gì, người lờ đờ, bác chỉ thèm một chén canh me đất. Chị dâu con bác thương mẹ chồng đã tìm mua cho được me đất rồi nấu canh như bác thường kể, không biết do cảm trước tình thương của con dâu hay gặp lại vị canh mình thường ăn ngày còn trẻ mà bác chảy nước mắt, cầm tay con dâu rồi ra đi yên bình thanh thản, có lẽ bác đã gặp lại quê hương mình.

Me chua đất hiền, phát triển mạnh mẽ trong mùa me đất nhưng sau đó tàn lụi và biến mất lúc nào cũng chẳng ai hay, mặt đất lại lặng lẽ yên đằm. Đến mùa sau, me đất lại bật dậy, lốm đốm rồi phát triển hàng loạt cũng bất ngờ như khi lụi tàn, chúng sinh sôi nẩy nở và sống anh nhiên dưới những bóng râm, bên cạnh những cây mùi tàu và hoa cỏ khác.

Tôi yêu me đất, yêu màu tím nhẹ nhàng, man mác của hoa, gặp me đất tôi như nhìn thấy một góc vườn xưa, thấy lại những ngày tuổi thơ, ở quê nhà từ những năm nào mà tôi đã vô tình bỏ lại.

Quê hương không đi xa vẫn nhớ

Ngô Văn Cư sinh năm Ngô Văn Cư sinh năm 1954 sống tại Hoài Ân, Bình Định. Ông là giáo viên văn hiện đã nghỉ hưu. Ngô Văn cư đã cho ra 14 đầu sách, tác phẩm gồm thơ, truyện ngắn, tản văn, 2 lần đạt giải thưởng Đào Tấn – Xuân Diệu và nhiều giải thưởng khác khác…

A i cũng nói khi đi xa mới thấy nhớ quê hương, bởi nơi đó có cả một quãng đời ấu thơ tươi đẹp, cả tuổi thanh xuân ngọt ngào và chính quê hương là nơi ta trở về khi chân chồn gối mỏi. Riêng tôi, tuổi trẻ đã để lại nơi đất khách vì chiến tranh.

Tôi theo cha mẹ đi tản cư khi còn nhỏ và những trò chơi tuổi thơ không được vui đùa trên đường làng quê nhà. Đến khi trưởng thành mới trở lại mảnh đất chôn nhau. Ký ức về quê cha đất tổ mờ nhạt như khói sương. Nhưng ngay cả khi sống gần cả đời trên đất quê vẫn nao lòng quay quắt nhớ về miền cố xứ.

Ký ức về quê nhà đâu chỉ những trò vui thời thơ ấu. Mà đôi khi chỉ là những phút giây sống chậm lại; nằm trên chiếc võng đong đưa bên hàng hiên vào mùa hè năm ngoái đã trở thành kỷ niệm thân thương của năm nay. Ngõ quê có dáng cha với đôi chân lấm lem bùn đất; có dáng mẹ với đôi quang gánh nặng trĩu trên vai, tảo tần nuôi cháu con khôn lớn cứ chập chờn trong từng giấc ngủ cũng là ký ức khó phai.

Làm sao giấc ngủ không chập chờn khi mỗi lần bước ra ngõ là gặp những người hàng xóm chân chất giàu lòng nhân hậu, nghĩa tình; gặp hàng dừa, bờ tre, ruộng đồng, bờ bãi cùng bao con vật thân quen nơi thôn dã; gặp những rơm rạ ngày mùa vàng ươm ngút ngát.

Làm sao tôi có thể quên những ngôi nhà liền kề chỉ cách nhau hàng rào chè tàu cắt tỉa thẳng tắp chưa bao giờ có cổng để khóa; nhà bên này bên kia có thể vói tay để chia sẻ thức ăn hoặc trao đổi tin tức, kinh nghiệm cho nhau như ở cùng chung nhà.

Tôi thích thú với cái cổng nhỏ mà bọn trẻ con tự tạo bằng cách vạch hàng rào chui qua lại giữa hai nhà liền kề. Có cả ban mai tinh khôi theo nắng tìm về đã trở thành nỗi nhớ của buổi chiều có mưa giông ì ầm sấm chớp. Có cả trên lối nhỏ đi về cũng làm lòng mình thương nhớ ngõ quê. Thì ra những hình ảnh hiện lên trong hoài niệm, dù vừa mới xảy ra, đều có chung một lý do là nhớ.

