26 C
Hanoi
Thứ Tư, Tháng 10 22, 2025

Lững thững… và yêu

C ó những buổi chiều, tôi ngước nhìn...

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...
Trang chủ Blog Trang 10

Những vòng xe của mẹ

T iếng cọt kẹt thuở nào vẫn trở đi trở lại trong những giấc mơ tôi. Thứ âm thanh quen thuộc của ngày thơ ấu mà tôi từng thắc thỏm mong ngóng khi những vòng xe của mẹ đi đâu đó trở về. Mỗi lúc ấy, tôi hân hoan chạy ùa ra, tay bám vào phía sau xe và đòi mẹ cho ngồi lên yên tới khi vào tận đầu sân mới chịu xuống. Tôi yêu chiếc xe đạp ấy như tình yêu tôi dành cho mẹ, chiếc xe đạp tận tụy thân thương đã luôn bên mẹ đi khắp những ngả đường có đủ nỗi buồn vui theo nhọc nhằn năm tháng.

Chiếc xe được mẹ mua lại từ một người ở làng khác rồi gắn bó bên mẹ như một vật bất ly thân. Khi trời tờ mờ sớm chưa rõ mặt người, khi anh em tôi còn lăn lóc trên giường ngủ, mẹ đã đạp xe để kịp tới những phiên chợ và mua bán mọi thứ hàng. Buổi nào mẹ trở về khi nắng còn đang thoai thoải bên hông vườn là hôm bán mua suôn sẻ, tiếng cọt kẹt từ lưng chừng cổng cũng nhẹ tênh và vui tai biết mấy. Chiếc thúng sau xe mẹ có thật nhiều thứ: Mấy lạng thịt hay con cá tươi, khi là quả bóng nhựa và con búp bê mới cho anh em tôi. Cả chiếc làn nhựa treo ở đầu tay lái phía trước có thêm túi bỏng ngô rất bùi hay miếng đường phên ngọt lịm rồi những viên kẹo giòn tan. Mẹ vừa múc gáo nước rửa mặt mũi chân tay cho tỉnh táo vừa nhìn anh em tôi ríu rít chia nhau quà mà mệt nhọc như vãn hẳn. Những hôm chợ ế cũng là những hôm nắng đứng bóng trên đỉnh ngọn cây, nắng ngổn ngang đầy ngõ, tiếng xe đạp cọt kẹt, đằng đẵng mà nặng nề, mẹ đèo hàng về để mai bán nốt. Nét mặt mẹ thoáng buồn đôi chút nhưng dường như đã quen bởi chợ búa có ngày nọ ngày kia, mẹ vẫn thường bảo như thế. Anh em tôi chẳng thể giấu được nỗi chưng hửng nhưng cũng biết bảo nhau không vòi vĩnh bánh quà.

CÙNG TÁC GIẢ

Những phiên chợ gần, chợ xa với những con đường dải nhựa tít tắp rồi đường đất, đường đá gồ ghề đều có đủ. Thương lắm những khi trời mưa gió bất chợt, tôi ngồi sâu trong hiên nhà hay ngồi trong cửa bếp nhìn ra ngoài ngõ mà mong ngóng mẹ. Tôi lo mẹ bị dầm mưa ướt người, lo xe đạp của mẹ ngang đường bị hỏng, lo đường trơn trượt làm mẹ ngã. Chỉ tới khi nghe thấy tiếng xe cọt kẹt, thấy dáng mẹ lụp xụp đằng xa với chiếc nón và manh vải mưa vuông, tôi mới vỡ oà, quên đi nỗi lo đang canh cánh.

Những buổi chiều, tôi hay theo mẹ ra vườn cắt đám dây khoai lang xanh um mỡ màng trên những khoảng đất thịt, ngày ấy ở làng tôi nhiều nhà nuôi lợn nên họ mua rau lang để băm nấu. Dù bị muỗi đốt đỏ khắp hai chân, tôi vẫn loanh quanh bên mẹ chẳng rời và phụ mẹ mang từng bó rau lang về nhà để xếp gọn gàng vào một chỗ. Mẹ chằng dây chun qua đống rau lang cao ngất ngưởng, tôi theo mẹ ra chân con dốc làng và đẩy xe cho mẹ lên tới đỉnh dốc. Nhựa rau lang ứa ra từ những vết cắt, mồ hôi mẹ nhỏ giọt bết cả những sợi tóc mai. Nhìn từ phía sau, mẹ lọt thỏm trong những mớ rau. Nhìn từ phía sau, mẹ hun hút dần vào chiều tà.

Mẹ kể có lần tay lái xe lảo đảo xiêu vẹo rồi đổ kềnh càng ra vệ đường, dóng chân bị va vào đá bị tím đen tím đỏ, chiếc lồng xe méo cả đi, có những khi dây chun phía sau bị tuột ra lõng thõng rồi quấn xiết vào trục xe bao nhiêu vòng phải gỡ mãi. Đôi gấu quần của mẹ bị xích xe cọ vào lâu ngày thành những vết sờn rồi thủng lỗ chỗ nham nhở, lại bị những vết luyn từ xích xe bám chặt, chà giặt mãi mà chẳng thể nào hết. Nhưng nhờ có chiếc xe đạp ấy mà mẹ ngược xuôi buôn bán muôn nơi để có tiền lo cho gia đình, lo cho những đứa con bé bỏng. Chiếc xe đạp duy nhất trên đời có vẻ đẹp và ý nghĩa thật đặc biệt với tôi.

Tôi nhớ ngày mẹ đưa tôi ra đầu làng để bắt xe ô tô đi nhập học ở tỉnh xa. Chiếc túi du lịch đựng quần áo và bao thứ đồ cứ bật lên bật xuống sau yên xe đạp. Tôi lớn quá rồi, chẳng thể nào ngồi trên yên xe để mẹ dắt nữa nhưng tôi vẫn thích bám tay vào yên xe phía sau và lảnh lót chuyện trò. Mẹ đi băng băng trên con đường làng và dặn dò con gái đủ thứ cho tới khi tôi lên xe. Mẹ trở về chăm chút cho vườn rau lang, chăm cho đôi lợn, vẫn tảo tần những phiên chợ và làm thêm bất cứ việc gì để dành dụm thành tấm món gửi cho con gái ăn học. Tôi xa nhà, xa những ngày thơ thẩn ngồi gỡ cỏ may nơi ngã ba làng vì chờ mẹ, xa những ngày bồn chồn nơi cổng ngõ mà đợi tiếng xe cọt kẹt trở về. Tôi nhớ mẹ tôi!
Thời gian đã dần lấy đi màu đen trên mái tóc của mẹ như thể màu sơn trên chiếc xe đạp cũng bị bạc tới độ chẳng còn nhận ra màu. Mẹ tôi vẫn làm lụng chẳng ngơi tay, cái hay lam hay làm của người phụ nữ ở nông thôn muôn đời vẫn thế, đẹp trong lam lũ, bền bỉ và khiêm nhường. Đôi mắt mẹ trũng sâu lại bừng sáng lên mỗi lần con cháu trở về thăm nhà, mấy nếp nhăn trên nền da nâu của khuôn mặt xô lại vì phấn khởi. Tình yêu thương của mẹ ẩn trong những lo toan cơ cực đã in dấu lên hình hài như thế. Câu ca dao của ngàn đời thấm vào lòng tôi miên man không dứt:

“Lòng mẹ như bát nước đầy
Mai này khôn lớn, ơn này tính sao”

Tôi hạnh phúc vô chừng khi được còn mẹ. Ngày xưa mẹ đèo tôi đi, thì hôm nay tôi đèo mẹ bon bon trên chính con đường làng năm ấy. Vẫn tiếng cười rộn rã, tiếng cười chứa đủ tình thương yêu vô bờ. Tiếng cười mà cả tuổi thơ tôi giòn tan từ những vòng quay xe cọt kẹt. Chiếc xe đạp bình thản tựa vào bên chái bếp như dáng mẹ hiền hậu ngồi nơi thềm nhà. Biết bao mùa nhọc nhằn đã qua, chỉ có mùa yêu thương luôn ở lại…

Viết cho tháng Giêng

K hi những cánh đào phai bung nở gọi đàn bướm vàng phương xa trở về đùa vui cùng những tiếng chim chào mào lảnh lót trên những cành bưởi trắng ngát hương đầu ngõ, ấy là khi nội bảo trời đã sang Giêng. Tháng Giêng, tháng đầu năm mới, thời gian ấy có những ngày Tết rộn ràng, có mùa vui sum họp, có nắng vàng trải khắp nhân gian, có những lời chúc an lành, khang thái và có không khí lễ hội tưng bừng náo nhiệt khắp muôn nơi.