Những lần rời quê ít ngày vì công việc, quê nhà hiện lên trong tôi thật gần gũi. Đó là nỗi nhớ quay quắt vẻ nồng nàn của nắng gắt; nắng làm cho làn da mỗi người nhà quê ngăm đen; nắng cháy tóc đen thành màu râu bắp; nắng làm cho mọi ánh nhìn như muốn đốt cháy trái tim người đối diện; nắng bỏng rát, gay gắt khó quên. Đó là nỗi nhớ da diết sự dai dẳng của mưa đầm; mưa làm con đường quê thêm lầy lội; mưa làm bùn quện vào chân khiến không giày dép nào sử dụng được; mưa kéo mọi người trong nhà xúm xít gần hơn bên bếp lửa; mưa làm dịu mát những giận hờn vô cớ.

Đó là nỗi nhớ bâng khuâng về những ngày yên bình và hạnh phúc; những lần lê la quán cúp tóc mà tán chuyện đông tây kim cổ; những khi uống trà, đánh cờ mà sự thắng thua xem như một trò đùa; những ngày chở cháu sau xe dạo quanh làng để tận hưởng cảm giác yên bình, đầm ấm. Có khi lại nhớ đến khoảnh sân rộng đầy bóng mát tụ tập những người hàng xóm thân quen thưởng thức món ăn dân dã, quê mùa mà chuyện trò rôm rả. Trái bắp nướng, rổ đậu phộng luộc, trái mít đầu mùa… thường là món quà quê thơm thảo được đem ra đãi xóm làng.

Nhớ biết bao nhiêu những ngôi nhà có hàng rào dâm bụt hay chè tàu mà không có cổng như mời gọi khách, như tấm lòng rộng mở của chủ nhân. Cứ mỗi lần nhớ về hình ảnh quê nhà, dù là hình ảnh vụn vặt, là tôi biết mình đang thao thiết nhớ về quê hương. Thì ra những hình ảnh hiện lên trong quá khứ khi ta vừa mới rời xa, đều có chung một lý do là nhớ.

Quê tôi cũng giống như bao làng quê khác trên mảnh đất miền trung nghèo khổ này. Người dân phải một nắng hai sương mới có miếng ăn đủ đầy và nơi ở ấm áp. Khổ cực là thế nên rất nhiều trai tráng đem sức lực của mình đổi lấy áo cơm ở nhiều miền quê khác. Nhưng có mấy ai đi biệt xứ không quay trở về nhà, đoạn tuyệt với nơi chôn nhau cắt rốn? Chẳng phải trong tự sâu thẳm của mỗi chúng ta bước chân ra đi là để có chỗ để trở về. Biết bao điều nhỏ nhặt của cha mẹ, người thân, bạn bè đã từng chia sẻ khi vui khi buồn; lúc thảnh thơi lúc mệt mỏi cứ đọng mãi trong không gian riêng tư của chính mình. Để bây giờ, khi nỗi buồn vây bủa; công việc căng thẳng, mệt mỏi; cuộc sống chợt chững lại; thì chắc chắn điều duy nhất hiện lên trong đầu là hình ảnh quê nhà.

Khi dịch bệnh Covid-19 bùng phát ở nhiều tỉnh thành trên đất nước, hàng ngàn, hàng vạn người từ các thành phố lớn vội vã đùm túm về lại quê nghèo mới thấy quê hương là nơi bình yên nhất, nơi có thể ta yên tâm gởi gắm cuộc đời. Có người vượt hơn ngàn cây số bằng phương tiện cá nhân cọc cạch chỉ nhằm sao cho được về tới mái nhà thân quen mà mình từng dứt áo ra đi. Khi ra đi, cứ ngỡ rằng sẽ lập nghiệp được ở đất khách. Khi trở về mới hiểu rằng quê nhà là nơi ta có thể yên tâm gởi cả cuộc đời.

Rồi mọi người sẽ bỏ lại phía sau những con đường phồn hoa, rộn ràng xe cộ để được về ngôi nhà nhỏ thuở ấu thơ; ngôi nhà có hàng rào cây xanh cắt tỉa cẩn thận, có mẹ ngồi chia quà sau mỗi buổi chợ quê, có cha ngồi uống trà trước hiên và dĩ nhiên, bọn nhóc chạy khắp sân với trò chơi dân gian muôn thuở… Vòng tay quê hương dẫu nghèo, khẳng khiu nhưng đủ ôm ấp cưu mang mọi kiếp người. Trong cái họa của dịch bệnh ấy biết đâu lại là cái mầm của hạnh phúc. Mai đây, dịch bệnh sẽ qua đi và tình người ở lại; hết tiếng than van lại rộn rã tiếng cười. Những lần ra đi và trở về đều để lại trong lòng mỗi người một nỗi nhớ khó quên.

ĐẤT HÓA TÂM HỒN

Ảnh: Tô Mạnh

Tôi may mắn hơn nhiều người khác; chưa phải bôn ba xứ người nên sự cồn cào nhớ nhà, nhớ quê chưa thật rõ nét. Nhưng mỗi đêm về, tôi vẫn thấy nỗi nhớ da diết thiên nhiên, con người, sự việc trôi ngang qua đời mình từng ngày. Phải chăng đó cũng là nỗi nhớ quê hương? Nếu thật vậy thì: quê hương, không đi xa vẫn nhớ.

Cây gạo làng tôi

Cây gạo ở ngã ba làng không biết có tự bao giờ. Bà nội tôi kể khi bà về làng làm dâu thì đã thấy cây gạo to lớn như thế này rồi. Cây gạo cao to sừng sững cành lá sum xuê tỏa ra một khoảng đất rất rộng. Những cái gai to già nua đã rụng dần để lại một lớp da sần sùi loang lổ.

Gốc gạo đã trở thành một cái địa danh, một chỗ tụ họp và một địa điểm để hò hẹn và chờ đợi nhau. Chúng tôi đi học thường hẹn chờ nhau ở gốc cây gạo. Các chị đi chơi hay đi tập văn nghệ cũng hẹn chờ nhau ở gốc cây gạo. Những người đi làm ăn xa cũng lấy cây gạo làm cọc tiêu để định hướng đường về.

Mỗi buổi trước khi đi làm đồng các ông các bà cũng thường tập trung dưới gốc gạo và như đã thành thói quen từ đây những thông tin trong ngày được trao và nhận như một cuộc giao lưu nho nhỏ vậy. Câu chào, câu hỏi tình làng nghĩa xóm cũng từ đây mà gắn kết với nhau hơn. Không biết bao nhiêu là khúc mắc được tháo gỡ bắt đầu từ những lần tập trung như vậy.

Trên ngọn cây cao tít những đàn cò có thể phóng tầm mắt ra xa để tìm những cánh đồng hay những ao đầm đầy tôm cá. Có những tổ quạ, tổ chim Chiêng Liêng to như cái thúng, cứ đến mùa làm tổ chúng bay từ đâu về cãi nhau chí choé náo động cả một khoảng trời. Vào độ tháng mười âm lịch lá cây gạo chuyển từ màu xanh đậm sang màu vàng xuộm rồi bắt đầu rụng.

Những cơn gió heo may thổi về làm những đám lá quay tròn quay tròn trên không trung rồi rơi lả tả xuống một lớp thật dày xung quanh gốc. Trên cành trơ ra những nhánh cây xương xẩu đem xạm giơ lên trời, nhìn qua nhiều khi tưởng như cây đã bị chết. Nhưng không từ những nhánh cây xương xẩu ấy những búp hoa tròn xanh chui ra từ lớp vỏ đen cứ lớn dần lớn dần từng ngày một. Sau tết những cơn gió bấc lạnh lẽo không ngăn cản được sự lớn lên của những búp hoa xinh xắn ấy.

Cuối tháng giêng cây gạo đỏ rực lên một màu hoa rực rỡ. Trên tất cả mọi cành không một chiếc lá từng đoá hoa như hình những cái cầu lông to đang đỏ rực giữa bầu trời còn hơi se lạnh. Trông cây gạo như một bó đuốc khổng lồ đang đốt cháy rực rỡ cả một góc trời. Mặc cho mùa giáp hạt, bao nỗi lo toan hằn lên trên nét mặt các bà mẹ, hoa gạo vẫn cứ vô tư đỏ rực cả một khoảng trời. Từ màu đỏ rực rỡ chúng chuyển sang màu đỏ sậm rồi rụng xuống để lại trên cành những quả non lẫn vào đám lá vừa nhú ra màu xanh nhạt.