Sau ngày cất mâm, hóa vàng đưa Tết vào kỷ niệm, hình như không khí lâng lâng vẫn còn vương đọng trong lòng mỗi người. Nội bảo còn “mùng” là còn Tết thế nên nội lại chuẩn bị những thứ cho ngày lễ Nguyên Tiêu (Rằm tháng Giêng). Nội chuẩn bị làm bánh chè lam, làm đồ cúng tế ngày rằm. Nội bảo “Cúng tế cả năm không bằng Rằm tháng Giêng” ấy là dịp để nội tiếp tục những bài khấn cầu xin thánh thần, tổ tiên phù độ cho cả gia đình thêm phần may mắn đầu năm.

Tháng Giêng, vườn nội ở quê lại đầy những tiếng chim, tiếng sáo, đua nhau về đây ca hót, đùa vui, làm tổ và sinh nở. Tiếng chim hót gọi bạn đầu Xuân như thôi thúc lòng người hướng đến những điều tốt đẹp đang chờ ở phía trước.

Những con chim hiền lành, những bầy chim thơ ngây đang ríu ran gửi tặng con người vẻ đẹp của mùa Xuân đã làm thằng em tôi dấy lên ước mơ được làm thợ săn. Nội chiều nó và đã làm cho nó một cái súng cao su để săn chim. Chẳng biết năng khiếu săn bắn của nó giỏi đến đâu mà nó đi săn suốt nhiều ngày vẫn chẳng mang về được chiến lợi phẩm nào. Một hôm nó hớn hở, mừng vui chạy về nhà khoe với nội: “Cháu bắn được rồi, có tuyệt không nội”. Nhìn nó mang cái lông chim chào mào ra khoe với khắp mọi người làm tôi không thể nhịn được tiếng cười mà nói với nội rằng: “Vườn của nội chỉ thêm chứ chẳng bớt đi con nào đâu”. Thấy nội động viên: “Cứ cố gắng rồi sẽ có ngày săn được”. Trong lòng nó lại căng tràn hy vọng năm sau tài thiện sạ của nó sẽ được phát huy. Năm sau rồi năm sau nữa nó vẫn được nội làm mới cho cái súng cao su nhưng chưa bao giờ nó hạ thủ được con chim nào. Có lẽ cái lông chim chào mào năm ấy là chiến lợi phẩm cao nhất mà nó có được trong các cuộc đi săn đầy kiêu hãnh của mình.

Tháng Giêng vào mùa lễ hội, là dịp để chị tôi sắm sửa váy áo du xuân cùng bạn bè. Làng tôi có đủ bộ ba địa điểm thờ cúng: Đình An Khách có ngói âm, mái cong, đại bái, với vẻ uy nghiêm trầm mặc là nơi thờ cúng Cao Sơn Đại Vương vô cùng linh thiêng; Chùa Hưng Long có cột lim, gạch triện, hậu cung, tọa lạc sau hai cây bồ đề cổ thụ trông rất yên bình, thanh tịnh. Miếu Nhi Hạ nhỏ, gọn, xinh xắn, nằm ở giữa làng, ngày đêm không ngớt khói hương. Ba nơi thờ cúng linh thiêng này vào dịp Xuân mới được Nhân dân trang hoàng bằng hoa thơm quả ngọt, bằng tấm lòng thành kính để mỗi người con xa xứ trở về làng như được che chở, phù hộ và ban phước lành từ những đấng, bậc tối cao trên thiên đàng. Chưa đến ngày lễ trọng nhưng tôi thấy chị rất vui, rất phấn trấn khi được chọn là một trong 50 thiếu nữ vào đội khiêng kiệu, rước nước của làng. Rằm xuân đã đến, ngày hội bắt đầu, chị tô son điểm phấn, diện áo tứ thân, diện quần lĩnh tía cùng 99 nam thanh nữ tú khác rước kiệu quanh làng. Nhìn chị vui, chị tươi cười hớn hở mà lòng ai cũng nở những mầm Xuân tươi trong lòng. Biết đâu trong đám khiêng kiệu ấy đến mùa cưới năm nay sẽ có những cặp đôi nên duyên cau trầu.

Tháng Giêng năm nay rét cắt da, cắt thịt, ngoài trời chỉ khoảng 10 độ ấy vậy mà mẹ vẫn ra đồng, vẫn ươm những ước mơ xanh tốt lên thảm mạ non đang phơi phới sức Xuân bên dòng nước nguồn trong mát. Mẹ tận tụy, cần mẫn dùng đôi bàn tay yêu thương làm lều che sương giá cho các luống mạ để mạ non không bị chết rét những ngày nhiệt độ quá thấp. Những luống mạ non sống trong các căn lều của mẹ, tình yêu, hơi ấm của mẹ đã làm chúng lớn nhanh, chắc cây, khỏe lá và đợi khi nắng tỏa chúng sẽ vươn lên thành những cây lúa xanh tốt. Lúc ấy cánh đồng mùa Xuân sẽ là những cánh đồng hi vọng tràn đầy sức sống, tràn đầy niềm tin. Nhớ thuở ấu thơ được cùng mẹ ra đồng vào dịp đầu Giêng, tôi vẫn thường được mẹ cho đi bắt châu chấu, cào cào và muồm muỗm. Vào mùa Xuân giống côn trùng ấy nhanh và khỏa lắm, chúng tôi phải đuổi theo rất vất mới bắt được chúng. Chạy đuổi theo chúng rất mệt nhưng lại có cái thú của kẻ đi săn. Khi bắt được chúng lòng thấy vui vui, lâng lâng bởi có được chiến lợi phẩm mang về. Những con muỗn béo ngày ấy vẫn là nguồn thức ăn bổ dưỡng cho cả gia đình. Muỗm giang tương kết hợp với lá chanh, lá sả ăn với cơm nóng thì thực chẳng có cái thú nào bằng. Bây giờ món châu chấu được dân nhậu gọi là “tôm bay” vẫn rất đắt hàng bên các quán bia, quán nhậu lai dai.
Cứ mỗi tháng Giêng trở về trong tôi lại dấy lên những nỗi niềm xưa cũ, những nỗi niềm đã ẩn tàng trong lòng tôi từ bao năm tuổi thơ gian khó. Nội giờ đã là người thiên cổ, cha mẹ tôi đã già theo theo năm tháng. Chị tôi cũng đã lên bà nhưng mỗi tháng giêng về lại là dịp để cả gia đình tôi sum vầy hạnh phúc, để cha mẹ tôi lại kể cho con cháu nghe những điều xưa cũ, những kỷ niệm êm đềm một thời quá vãng.

Ly cà phê cuộc đời

K hi những cơn mưa cuối mùa lấn cấn không dám rơi nặng hạt như sợ làm rụng mấy cánh hoa chuông vàng mỏng manh cư trú trên chiếc ban công bé xíu mà tôi cố gắng chắt chiu tạo ra nơi thành phố ” tấc đất tấc vàng”. Khi những bộn bề công việc mưu sinh được xếp sang một góc. Tôi pha ly cà phê thơm và tận hưởng chút ít ỏi thời gian để mê đắm trong thế giới của riêng mình.

Tôi thích uống cà phê. Có lẽ lý do đầu tiên để đến với cà phê là do tính chất công việc phải dậy rất sớm, nên uống để không buồn ngủ. Và sau đó là tâm đắc với những chiêm nghiệm cuộc đời từ hương vị cà phê. Có lẽ cuộc đời con người cũng giống như hương vị cà phê vậy. Khởi đầu là hương thơm quyến rũ bước chân vào để khám phá, trải nghiệm. Những khát khao, những hoài bão như bùa ngải không thể dứt ra.

Ai cũng nghĩ cuộc đời toàn màu hồng tươi đẹp. Ai cũng nghĩ mình sẽ nhẹ nhàng thành công. Ai cũng nghĩ mình sẽ làm công việc theo sở thích, lấy người mình yêu, sinh con đủ nếp tẻ ngoan hiền. Ai cũng nghĩ mình sẽ có nhà cao cửa rộng, những bữa ăn ngon, những tiếng cười rộn rã, những chuyến du lịch để đời…

Rồi khi bắt đầu trải nghiệm cuộc đời là khó khăn, cay đắng. Như vị đắng của cà phê đầu lưỡi kẻ mới tập tành. Nếu bỏ đi không uống nữa thì bạn sẽ không bao giờ cảm nhận được vị ngọt ngào tan ra khi đã dần quen. Nếu buông tay, bạn cũng không thể nào chạm tới những thành công mà cuộc đời ban tặng.