Ngày còn bé, đến mùa hoa rụng tôi cùng bạn bè có thú chơi đi nhặt hoa gạo xâu chuỗi đeo vào cổ bắt chước chuỗi hạt của Sa Tăng trong bộ phim Tây du Ký. Bọn con gái thì nhặt kết thành vương miện chơi trò hoa hậu.

Mọi chuyện qua đi theo thời gian, ai ai cũng bận rộn theo công việc của mình. Rồi một ngày dưới cái nắng mùa hè gay gắt, trên bầu trời xuất hiện những sợi bông trắng muốt. Hóa ra quả gạo đã chín. Quả rụng xuống, quả chưa kịp rụng đã nứt vỏ bung ra cả một trời bông trắng xóa. Những sợi bông theo gió bay đi trong nắng trông như những sợi mây đang lơ lững giữa không trung vậy. Có những đám bông theo gió bay đi mãi đi mãi qua cánh đồng sang mãi đến tận làng bên kia.

Chúng tôi rủ nhau đi nhặt bông gạo bỏ vào túi về phơi khô để cha và bà nội xe thành sợi làm bấc đèn dầu và bấc bật lửa dùng dần. Ngày đó chưa có điện, mọi nhà đều thắp đèn bằng dầu hỏa. Máy bật lửa dùng bằng dầu hỏa chỉ có thứ bông gạo trắng, mịn màng xe thành sợi làm bấc thì mới nhanh bắt lửa được. Năm nào nhặt được nhiều bông thì mẹ phơi khô rồi nhồi làm gối cho anh em chúng tôi kê đầu, những cái gối làm bằng bông gạo mới êm mát làm sao.

Bông gạo chín cũng là lúc cây gạo đã đầy đủ lá và tỏa bóng râm mát nhất. Bỏ ngoài tai câu nói quỷ gốc đa, ma gốc gạo bọn trẻ chúng tôi những buổi trưa hay những đêm trăng sáng đều tập trung chơi đùa đủ mọi trò chơi dưới gốc cây. Chơi chán cả bọn rủ nhau nằm nghe tiếng chim hót và tiếng lá rì rào như đang kể chuyện về một miền hoang sơ xa thẳm.

Có một điều kì lạ hình như đã thành thông lệ, trong làng có người từ giã cuộc đời đi về với ông bà tiên tổ khi đi lên nghĩa trang đều được nghỉ dưới gốc cây gạo của làng. Tiếng kèn, tiếng trống tiễn đưa người quá cố đã thấm sâu vào trong những thớ thịt của cây gạo kể từ bao đời nay. Và khi hoa gạo chuẩn bị rụng xuống đất phải chăng vì thế mà chuyển sang màu đỏ bầm như những giọt nước mắt tiễn đưa đã ngấm sâu vào thân, lá hoa và rễ cây vậy .

Ngày còn bé có lần anh tôi đá bóng ngoài sân đình làng bị ngã sái tay. Tôi thấy mẹ cầm dao ra chỗ gốc gạo vạc lấy một nắm vỏ đem về nhà giã nhỏ trong cái cối đá. Mẹ lấy cái nồi bằng đất bỏ vỏ gạo vào rồi bắt tôi tè vào đó. Mẹ đem đun lên cho nóng rồi dịt vào chỗ anh bị đau và bó lại. sau mấy ngày vết thương lành hẳn. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao làng mình lại yêu thương gắn bó với cây gạo như thế. Chắc những người trong làng ai cũng đã từng một lần nhờ cây gạo chữa trị vết thương.

Chúng tôi lớn lên rồi đi xa, có đứa không trở về làng có đứa định cư ở nơi khác. Cũng có thể ở nơi khác cũng có cây gạo như ở làng tôi, mùa xuân ra hoa kết trái rồi trái chín cũng bung ra một trời bông trắng muốt nhưng trong lòng mọi người không thể quên được cây gạo của làng mình.