Vị đắng đót ban đầu của ly cà phê chính là chìa khóa khai vị, để bước vào bữa tiệc tuyệt vời tại vườn Thượng Uyển thần tiên. Những khó khăn thách thức, những cay đắng tủi nhục, những thất bại bước đầu khi mới bước vào đời, cũng chính là chìa khóa thử thách. Bạn chọn tra chìa vào ổ, hay chọn buông tay?

Con người thường chỉ thích chiều chuộng những cảm xúc tích cực ngọt ngào. Trong tình bạn muốn được chân thành, có tri âm tri kỷ. Trong tình yêu muốn lãng mạn, chung thủy lâu dài. Trong công việc muốn thuận lợi nhẹ nhàng và thành đạt. Trong cuộc sống chỉ muốn bình yên không giông bão, không biến cố, không khổ đau…

Nhưng con người ta quên mất rằng, chính những cảm xúc tiêu cực mới giúp ta trưởng thành và vững vàng. Bởi cuộc sống vốn như đại dương, đâu chỉ có sóng trên mặt nước, còn có ngàn vạn cơn sóng dưới đáy sâu.
Bạn phải đón nhận tất cả những cảm xúc tiêu cực vào cuộc đời mình như một tất yếu vậy. Đón nhận và sống chung với nó, hiểu nó, thuần hóa và điều khiển nó. Khi bạn làm chủ được những cảm xúc tiêu cực, là bạn đã làm chủ được cuộc sống, bạn đã là một thuyền trưởng vững lái con thuyền cuộc đời mình vượt qua sóng cả trùng khơi.

Đừng vội vàng hấp tấp, đừng sớm đòi hỏi khi chưa đủ hi sinh. Muốn cảm nhận được vị ngon khó cưỡng của cà phê không phải chỉ một vài lần uống, hay uống qua loa như cách bạn qua loa với cuộc sống của mình. Mà phải nhấp từng ngụm nhỏ, cho vị cà phê tan từ từ, chậm rãi. Nó cũng giống như việc bạn tận hưởng những vị ngọt cuộc đời, cũng phải chậm rãi qua thời gian và những nỗ lực không ngừng. Như ai đó đã nói ” đủ nắng thì hoa sẽ nở”, trải nghiệm đủ dư vị cuộc đời ắt bạn sẽ trưởng thành, ” không thành danh cũng thành nhân”.

Mỗi người có một cách thưởng thức cà phê khác nhau. Có người thích cà phê pha phin trực tiếp trên bàn, ngồi ngắm những giọt tí tách rơi nhẹ nhàng cũng như một cách buông bỏ bao tất bật, lo toan, tự thưởng cho bản thân khoảng thời gian hoàn toàn thư giãn.

Có người thích cà phê đã pha sẵn và có thể thưởng thức liền khi hương thơm vừa mới len ra khỏi ly. Có người thích uống cà phê đen, có người cho thêm đường. Có người thích uống cà phê sữa. Có người thích uống cà phê nóng, hơi nóng bay lên hít hà khoan khoái. Có người thích uống cà phê nhiều đá, đánh tơi lên cho bọt cà phê đậu trên những viên đá, dùng ống hút hút phần bọt tơi lên ấy vừa thơm vừa đắng và béo ngậy, lại thật vui tai…

Thường ở Miền Bắc, cà phê cho rất ít đá. Nhưng ở Miền Nam, đặc biệt Sài Gòn thì đá lại rất nhiều. Chúng tôi vẫn thường vào quán và gọi ” ly cà phê Sài Gòn” là người pha chế họ đã hiểu ngay gu của khách rồi.
Tôi đặc biệt rất thích uống ” cà phê Sài Gòn”. Đơn giản vì cà phê Sài Gòn y như cuộc sống ở đây vậy. Cà phê Sài Gòn đá rất nhiều, nếu bạn chuyên tâm, liên tục thì rất sệt và thơm ngon. Còn nếu bạn lơ đãng để lâu sẽ tan đá, lỏng lẻo, nhạt nhẽo, không còn hương vị gì nữa. Cũng như cuộc sống ở đây. Con người luôn gấp gáp bận rộn, cơ hội tới là phải tận dụng ngay để vươn lên. Hoặc bản thân phải tạo ra cơ hội cho mình.

Sài Gòn là nơi bạn phải luôn sẵn sàng xông pha, đương đầu, sẵn sàng hi sinh, cống hiến. Kiểu như một người anh cả có trách nhiệm lớn trong gia đình vậy. Ở Sài Gòn nếu bạn sống chậm, rê ra thì cuộc đời của bạn cũng không khác gì ly cà phê tan đá, nhạt nhẽo, vô vị.
Một cuộc đời đáng sống cũng giống như thưởng thức một ly cà phê ngon. Dẫu có khởi đầu là những chênh vênh đắng đót thì cuối cùng vẫn là vị ngọt ngào quyến rũ làm cho con người ta say đắm, là hương thơm say lòng cả thế giới. Nếu bạn luôn sẵn sàng trong mình một nguồn năng lượng tích cực, sẵn sàng đón nhận, sẵn sàng đương đầu, sẵn sàng chiến đấu.

Nếu bạn luôn hướng về phía trước, phía ánh sáng của mặt trời chưa bao giờ ngừng tỏa nắng trên mảnh đất Phương Nam. Ly cà phê cuộc đời bạn chắc chắn không chỉ khiến bạn hài lòng, mà sẽ khiến thế giới xung quanh bạn cũng phải ngưỡng mộ, khát khao…

Đồ cũ

C ó người hỏi sao cứ giữ mãi những đồ vật cũ thế, giờ ai dùng những thứ này, để chật nhà mà có bán được đâu? Nhưng tôi đâu có muốn bán chác trao đổi gì, chỉ giữ cho riêng mình thôi. Đôi khi nhìn thấy những cũ kỹ ấy như gặp lại người bạn lâu ngày không gặp. Hồi tưởng bao chuyện xưa, kể nhau nghe chuyện đời và ngẫm suy hiện tại.

Đôi khi chạm tay vào những đồ vật để biết mình đang tồn tại trong thế giới nhiều đổi thay mà dường như mình chưa thích ứng kịp. Đôi khi tôi như chạm vào lớp lớp bụi mờ mà nhớ những ngày thơ ấu, những mùa đông mưa phùn gió bấc căm căm, run rẩy trong quần áo mỏng, ngồi hơ tay trên than hồng nướng vài bắp ngô, vùi mấy củ khoai và nghe bà đọc thơ trong truyện Lục Vân Tiên.

Bà bảo chữ hồi Bình dân học vụ quên cả nhưng thơ nhớ được vài đoạn. Đôi khi tôi ra quầy thuốc hỏi mua một hộp cao sao vàng, về mở ra xoa lên mu mắt để thấy cảm giác âm ấp nong nóng lan toả. Chẳng biết khi xưa có phải bà cũng cảm thấy thế nên thường “bôi cao vào mắt cho quang”? Nên hồi ấy mỗi lần về thăm quê tôi cũng mua vài hộp để bà vui.

Đôi khi chạm vào chiếc mõ tre chả nhớ ở đâu mà có, lại nghe cụm tre đầu dốc kẽo kịt trong mưa bay, bà chống cây gậy nhỏ nhìn theo đứa cháu đang xa dần bàn tay nhăn nheo chằng chịt gân xanh đưa lên thấm mắt…

Hôm nào đó ra phố thấy bày những đồ cũ nên tôi dừng lại nhìn mãi thèm thuồng, may ra có thể chọn mua một thứ vừa túi tiền và hợp mong muốn. Những thứ mua xong cất kỹ rồi lâu lâu giở ra. Đôi lần vui sướng lúc thở dài khi bâng khuâng hay mơ hồ tiếc nuối. Ai đâu thể “tắm hai lần trên một dòng sông” mà sông cứ mải miết băng qua ghềnh thác qua bao năm tháng để hoà vào biển cả mênh mang.