Trong thâm tâm mọi người cây gạo và ngã ba làng đã thành hồn cốt của làng, đã trở thành những kỷ niệm ăn sâu vào tâm khảm của họ.
Trải qua những năm tháng mưu sinh vất vả, hôm nay tôi về đứng dưới gốc gạo tôi cảm thấy mình như được trở về thời thơ ấu và trở nên nhỏ bé vô cùng.

Cây gạo vẫn sừng sững trên cành đơm đầy những bông hoa đỏ rực. Chỉ có làng quê là thay đổi, bao nhiêu thế hệ đã đi qua đây, bao nhiêu niềm vui, nỗi buồn đã đi qua đây. Những người thân thương cũng đã thưa vắng dần.
Tôi cúi xuống nhặt bông hoa gạo đã rụng từ đêm qua, bồi hồi nhớ lại những quãng ngày xa xưa đã từng gắn bó thân thuộc ở nơi này. Bất chợt sống mũi cay cay, những giọt nước mắt lăn xuống gặp bông hoa gạo rụng đỏ bầm lên như màu máu.

Cảm ơn đời, cảm ơn quê hương đã tạo cho ta một lối đi về trên nẻo đường đời muôn vàn lối rẽ. Cảm ơn những gốc cây những ngọn cỏ tưởng chừng như vô tri nhưng có muôn vàn lời vô cùng thân thương ẩn chứa mang nặng ân nghĩa ân tình.

Gọi em

Ảnh: Tuan Ngo

Em đến với tôi vào một chiều thu năm ấy, khi những tia nắng cuối ngày bắt đầu tắt lịm nhường cơn gió chiều lả lướt với hàng cây. Em, nhỏ bé giữa những lớn lao, giản đơn giữa những cầu kì, không bon chen cũng chẳng màng vội vã, nhưng chính em lại là thứ giữ chân biết bao người vội vã trong thành phố vội vàng này. Ai thương em một cuộc đời nhỏ bé mà gán cho em một hương sắc đậm đà để tôi cứ thao thức, vấn vương suốt buổi chiều hôm ấy. Để rồi nhung nhớ, để rồi tôi cứ ngẩn ngơ đếm bước chân mình dưới bóng em, chờ cơn gió ngang qua mang em đến bên mình. Gọi em, nào phải giữa mùa thu. Gọi em, khi lòng này nứt nẻ. Ngày chợt khóc, chợt cười vẫn muốn gọi tên em. Hoa sữa ơi!

Đ ã rất nhiều lần tôi muốn gọi tên em bằng tất cả đắm say, bằng cồn cào gan ruột khi người ta nhắc đến em bằng những lời đao búa. Họ xem em như một kẻ tội đồ phá vỡ khoảng trời xanh.

Cau mặt nhăn mày, họ chẳng muốn nhìn thấy em. Khi hai tâm hồn chưa thể hoà làm một, họ chẳng thể mở lòng, em cũng chưa một lần níu kéo. Tôi thương em, thương phận đời bé nhỏ, giữa mênh mông biển người nhưng chẳng đủ chỗ cho em. Là tại em hay tại ai? Có bao giờ em ước mình thành bông hoa khác, bình lặng giữa đời thường mặc kệ muôn sắc hương? Không, em chưa một lần trách hờn ai. Lòng em vẫn nhẹ tênh tựa áng mây bềnh bồng giữa chiều thu ấy. Mặc cho ai ghét ai thương, mặc cho ai rời đi hay ở lại, em vẫn là em thôi. Chẳng phải em khó gần hay kiêu ngạo, chỉ tại trái tim ai chưa đủ mềm để cảm nhận hết em thôi. Nếu mùi hương kia là lầm lỗi thì để tôi thay em nhận hết lỗi cho riêng mình.

Tôi chẳng biết phải gọi em là gì mới phải, khi em đã ở cùng tôi suốt chặng đường dài. Khi còn là kẻ mộng mơ trong thành phố cho đến lúc cuộc sống ngả màu em vẫn lặng lẽ sát bên. Giữa cuộc đời đầy hối hả, người nối người theo những phồn hoa, tôi lại có em như người bạn song hành, từ tốn và chân phương. Nhìn sâu trong mắt em tôi lại thấy chính mình. Mong manh đó, yếu mềm đó nhưng chẳng để ai chạm đến làm tổn thương mình. Người ta né tránh, tôi chỉ muốn xích lại gần em thêm chút nữa. Mỗi ngày trôi qua với tôi là mỗi nấc thang cuộc đời hiện ra tựa bản tình ca mùa thu da diết, có lúc thăng trầm cũng có lúc thăng hoa, có em, có tôi, có ủi an phận mình. Ôi cuộc đời đôi khi chỉ cần có thế!