Có lần tôi nhất quyết ghé vào quán nhỏ ven hồ, được ngồi lên chiếc ghế cũ, nhìn thật gần chiếc bàn gỗ là thùng đựng đạn cũ, sờ lên mảnh tường loằng ngoằng dây leo bám, xem mấy tấm ảnh chụp những cảnh xưa người thời trước. Thầm thì bên tai lời sông Hồng hát: bài hát lênh đênh thuyền chài, bài hát dải bồi phù sa, xanh xanh bốn mùa dòng nước về cuồn cuộn đỏ, cánh buồm xa xa… Cả lần qua cầu cùng ai và những lời ước không thành…

Lần trước về quê, thấy căn bếp của nhà anh cả tan hoang, xó tôi tối âm ẩm dính đầy tro bụi bồ hóng bị dỡ bỏ. Cái cài dao bằng tre đóng lên tường, que cời, ống thổi lửa, mấy nửa viên gạch cháy lam nham đều không còn. Chiếc tủ búp phê mất kính, tay nắm khảm trai hình con chim bị đập bỏ. Trong đống gỗ xếp đầy ở kho chợt nghe thấy mèo kêu. Tôi thương mèo con đang tìm mẹ. Tiếng kêu như chìm đi trong giá lạnh, như lạc lõng giữa những đồ đạc mới sắm, tiếng kêu làm mưa giăng buồn quanh sân vườn. Lúc đó sao tôi thèm ngã vào đệm rơm, cuộn mình lại mà nhìn những lưỡi lửa đỏ hân hoan ấm nước đang reo, thoang thoảng hương mùi già… những đồ xưa vật cũ im lìm trong mắt.

Món quà của ngoại

Gió mùa đông bắc không hẹn trước, ào ạt ùa về, thổi bay vạt sấu trước cổng nhà. Tôi co ro trong chiếc áo lông, ren rén mở cánh cửa đã thấy chị hàng bánh mì ngồi đó tự bao giờ. Chị bắt đầu ngày mới từ lúc tinh sương, kêu chị tranh thủ dậy sớm bán hàng kiếm học phí cho con, buổi lại ra trường nấu ăn cho trẻ. Mùi bánh mì theo gió sực vào cánh mũi. Tôi sững lại giây lát, rồi nhanh chóng chìm đi trong những nao nao…

Tôi nhớ ngoại. Bốn mươi năm trước, ông đạp xe lên nhà tôi chơi, thăm con gái lấy chồng xa gần năm mươi cây số cùng đàn cháu nhỏ, cũng vào một ngày chớm đông như hôm nay. Trời vừa sâm sẩm tối thì ông tới cổng, chúng tôi líu ríu chạy ra như một bầy chim non: “A, ông ngoại, ông ngoại ơi!”

Chúng tôi mến ông, thì hẳn, vì ông hiền hậu lắm, nhưng còn vì lẽ khác, thế nào ông cũng có quà cho chúng tôi. Ông mỉm cười thật hiền, gỡ cái túi vải từ ghi đông xe xuống. Rồi ông rối rít mở ra trong ánh mắt chờ đợi, khát thèm của lũ cháu nghèo. Chúng tôi không rời mắt, và sốt ruột vì đôi tay đồi mồi chậm chạp lần giở túi của ông. Ông chưa mở ra, chúng tôi đã hít thấy mùi thơm quyến rũ của món quà thần thánh ấy. Ông nhanh chóng lấy ra, em út tôi gào lên sung sướng: “A, bánh mì, bánh mì, mẹ ơi, ông ngoại mua bánh mì!”. Rồi nó giật phắt túi bánh từ tay ngoại, chả kịp đợi ông nói câu gì.

Mẹ đón bánh từ tay nó, vừa nghiêm khắc nhìn, vừa cười độ lượng. Có hai cái bánh không dài lắm, bọc trong tờ báo cũ, nhưng thơm thật là thơm. Mẹ lấy dao xẻ bánh làm mười. Mẹ vừa xẻ bánh vừa dặn dò: “Nhà mình có tất thảy mười người, phần mẹ, mẹ không ăn, mẹ phần em bé nhất. Nhưng các con phải mời ông, ông đi từ đầu chiều giờ mới tới nơi, chắc ông cũng đói và mệt lắm. Còn nữa, các con phần bố một miếng, vì bố đi vỡ đất mệt nhoài, quê mình không có bánh này, lâu lắm bố cũng chẳng được ăn. Còn lại, mỗi con một miếng, nghe chưa?”. Chúng tôi dạ vâng, nhận miếng bánh từ tay mẹ. Đứa nào đứa nấy hớn hở, sung sướng lắm.

Tôi được miếng giữa, không có nhiều cái lớp vỏ vàng sậm, dai dai,giòn giòn nhưng lại nhiều ruột trắng. Bánh ông mua khá là đặc ruột. Miếng bánh nhỏ xíu trên tay cứ lép lại dần. Tôi sợ nó chóng hết nên cứ nhẩn nha ăn. Véo một miếng nhỏ bỏ vào miệng, ngậm chút, rồi mới nhai chầm chậm. Cái vị thơm ngọt, dẻo dẻo quyện vào lưỡi, rồi tan đi thú vị vô chừng.

Em út tôi nó ăn loáng cái đã xong, cứ nhìn mẹ vòi vĩnh mãi: “Mẹ ơi, con muốn ăn nữa!”. Rồi nó chạy lại, níu lấy tay ông: “Ông ngoại ơi, con muốn ăn bánh mì, con muốn ăn bánh nữa cơ!”. Nhưng bánh mì thuở ấy nào có dễ mua. Chúng tôi nghe ngoại kể, này là bánh ông mua trên đường đi. Ông đi qua lò bánh mì thì mới có, chứ quê ông cũng chưa có bánh này. Ông nói với mẹ, ông muốn mua thêm mà túi chẳng còn tiền.

Nhìn chúng tôi ăn một lát đã hết veo, lại thòm thèm đòi ăn nữa, ông áy náy nói như xin lỗi: “Bận sau lên, ông hứa sẽ mua nhiều hơn, mua cho mỗi cháu một cái thật to!”. Miếng bánh phần ông nãy giờ ông không ăn, bảo để phần cho bố vẫn còn nguyên trên đĩa, ông liền lấy véo cho mỗi đứa thêm một mẩu. Đoạn, ông đưa khăn mùi soa lên chấm mắt. Chúng tôi lớn hơn, hiểu chuyện, nên tất cả đều im lặng, tản đi. Chỉ ông ngoại và mẹ ngồi lại trên manh chiếu cũ ngoài hiên, nhìn nhau, rơm rớm. Ánh đèn dầu nhập nhoạng, tranh tối tranh sáng, nhưng vẫn đủ để tôi nhận ra, giọt nước mắt ánh lên nơi khóe mắt ông.

Ông hứa với chúng tôi là vậy, nhưng rồi thất hứa. Bởi đó cũng là lần cuối ông đạp xe lên thăm chúng tôi. Ông đổ bệnh, nằm liệt và đi vài năm sau đó.

Bao nhiêu năm đã qua, có những thứ cũng theo ông về miền mây trắng. Nhưng thật lạ, cái món quà của ông, món quà ấu thơ ấy cứ đọng lại mãi trong tôi một nỗi gì nghẹn thương day dứt. Đến bây giờ, trong rất nhiều thứ quà quê mua cho convào những ngày đông buốt giá, tôi vẫn lựa bánh mì, mà là bánh mì mộc, giản đơn như cái thuở ban đầu. Tôi không tiếc tiền để mua những thức quà xa xỉ hơn. Có lẽ tôi mua chúng như một cách lật tìm kí ức để níu kéo ngày xưa – níu kéo cái hương vị bánh mì thuở hàn vi mộc mạc, mà ngọt thơm, mà nhớ, mà thương tới tận bây giờ.

Nay giỗ ngoại. Gió bấc xao xác thổi, mùi bánh mì lại dậy lên thổn thức. Tôi ứa nước mắt, nghe nhói nơi ngực trái: “Ngoại! Ngoại ơi!…”

Những mùi hương hạnh phúc

Điqua năm tháng của đời người, thứ làm cho chúng ta hạnh phúc có khi không phải là điều gì xa xôi ở đâu cả. Đối với tôi, những ký ức êm đềm của tuổi thơ luôn làm lòng thấy dịu êm mỗi khi nhắc lại. Những hình ảnh và âm thanh luôn như thước phim chiếu chậm trong đầu, nhưng cái tôi đặc biệt nhớ đó là những mùi hương. Những mùi hương mà mỗi khi nhắc lại, ta có cảm giác như nó vẫn đâu đây, trong không gian hiện tại mà như ngày xưa cũ.

Đó là mùi hương của nồi cá mẹ kho một chiều mưa bên nồi cơm nghèo khoai nhiều hơn gạo. Mẹ kể những năm sinh tôi thiếu thốn mọi bề, thiếu từ cái ăn cho đến cái mặc. Những năm 1980 nhà tôi ăn bo bo thay cơm trắng. Cơm còn không đủ thì nói gì đến thức ăn, nhà tôi lại đông anh em nên bữa nào có cá là cả nhà mừng lắm. Mẹ kho thật mặn cho đỡ tốn, mùi nước nắm toả ra đầy căn bếp nghèo, mẹ chia cho mấy anh em phần cá còn bản thân mình chỉ ăn phần muối bám vào thành nồi do nước mắm cô đặc lại. Không biết qua bao mùa mưa như thế chúng tôi mới đầy đủ hơn, nhưng mùi cá kho ấy gắn liền mẹ, gắn liền với hạnh phúc đơn sơ thời thơ ấu.

CÙNG TÁC GIẢ

Đó là mùi khói khi mẹ đốt đám lá khô ngoài vườn, vào những buổi sáng mùa đông lạnh. Mỗi sáng, mẹ thức từ tờ mờ sáng khi tiếng gà lục tục gáy ở xa xa. Tôi nằm trong mùng nghe tiếng chổi mẹ quét ngoài vườn, chừng nghe tiếng chổi ngưng thì cũng là lúc mẹ đốt đám lá vừa gom lại. Mặt trời cũng bắt đầu nhô lên chiếu ánh sáng lên những lá trầu không còn lóng lánh những giọt sương. Tôi còn nhớ khoảng sân vuông nhà tôi lúc đó đã rất sạch sẽ, cuối vườn từng lọn khói trắng bay lên rất thơm. Hương thơm ấy tôi không biết tả thế nào, hình như nó chút mùi tinh dầu của lá, có chút mùi của gỗ mục. Mà có lẽ nó cũng như mùi khói bếp thứ mùi của nhà quê mà chỉ có những trẻ quê mới có thể cảm nhận được. Tôi thích thú ngồi sưởi cho ấm người, chiếc áo len cũ tôi mặc khi ngồi sưởi đến khi vào nhà vẫn còn vương mùi khói.

Những thứ mùi khiến tôi hạnh phúc có khi chẳng giống ai, vì nó không phải là nước hoa hàng hiệu hay những gì xa xỉ. Ai đời tôi lại thích mùi nhang trầm trong đêm ba mươi tết, hầu như đêm giao thừa nào tôi cũng thức cùng ba mẹ, khi ba khấn vái trong làn khói nhang trầm và trên ti vi đang chiếu thời khắc đếm ngược, lòng tôi luôn bồi hồi xúc động. Ngày đó nghèo đến nỗi nhang thơm cũng phải tết mới dám xài, thế nên ký ức mạnh mẽ của tôi về những ngày tết chính là mùi nhang trầm ấm áp bên bàn thờ ông bà tiên tổ. Mẹ pha một bình trà mới để ba tôi cúng trời. Mùi trà, mùi nhang, mùi tết là những gì hạnh phúc nhất mà tôi rưng rức nhớ.

Tôi cũng nhớ mùi nồi xông , phương thuốc của các bà mẹ quê ngày đó. Cứ mỗi lần anh em chúng tôi bị ốm là mẹ tôi ra vườn hái các loại lá vào nấu nồi xông. Lá me, lá chanh, lá bưởi, lá ổi, lá sả, bạc hà … mẹ hái mỗi loại một ít rồi đậy kín nấu sôi. Tôi thường sợ nóng nên hay không chịu xông, mẹ phải dụ dỗ mãi. Nhưng đến khi trùm chăn lại và mở nắp nồi xông ra từ từ, hơi từ trong nồi tỏa ra chui vào mũi, vào họng, thấm vào từng lỗ chân lông. Mùi thơm của tinh dầu trong lá làm thông đến tận phổi mang lại một cảm giác thật là sảng khoái. Tôi mê mẩn hít từng luồng hơi vào trong lồng ngực, khi nước nguội rồi còn tham lam dùng cây đũa xới lên. Lần nào xông xong cũng cảm thấy thật nhẹ nhàng, cảm lạnh hay đau đầu đều tan biến. Tôi nhớ mùi hương đó nhất những năm tôi xa nhà trọ học ở thành phố, mỗi lần bị ốm cứ ước gì có nồi xông của mẹ, ước rồi ngủ quên khi nào không biết, thức giấc thấy nước mắt ướt mi.

Đó là mùi của cánh đồng lúa chín, tôi đi học về trong nắng ban trưa. Mùi bùn bám vào gót giày, mùi cỏ non còn ướt đầm sương sớm. Nếu là ở quê thì chắc là ai cũng có những mùi hương ấy đọng trong ký ức. Còn nhiều nữa những thứ mùi làm nên hạnh phúc, đối với tôi đó là mùi của quê hương, của gia đình, của mẹ và của tuổi thơ.

Mùa lúa nương

TÁC GIẢ HỒNG VÂN

t háng Ba về, khi những khóm hoa đơn đua nhau khoe sắc vàng rực rỡ trên khắp các triền đồi, khe suối cũng là lúc mùa làm rẫy trồng lúa nương bắt đầu vào vụ.

Vào mùa trồng lúa nương, xóm nhỏ của tôi vắng hoe chỉ còn lác đác vài cụ già ngồi tựa cửa bởi người lớn, thanh niên lên nương từ lúc ông mặt trời chưa dậy. Những bàn tay cần mẫn, chăm chỉ đảo đất, rẫy cỏ. Tiếng cuốc xẻng va vào đá núi lanh canh, tiếng chim “Bắt cô trói cột” thỉnh thoảng lại vút lên giữa không gian mênh mông, tiếng nói cười của những người đi làm nương hòa quyện vào nhau tạo nên một thứ âm thanh rộn rã xua bớt đi cái vắng vẻ của núi rừng.

Chiều chiều, những đụn khói đốt nương bốc lên nghi ngút. Từng sợi khói ngoằn ngoèo bay mãi lên cao rồi tan ra lẫn vào mây trời. Trong không gian mênh mông chỉ còn vương lại chút ngai ngái, nồng nồng của mùi cỏ cháy. Những vạt nương đã được làm sạch, phơi ải, lộ ra màu đất nâu tơi xốp mỡ màng chỉ chờ ngày gieo hạt.

Khi làn mưa xuân nhẹ tênh giăng như tơ trên khắp núi đồi chính là lúc thích hợp nhất để gieo hạt. Chiếc gậy bám đầy bồ hóng đen nhức, được làm từ thân cây móc đã lên nước bóng loáng, được ba tôi lấy xuống từ gác bếp. Cha tỉ mẩn dùng con dao mỏng, sắc lẹm gọt lại đầu gậy cho tới lúc thật ưng ý mới thôi. Mẹ dỡ từ gác bếp xuống mấy cum lúa giống đã phủ đen bồ hóng đem ra vò lấy hạt. Rồi mẹ lụi cụi sàng sảy, nhặt nhạnh cho kỳ hết những hạt thóc lép. Mẹ bảo: “Lúa giống phải chọn thật kỹ thì hạt nảy mầm mới đều.”

Cha chọn ngày thích hợp làm mâm cơm cúng thần đất, thần rừng để làm lễ xuống lúa giống. Cha đi trước, tay cầm gậy móc. Cánh tay rắn chắc, cơ bắp nổi cuồn cuộn của cha nâng lên, hạ xuống đều đều. Những hốc đất nhỏ cách đều nhau dần hiện ra dưới mũi gậy móc của cha. Mẹ và các anh trai tôi theo sau, lom khom tra vào các hốc đất ấy một nhúm lúa giống. Xong xuôi, cha tôi cắm những ông bù nhìn bằng giẻ rách khắp nương để xua lũ chim, lũ chuột đang ngó nghiêng, rình mò nhặt nhạnh những hạt lúa giống nhỏ nhoi ấy. Xung quanh bờ nương mẹ rắc thêm chút vừng, xen thêm vài hạt củ đậu và khoai lang. Củ đậu, khoai lang lớn lên trong lớp mùn rác quanh bờ luôn mọng nước, ngọt lịm, mát lạnh. Chúng là thức quà anh em tôi mong đợi nhất mỗi chiều khi cha mẹ trở về sau một ngày miệt mài trên nương.

Mươi hôm sau, từ các hốc đất nhỏ ấy, những mầm lúa non lún phún xanh trông như những cây kim mảnh mai đội đất chui lên. Những mầm lúa nhỏ ấy đằm trong sương ẩm và nắng ấm, chẳng mấy chốc sinh sôi, phân nhành, đẻ nhánh, xòe lá, mươn mướt vươn lên. Màu xanh non ấy trải dài trên các khắp triền rừng thấp và phủ kín các thung lũng ven bờ con sông Đà bốn mùa nước trong leo lẻo.