Tôi đã từng bước qua tháng ngày chông chênh trong tuổi trẻ của mình bằng những đêm có em. Dưới ánh đèn vàng hiu hắt lọt thỏm giữa đêm đen, chẳng ai chen ngang hay ngắt lời, chỉ có tôi và em. Tôi kể em nghe về những điều đã trải qua, rót vào tai em những nghẹn ngào tưởng chừng chẳng thể thốt ra cùng ai. Rũ sạch hết muộn phiền quyện vào hương em bay xa mãi. Những dòng tự sự một chiều được gửi đi chưa một lần hồi đáp. Em chưa từng trách tôi yếu mềm hay bi luỵ trước khổ đau, cũng chưa từng khuyên tôi phải trở thành người mạnh mẽ. Em chỉ lặng yên và kiên nhẫn nghe tôi tỉ tê bao vui buồn. Những lúc bế tắc cùng cực, tôi lại chọn đứng trước em. Chỉ riêng em thấy tôi yếu đuối. Chỉ riêng em thấy những giọt nước mắt đang vỡ oà trong tiếng nấc nghẹn ngào. Đứng trước em để thấy mình thật nhỏ bé và tầm thường. Mới tí gập ghềnh đã than vãn, kêu ca. Nhìn em đi! Chẳng phải em vẫn đang bị nhiều người hất hủi đó hay sao? Chẳng phải em vẫn đang bị chê bai và xa lánh hay sao? Nhìn em đi! Em chọn cách làm thinh giữa ồn ã. Em mặc kệ những lời dèm pha. Em cứ là chính em. Những yêu thương sẽ tự tìm cách mà ở lại, chẳng cần cưỡng cầu.

Người trong lòng phố vẫn mải miết đi tìm những ngã rẽ mới cho đời mình, để rồi ngày mai khi mặt trời thức giấc, chẳng còn điều gì được giữ lại trong nhau, kể cả sự có mặt của em cũng trở thành quên lãng. Nơi em đã từng đến giờ chỉ còn những ngọn gió đi hoang, chỉ còn những hàng cây xanh reo hò cùng mùa mới, mọi thứ vẫn như cũ chỉ là không có em. Khi chẳng ai còn gọi tên em nữa, liệu mùa sau em vẫn nhớ đường về?

Có chăng chỉ khi tình yêu đủ lớn người ta mới vì nhau mà ở lại, chỉ khi có sự đồng điệu trong tâm hồn mới khâu vá được đôi trái tim xước mẻ. Giống như tôi và em tuy hai mà một, tuy xa mà gần. Hạ còn chưa tới mà tôi đã trông ngóng em về. Ngày mai, em ôm hết nhớ thương cất vào trong ngực áo, mặc kệ đời em cứ ngủ cho ngon. Ngày mai, nắng sẽ kết những bâng khuâng thành hương hoa nồng ấm, gió khẽ hôn lên mái tóc rồi đánh thức em sau giấc ngủ dài. Rồi yêu thương sẽ lại được lắp đầy, rồi nhớ thương sẽ nên hình hài dáng vóc, là em.
Ngọn gió nào rong ruổi khắp bốn phương nhắn với em rằng tôi vẫn mong chờ, để lại được thấy em, được ôm trọn em vào lòng. Hít một hơi căng đầy lồng ngực, để tôi thấy mình là của riêng em thôi.