Những ngày làm cỏ lúa, người dân quê tôi lên nương từ lúc ông mặt trời chưa dậy và trở về nhà khi đàn gà đã lên chuồng. Cỏ lúa là công việc vất vả nhất trong năm. Con người phải chạy đua với thời gian, với nắng, với mưa để lúa không bị cỏ dại trùm lên, úp đi. Ngày ngày, đôi bàn tay của cha, của mẹ và anh em tôi vẫn cần mẫn xới đất, nhặt cỏ, vun gốc cho từng khóm lúa. Lúa xanh mướt cứ ngày một ken dày vào nhau còn mồ hôi trên vai áo cha tôi, mẹ tôi và những những người dân quê tôi cứ hết lớp này đến lớp khác đóng thành vệt, thành mảng trắng xóa trên những tấm lưng phơi dưới chang chang nắng hè. Lúa xanh bao nhiêu, vai áo cha mẹ tôi lại bạc đi bấy nhiêu. Những bàn tay sần sùi, thô nháp bởi bới cỏ, vun đất. Những bàn tay phồng rộp, xưng vù, đau rát bởi những con bọ nẹt lúa xanh lét, gai tua tủa, béo mẫm, đung đưa vít cong theo từng nhánh lúa. Tuy vất vả nhưng trong mắt cha mẹ tôi vẫn ánh lên niềm hân hoan, vui mừng khi ngắm nhìn nương lúa sạch cỏ, những khóm lúa mập mạp ngày càng ken kín vào nhau xanh mướt.

TÁC GIẢ HỒNG VÂN

Những ngày cuối tuần được nghỉ học, tôi rất thích theo cha mẹ lên nương thăm lúa. Tôi lon ton chạy quanh bờ nương, hết nhìn ngắm sóng lúa xanh rờn cao ngang ngực, lại chui vào các bụi hoa mua ven bờ vặt vài nhành hoa tím đưa lên miệng nhấm nháp. Trưa đến, những ống nứa non vừa đủ độ dẻo được cha chặt xuống, bỏ gạo vào rồi thêm chút nước, nút chặt bằng nắm lá chuối rừng. Trong khi tôi thích thú xoay đều những ống cơm lam trên than hồng thì ba đi hái vài quả mỡ lợn, thứ quả rừng thuộc họ gấc leo vấn vít đầy các lùm cây bụi trong rừng. Quả xanh bóng, to như quả bưởi. Ba tôi dùng dao bửa đôi ra, tách lấy hạt rồi kẹp lại đem nướng. Thứ hạt mỡ lợn nướng trên lửa hồng, chín vàng rộm, dầu chảy xèo xèo, mùi thơm ngầy ngậy, vừa béo, lại vừa bùi. Bữa cơm trưa giữa rừng chỉ đơn giản vậy thôi nhưng mùi vị của nó khiến ta chỉ cần nếm thử một lần cũng khó có thể quên được. Cơm lam thơm mùi nứa non, quyện với cái béo ngậy của hạt mỡ lợn tạo ra một mùi vị rất riêng mà chỉ những người từng ở rừng mới cảm nhận được.

Cuối tháng Chín, nắng nhạt dần, tiết trời chuyển dần sang se se lạnh cũng là lúc những vạt lúa nương bắt đầu đỏ đuôi, trĩu xuống, uốn cong như lưỡi câu. Từng vạt lúa vàng xuộm, rập rờn đung đưa theo gió. Màu của no ấm ánh lên lấp lánh, trải dài dưới nắng chiều. Hương lúa chín thơm dìu dịu lan ra trong không gian. Thấp thoáng xa xa, một vài chú chim sẻ sà xuống vừa mổ mổ những hạt lúa chín vừa khẽ kêu lích rích. Cha tôi tất bật chuẩn bị cho những ngày thu hoạch lúa. Những con dao con lưỡi mỏng, sắc lẹm được cha mang ra mài lại đến sáng bóng, những chiếc đòn gánh bằng thân tre đực gài trên gác bếp được lôi xuống lau sạch bồ hóng. Ba chặt vài cây tre bánh tẻ chẻ những chiếc lạt thật dài để bó lúa.

Lúa nương cây cao, bông dài, hạt to nên người dân quê tôi không cắt cả rạ mà chỉ hái mỗi phần bông đem về. Lúa được bó thành từng bó nhỏ, các bó lúa gộp lại thành từng cum lúa vàng rực. Những chiều thu hanh hao gió, hanh hao nắng, từng cum lúa vàng xuộm kĩu kịt, thơm lừng nhún nhẩy theo từng bước chân cha tôi, anh tôi về nhà. Những cum lúa như những mâm xôi khổng lồ ấy được cha tôi lật ngửa phơi trên các sạp tre ngoài sân, rồi chất đầy trên gác bếp bốn mùa đỏ lửa. Gác bếp càng đầy, lúa càng nhiều, lòng mẹ cha càng vui bởi chúng tôi sẽ đi qua một mùa đông không lạnh, anh em tôi được chuyên tâm học hành mà không lo cái đói bủa vây.

Mẹ tỉ mẩn chọn những bông lúa dài, hạt to và mẩy nhất, tết lại thành từng túm nhỏ, để riêng làm giống cho mùa sau. Ba tôi chọn ngày đẹp trời làm bữa cúng cơm mới. Mẹ ngâm gạo, đồ xôi, giã bánh dâng cúng tổ tiên tạ ơn một mùa lúa bội thu. Ngồi quây quần bên bếp lửa bập bùng, vừa cùng nhau thưởng thức bát cơm nương ngút khói, thơm lựng, trắng ngần, dẻo quánh, ba tôi và cô bác hàng xóm vừa chuyện trò rôm rả. Khuôn mặt ai cũng thật tươi vui, thật rạng rỡ. Những vết chân chim trên khuôn mặt ba mẹ như giãn ra, mờ đi. Tất cả như quên hết những tháng ngày vất vả đã trải qua và tràn trề hy vọng một mùa lúa mới trời yên gió lặng. Niềm vui của người nông dân nhiều khi cũng thật giản đơn bình dị biết bao.

Năm tháng trôi qua. Giống lúa nương thơm dẻo đậm đà nhưng rất kén đất, đòi hỏi nhiều công chăm sóc bây giờ thưa vắng dần trên đồng đất quê tôi. Thay vào đó là những vườn cam, vườn bưởi trĩu quả. Những ngày đầu đông, trong làn sương mờ lảng bảng, trong cái rét se se bắt đầu loang trong gió, ngắm nhìn những vạt cải xanh rờn trên các triền đồi quê mình, tôi lại thao thiết nhớ về những mùa lúa nương đã đi qua khi còn ấu thơ. Mùa của thương nhớ, mùa của những yêu thương ấm áp luôn lấp lánh trong ký ức của những đứa con xa quê.

Hòa Bình, ngày 28/10/2021

Chái bếp của ngoại

Minh họa: Hồ Huy
Tôi đến với văn chương từ những nỗi buồn lấp lánh. Những lúc buồn văn chương như một người bạn an ủi, vỗ về

Tr ong ký ức tuổi thơ tôi chái bếp của ngoại là nơi đẹp đẽ nhất, ấm áp nhất và là nơi tôi được ăn nhiều món ngon nhất trên đời.

Không phải ngẫu nhiên mà tôi lại khẳng định như vậy. Những đứa trẻ thế hệ 8X như tôi ngày đó chắc hẳn rằng cũng đều có chung suy nghĩ với tôi. Bởi chúng tôi lớn lên trong nghèo khó, ba mẹ phải chạy ăn từng bữa, chúng tôi cứ thế lớn lên quẩn quanh bên chái bếp của bà.

Chái bếp của ngoại là nơi có sức hấp dẫn đặc biệt với tôi. Chái bếp cũ kỹ bằng tranh tre nhưng ấm áp vô cùng. Tôi yêu từng sợi khói mỏng manh như tơ len lỏi trên mái tranh rồi bay la đà quyện vào làn sương mờ ảo.