Say lòng câu hát hội Lim

Ảnh: Mộc Nhiên
Ảnh: Mộc Nhiên

Hội Lim

Hội Lim là một lễ hội lớn của tỉnh Bắc Ninh, chính hội được tổ chức vào ngày 13 tháng giêng (âm lịch) hàng năm, trên địa bàn huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Hội Lim được coi là nét kết tinh độc đáo của vùng văn hoá Kinh Bắc. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

T háng Giêng yêu kiều bên nụ, rực rỡ bên hoa, nõn nà cùng mầm xanh chồi biếc. Mùa xuân luôn dành tấm thịnh tình thuần khiết ấy cho đất trời và muôn người gửi gắm những hy vọng ước mơ. Người ta theo chân tháng Giêng cùng nô nức xốn xang trảy hội. Tôi giục giã mình theo câu hát quan họ mà trở lại vì nỗi nhớ hội Lim. Nơi có giọng hát ngọt ngào và tiếng sáo ma mị của chàng Trương Chi bên dòng sông Tiêu Tương trót yêu nàng Mị Nương thuở ấy. Để rồi những lời ca tiếng hát quan họ trên mảnh đất Bắc Ninh hôm nay vẫn còn da diết đắm say hơn cả một khúc chuyện tình.

Đến hẹn lại lên, giữa dòng người hân hoan rảo bước về hội Lim, có tâm trạng nào nhặt khoan nỗi lạ quen giống như tôi hôm ấy. “Trọng nhau vì nghĩa, mến nhau vì tài”, cái tình của người quan họ hiện trên khuôn mặt hiền hoà cùng nụ cười tươi thanh khiến tôi quên mình là du khách. Tiếng hát giữa hồ điều hoà Vân Tương như gửi lời chào đón gọi mời tới muôn lứa tuổi. Người xem không chen lấn mà nhường chỗ cho nhau say sưa cùng dõi theo từng làn điệu. Các liền anh khăn xếp áo the như bậc nam nhi quân tử cùng ánh nhìn nho nhã khoan thai sánh đôi bên các liền chị với nón quai thao, áo the trầm, thắt lưng xanh cùng khăn mỏ quạ đẹp ý nhị lẫn thướt tha.

Chẳng thế mà có câu ca dao: “Ai làm chiếc nón quai thao/ Để cho anh thấy cô nào cũng xinh/ Em là con gái Bắc Ninh/ Tay nâng vành nón, mái đình nghiêng theo”. Chiếc thuyền bồng bềnh điệu hát dường như khiến người chèo đò cũng đắm mình mà buông lái cho thuyền trôi. Vừa sâu lắng ngọt ngào, vừa da diết bâng khuâng níu lòng người đi, ở. “Hôm nay sum họp trúc mai/ Tình trong một khắc nghĩa dài trăm năm/ Hôm nay tứ hải giao tình/ Tuy rằng bốn bể nhưng sinh một nhà’’. Người quay phim, người chụp ảnh, ai cũng muốn lưu lại khoảnh khắc ngọt ngào khi đươc mắt thấy tai nghe một loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc chỉ có ở miền đất Kinh Bắc từ cổ xưa.

Những câu hát đậm đà ấy được khởi nguồn bằng tình yêu quê hương đất nước và được lưu giữ bảo tồn qua từng thế hệ cho tới hôm nay. Bao lời quan họ cổ được các nghệ nhân gạo cội nơi đây giữ gìn và thể hiện như một thước đo chuẩn mực lề lối. Những gương mặt liền chị liền anh còn nhỏ tuổi cũng rạng ngời trong trang phục truyền thống trên sân khấu với giọng hát trong ngần, để nối tiếp giá trị văn hoá tinh thần đẹp đẽ của thế hệ cha ông để lại. “ Mấy khi khách đến chơi nhà/ Đốt than quạt nước pha trà mời người xơi/ Trà này quý lắm người ơi/ Mỗi người một chén cho tôi vừa lòng…”.Lời chào tế nhị thân thương mà tỏ tường niềm hiếu khách. Đĩa trầu cánh phượng được têm từ đôi bàn tay khéo léo của các bà các cô nơi đây mang ý tình son sắt thuỷ chung, đượm nồng gắn bó. Những trai tài gái sắc của miền dân ca quan họ Bắc Ninh tiếp tục tái hiện tuyệt vời sự tích Trương Chi, Mỵ Nương thuở xưa với bao niềm cảm động. Tôi được đắm mình trong những làn điệu dân gian, người kế bên trầm trồ mà bảo rằng; “Thật không quản đường xa đến đây mới được thấy tận mắt vẻ đẹp của những làn điệu quan họ”. Sau màn cắt băng khánh thành công viên cây xanh và hồ điều hoà Vân Tương diễn ra trang trọng thành công, ai nấy đều hân hoan phấn khởi. Rồi mai này, sẽ có những tán cây xanh rợp, những khóm cỏ mượt mà, những bụi hoa với đủ hương thơm màu sắc.