Tôi yêu mùi thơm lá khô ngoại nhen mỗi sớm, mùi ẩm ướt cay nồng của củi mục lúc đông sang. Tôi yêu ánh lửa hồng bập bùng và yêu cả tiếng xèo xèo phát ra từ cành củi ướt. Tôi yêu mùi thơm của bắp, của khoai ngoại nướng, mùi cơm sôi, mùi cá kho và cả mùi ẩm mốc nơi chái bếp của ngoại. Hình ảnh ấy, mùi vị ấy là tất cả những gì tinh khiết nhất, đẹp đẽ nhất mà tôi cất giữ mỗi khi nhớ về ngoại. Tôi thích cảm giác ngày bé hay ngồi trong lòng ngoại, nghe ngoại kể những chuyện ngày xửa ngày xưa. Tình yêu văn chương ở tôi có lẽ cũng bắt đầu từ những câu ca dao, câu Kiều của ngoại. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu vì sao một người không biết chữ như ngoại lại thuộc làu những Truyện Kiều, những Lục Vân Tiên, những ca dao, tục ngữ…

Tôi nhớ những ngày đông đã xa. Những ngày mùa đông lạnh giá, những cơn gió lùa trên mái tranh xuyên vào da rét căm căm, tiếng mưa rơi lộp bộp trên mái lá, tiếng nước dột chảy rỉ rả bên chái bếp của ngoại. Không biết ngày đó do dại khờ hay ngây thơ mà anh em chúng tôi mỗi lần thấy nước dột lại reo lên thích thú. Chúng tôi đâu biết rằng ánh mắt ngoại đỏ hoe, buồn mênh mang như đồng hoang cuối buổi chiều đông. Ngoại vẫn thường hay nói cuộc đời ngoại ngoài nghèo khó, vất vả và mất mát ra thì chỉ có anh em chúng tôi là niềm vui, là hạnh phúc, là niềm an ủi lúc tuổi già. Những ngày mùa đông rất xa như thế, 3 anh em chúng tôi sẽ ngồi quanh bếp lửa nồng ấm yêu thương vừa sưởi ấm vừa nghe ngoại kể chuyện vừa chờ con rô, con tép ngoại nướng dậy lên mùi thơm.

Minh họa: Hồ Huy

Lúc nhỏ, cứ mỗi chiều đi học về, nơi đầu tiên tôi chạy vào là chái bếp của ngoại. Bởi tôi biết ngoại tôi sẽ ngồi đó nhóm bếp, miệng móm mém nhai trầu. Trên bếp nồi cơm đang sôi và trong đống lửa hồng reo vui kia sẽ vùi củ khoai lang nướng thơm lừng. Câu đầu tiên tôi nói khi còn chưa giáp mặt ngoại: “ngoại ơi con đói bụng quá” và ngoại sẽ mắng yêu tôi “cha cô, chỉ giỏi ăn chực”. Và tất nhiên củ khoai lang nướng thơm lừng kia hoặc quả u mơ, trái chuối, thanh kẹo giấu trong sạp gạo sẽ là của tôi. Sau này, khi lớn lên ra thành phố học, có những chiều nhớ nhà tôi nhớ quay quắt mùi khói bếp của ngoại, nhớ dáng ngoại lui cui ngoài vườn quét lá khô, nhớ mùi trầu, mùi mồ hôi muối mặn nồng trên vai áo ngoại. Những lúc như thế tôi lại vội vã trở về. Chỉ cần về đến đầu làng thấy ngọn khói trắng la đà bay lên từ chái bếp của ngoại là lòng tôi lại thấy bình yên.

Nhiều năm sau ngày ngoại mất, mỗi khi trở về, tôi lại bần thần ngồi bên chái bếp xưa. Tôi nghe trong nỗi nhớ vọng về tiếng cơm sôi, tiếng củi cháy, tiếng ngoại mắng yêu “cha cô, chỉ giỏi ăn chực”. Ngoại giờ đã hóa thành ngọn khói trắng mang theo muộn phiền phiêu diêu tận cuối trời xa. Và tôi, dù bây giờ được đi nhiều nơi, ăn nhiều món ngon nhưng mãi mãi không có món nào ngon như các món ngoại đã từng nấu tôi ăn, mãi mãi không nơi nào ấm áp bằng chái bếp cũ kỹ, đơn sơ của ngoại suốt một thời thơ dại.

Thanh âm của Tết

N hững ngày cuối tháng chạp, khi trời chưa dứt đông, gian bếp nhà tôi luôn đượm ánh lửa hồng rộn ràng không khí Tết. Tiếng nồi xoong, bát đũa chạm vào nhau, tiếng băm thớt liên hồi, tiếng trò chuyện, tiếng cười đùa, tiếng lửa bên kiềng xèo xèo nhảy nhót. Tôi gọi đó là thanh âm của Tết.

Dường như khi người ta càng trưởng thành bao nhiêu thì lại càng hoài niệm những điều đã cũ bấy nhiêu. Lòng tôi chộn rộn nhớ nhà, nhớ căn bếp xưa, nhớ tuổi thơ êm đềm cùng mọi người trong gia đình đã bên nhau bao mùa đón Tết.

CÙNG TÁC GIẢ

Những ngày ấy, bố tôi hay tích trữ củi trong vườn về chất đầy bên chái. Bố bảo để dành cho Tết và Giêng Hai nhỡ đâu trời mưa dầm còn có mà đun nấu. Mẹ đi chợ mua trước những đồ khô; Nào miến, bánh đa nem, bánh phồng tôm, măng khô, nấm hương mộc nhĩ…cất vào tủ, vào chạn. Tôi với anh hai bảo nhau lấy tro bếp ra cọ rửa bộ ấm chén và xoong nồi, cọ đến đâu mọi thứ sạch bong, trắng tinh đến đó.

Mẹ khệ nệ bê thúng bát đĩa trong góc bếp ra cùng cọ rửa. Chiếc đĩa có hình cô tiên, vành bát có hình hoa hồng xinh lắm. Mẹ băm rau lợn dự trữ cho mấy ngày Tết, vẫn cái đòn gỗ chi chít vết dao và nhựa rau khoai xanh bám chặt. Nồi cám to bên bếp chín thơm khiến những chú lợn háu ăn ngoài chuồng ầm ĩ rít gọi. Bố rút rơm về bện thêm ổ cho gà đẻ trứng, bố lót cả xuống chiếu giường và bảo rơm ấm ngủ êm. Con trâu trong chuồng cũng nhai rơm khi trời lạnh, tôi rút rơm về góc bếp để làm lòm.

Bà tôi giữ lại hạt từ quả mướp treo lủng lẳng trên kèo bếp trồng cho mùa sau, phần xơ đem cắt thành nhiều khúc để rửa bát dần. Bố đặt ngang bếp mấy thanh tre làm giá đỡ gác rổ to, xảo và quang gánh. Từ bụi tre cuối vườn mà bố đan được rất nhiều sọt, rổ, rá, chiếc rế đựng nồi và bó đũa cùng tăm.

Mẹ treo mấy bộ quần áo của anh em tôi vào bếp cho nhanh khô, dẫu áo quần bị ám khói tôi cũng quen thứ mùi hăng hắc ấy từ lâu rồi. Con mèo khoang hết nằm lại ngồi, xém cả lông và râu vẫn chẳng rời tro bếp. Cả năm mới có mấy ngày Tết, trẻ con như chúng tôi háo hức vì được ăn được chơi nhiều. Ở quê, nhà tôi hay các nhà khác cùng làm ruộng, Tết chẳng dám ăn to nhưng cũng tươm tất hơn ngày thường chút đỉnh.

Ngày 28, mẹ rủ bác hàng xóm cùng đi mua thịt lợn. Một khúc ba chỉ to để gói bánh chưng, mẹ thái đôi khúc còn lại dọc theo thớ rồi áp chảo vàng ươm cánh gián đậy trong chiếc nồi nhôm. Xương lợn bố chặt nhỏ, xào lên đủ mắm muối cất vào cặp lồng. Có cả cân mỡ khổ, mỡ lá mẹ rán đựng đẫy một âu sành. Đàn kiến đen kéo nhau liếm láp. Bố kê bốn chân chạn đã bọc túi bóng vào bốn bát nước, kiến không tìm đường lên chạn nữa. Tóp mỡ cho vào túi bóng, để dành ra Giêng kho cá, rim tép hoặc sốt với cà chua trộn vào cơm thì ngon phải biết.