Mưa xuân lãng đãng bay nhẹ chẳng đủ làm ướt áo ai, dòng người vẫn trải dài nói cười bên nhau vãn cảnh chùa Lim giữa bốn bề câu quan họ. Từng nhóm, từng tốp, từng người nghệ nhân, có cả những người dân xa gần trong và ngoài tỉnh cùng nhau hát cặp, hát đối. “Hát cho lở đất long trời/ Cho đời biết mặt cho người biết tên…”. Họ say sưa thả mình theo các làn điệu rồi giao lưu và tặng cho nhau món quà bằng chính những lời quan họ mộc mạc thiết tha sau ngày rã hội. Từ người già đến trẻ nhỏ, từ cô gái đến chàng trai, ai đến hội Lim nơi đây cũng muốn được nghe và được hát theo những câu quan họ dù chỉ một lần: Ngồi tựa mạn thuyền, Bèo dạt mây trôi, Vào chùa, Mười nhớ, Người ơi người ở đừng về…Những làn điệu dung dị ấy chứa đựng tình yêu quê hương đất nước lớn lao, tình yêu đôi lứa ngọt ngào cùng đời sống tinh thần vui say trong lao động sản xuất. Bởi thế mà âm hưởng và ca từ gần gũi tới thật thà, không cầu kì bóng bẩy kiêu sa, không kén người nghe, không chọn người hát. Tiếng sáo trúc từ đâu đó réo rắt du dương, lên bổng xuống trầm như tiếng sáo của chàng Trương Chi năm ấy. Có phải vì câu chuyện tình xa xót dở dang mà tiếng sáo tự bao giờ luôn mang một âm hưởng riêng khiến lòng người không khỏi trầm tư lay động. Vẫn là những lời quan họ nhưng được diễn xướng theo nhiều cách độc đáo khác nhau bởi những người nghệ nhân bao năm gắn bó.

Cửa đình rộng mở đón chào du khách thập phương tới dâng hương, họ cầu cho quốc thái dân an, người người nhà nhà ấm no hạnh phúc. Mái đình lặng lẽ uốn cong, chiếc lư hương giữa chính điện thơm mùi nhang trầm từ tâm người thắp. Những trái bưởi vàng ươm, những chùm khế căng mọng tượng trưng cho sự bình an no đủ, những cây sứ, cây đại mạnh mẽ hiên ngang, khóm cau vươn cao thẳng hàng, cây đa đại thụ với bộ rễ kiên cường khoẻ khoắn, những chậu bon sai mang vẻ đẹp ngời ngời khí phách. Ngôi chùa nằm trên đỉnh đồi Lim trải dài với các bậc thang lên xuống. Trên địa thế cao ráo và vẻ đẹp đầy nét văn hoá tâm linh, du khách sẽ không khỏi ngỡ ngàng khi dừng chân vãn cảnh. Các cô bác, các chị em tíu tít thuê những bộ váy áo tứ thân đủ màu cùng nón quai thao và khăn mỏ quạ từ những gian hàng nho nhỏ, mặc vào chẳng kém chị Hai, chị Ba xinh và chụp những bức hình làm lưu niệm. Ai cũng muốn lưu giữ những khoảnh khắc đẹp của mùa xuân trên miền quan họ trước khi ra về.

Những làn điệu quan họ cứ ngọt ngào da diết quanh đây, lòng tôi nhớ nhung vơi đầy khi phải rời xa tạm biệt. Hồ Vân Tương vẫn bồng bềnh câu hát, các liền anh liền chị hết lòng cho ngày hội quê hương. Tôi đợi ngày 12,13 tháng Giêng âm lịch mỗi mùa xuân mới, để trở lại nơi đây và đắm mình trong những làn điệu dân ca quan họ. Cảm ơn mảnh đất thiện lành cùng những người con dân Bắc Ninh đã luôn gìn giữ bảo tồn và không ngừng phát huy những giá trị thiêng liêng đẹp đẽ.