Mẹ trải chiếu ra sân, thúng gạo nếp tròn thơm, giá đỗ xanh óng vàng, lạt dẻo sẵn sàng, lá dong xanh mướt, bát thịt ba chỉ dậy mùi tiêu cay. Đôi tay bố, mẹ tỉ mỉ trong thoăn thoắt, chẳng mấy chốc những chiếc bánh chưng vuông vắn đã được xếp vào chiếc nồi. Bố đặt chéo mấy viên gạch chồng lên nhau rồi chất củi lửa bên đoạn đất trống gần bếp, nồi bánh nhà tôi đã sôi sùng sục từ tối hôm 28. Mẹ lúi húi đun siêu nước đổ đầy hai phích, anh em tôi vây quanh bếp luộc bánh. Trời rét, tay đứa nào cũng hơ vào ánh lửa, chân rung rung bên chiếc ghế gỗ nhỏ xíu chi chít mũ đinh. Bố cho thêm củi, than càng lúc càng hồng, thỉnh thoảng còn tí tách bắn ra những đốm vụn làm chiếc áo len tôi đang mặc bị thủng li ti mấy vết. Que cời than bằng tre tươi cũng cháy nhanh như củi, anh em tôi cầm nó vẽ lên thành nồi, vung nồi bánh những vệt nhem nhuốc, lúc lại chăm chú nghe bố kể chuyện năm nảo năm nào. Mùi bánh chưng cứ thơm nghi ngút theo khói nước, khói lửa khiến cái bụng tôi thấp thỏm cồn cào. Đến khi díp mắt rồi đứa nào cũng đi ngủ chỉ còn mình bố canh bếp tới hôm sau vớt bánh.
Sáng 30, mẹ cắt đôi nắm cây mùi già ngoài vườn đun một nồi nước to thơm nức cho cả nhà . Bà tôi nhấc viên đá cuội và phên tre đẹn phía trên vại dưa trong bếp đã muối mấy ngày trước đó, mùi dưa đang vào độ chín ngào ngạt. Bà ưng ý lắm, miếng trầu bà nhai mềm môi đỏ thắm. Màu đỏ còn vương lại hiền hoà trên những nếp nhăn quanh khoé miệng. Bà rót dầu hoả vào chiếc đèn và bảo rằng ngày Tết phải có đèn dầu trên ban thờ để mời ông cùng tổ tiên trở về ăn Tết trong ấm áp. Chiếc khăn nhung trên cổ được buộc lại, bà vịn tay vào bàn thờ khẽ lấy ảnh ông ra phủi bụi và nhìn hồi lâu. Mỗi lúc có con đom đóm hay con bươm bướm sẫm màu bay vào sân, vào nhà hay vào bếp lúc trời tối, bà lại thì thầm rằng ông đã về thăm nhà đấy. Tôi vẫn tin đó là sự thật cho đến tận bây giờ.

Chiều hôm 30 Tết ấy, bếp nhà tôi thơm lừng mùi canh măng, canh miến, mùi cơm tẻ, mùi xôi nếp với mùi nem rán, bánh chưng xanh rền…Bố chặt thịt gà bày lên đĩa, mẹ múc canh miến, rắc thêm ít hành hoa, bà đơm đĩa xôi tròn vành vạnh, anh trai lớn của tôi thái thịt quay từng miếng đều tăm tắp. Một đĩa giò thủ và bát thịt đông mẹ làm chung cùng bác hàng xóm nữa. Mâm cơm ngày cuối năm đặt trên bàn thờ gia tiên cùng rượu nước, bà châm hương bên ngọn đèn dầu rồi chắp tay lầm rầm khấn. Mùi hương thơm bảng lảng cứ vấn vít quanh bàn thờ, quanh mâm cơm nóng…

Bao mùa Tết trôi qua, anh em tôi dựng vợ gả chồng gần xa. Bố mẹ tôi vẫn giữ thói quen nấu đun bằng bếp củi. Bố bảo trời lạnh, cơm nấu xong bày mâm ra bếp, bố mẹ ăn luôn cho ấm. Ngày Tết, anh em chúng tôi được tề tựu đông đủ bên mái nhà, bên gian bếp ngày xưa. Mẹ lại nấu cơm, đơm xôi ra đĩa tròn vành vạnh như bà tôi lúc trước, các anh trai thịt gà, nướng chả, hai chị dâu cùng quấn nem rán, ninh miến và măng. Bố vừa treo bánh chưng vừa dặn mỗi đứa nhớ mang về mấy chiếc. Lũ trẻ con xúng xính quần áo mới tung tăng đuổi nhau dọc con ngõ, thỉnh thoảng lại ùa bên vai ông bà cười khúc khích giòn tan. Cây hoa đào rực rỡ phía đầu sân, cả nhà sum họp quây quần chuyện trò rổn rảng. Ai nấy cũng phấn khởi trong mâm cơm ngày cuối năm. Mọi người gắp cho nhau từng món ăn, tiếng nói cười râm ran trong căn nhà đầy Tết. Lửa dưới bếp vẫn cháy liu riu, ánh đèn dầu trên bàn thờ quyện vào khói nhang ấm cúng. Có hai con bươm bướm sẫm màu cứ quẩn quanh trên bốn bức tường nhà mà bay đậu. Tôi nhớ lại lời bà năm xưa, có lẽ ông bà cùng nhau trở về thăm nhà, thăm cháu con ngày Tết.

Căn bếp cũ nhà tôi bây giờ đã được lợp lại mái, những vết tường bong cũng được trát nhẵn đều. Chiếc bếp ga kê gọn một bên thỉnh thoảng mới nấu, bếp kiềng vẫn nằm vị trí ngày xưa, củi khô gọn gàng xếp cạnh, tro bếp vẫn gợn bay, khói bếp vẫn nhèm mắt cay. Dù Tết xưa hay Tết nay thì bếp nhà tôi vẫn ngày ngày đỏ lửa, vẫn rộn ràng chan chứa những hương vị của tình thân. Tết đang đến thật gần bên bếp nhà mãi ấm.

Đêm nghe tiếng vạc

T ôi chẳng biết con vạc kêu sương vì đêm quạnh quẽ quá hay nó khắc khoải kêu sương để gọi bầy trên đường thiên di về miền phương Nam đất ấm xa xôi nào đó, bỏ lại ngoài kia cơn gió bấc băng đồng cào xước thịt da, nẻo quê mịt mù sương giá bồng bềnh sau đôi cánh. Chỉ biết rằng khi âm thanh “ac ac ac …” thao thiết vọng lên giữa trời đêm cô tịch, lòng bỗng thấy trào dâng một nỗi niềm khắc khoải. Như kẻ vô tình rơi vào kẽ nứt của thời gian rồi bị kẹt lại ở đó, tôi loay hoay trong bầu trời xanh thẳm dằng dặc tuổi thơ, giữa chấp chới những cánh chim trời.

Thuở ấy, tuổi thơ tôi là hình ảnh các loài chim: mùa xuân chim én, chim sáo; mùa hè chim se sẻ, cu đất, cu cườm; mùa thu, mùa đông chim vạc… Mãi tận sau này khi những ngày thơ bé đã lùi vào dĩ vãng, cuộc sống đẩy đưa phải vùi mình vào nỗi lo cơm áo gạo tiền nơi thành phố mà dần xa rời quê hương. Tôi vẫn còn thói quen nhìn những cánh chim bay tha thiết đợi mùa về.

Sáng sớm nay, một sớm mùa đông như bao mùa đông năm cũ. Nơi tôi sống cái lạnh không riết ráo, thấu thịt thấu xương, làm nứt nẻ khô môi tứa máu như tiết trời mùa đông ở chốn quê nhà miền trung. Nhưng cũng đủ bất chợt làm tôi rùng mình trong vô thức, vì cái se buốt mang hơi hướng của sương đêm theo gió lùa qua ban công len lỏi vào nhà. Thảng hoặc tôi nghe vọng trong đêm vắng tiếng vạc kêu sương lan dài đơn độc “ac ac ac”… Buồn tênh! Rồi âm thanh ấy bị hút vào thinh không im bặt. Trong một khoảng lặng mênh mông đêm, thiêm thiếp đêm, tâm hồn như được gợi thức. Dòng chảy thời gian quen thuộc thời thơ ấu nơi quê nhà qua bao nhiêu năm đã tạm ngủ quên nay bỗng nức nở ùa về. Trong cơn miên man của hồi ức, tôi trở về những đêm mùa gặt theo ba má ra đồng dồn lúa. Dưới ánh trăng thu rót mật vàng dịu, loang loáng khắp cánh đồng. Tiếng nói cười giòn vang, những đôi chân bì bõm lội ruộng đêm cũng như ngày cứ thoăn thoắt hối hả, những vòng tay ôm ngập ôm lúa rung rinh trĩu hạt. Tiếng các bác đánh xe bò quất roi vào mông lũ bò “bem bép” thúc chúng đi nhanh hơn để chở lúa về sân. Tiếng máy tuốt lúa rầm rập ồn ã… Ngày mùa tất bật rộn ràng. Thôn xóm thơm mùi cơm gạo mới. Đêm đêm từ bầu trời trăng treo lơ lửng thường vọng đến tiếng kêu trầm ấm quen thuộc “ac ac ac” của lũ vạc đi ăn đêm. Lạ thay! Ngày đó, dưới đôi mắt nhìn đời vô tư lự, tụi trẻ con chúng tôi nghe tiếng vạc mà chẳng gợi một nỗi niềm. Âm sắc tuổi thơ chỉ ăm ắp những trò nghịch đùa con trẻ. Nỗi háo hức đối với những đêm trăng mùa gặt theo chân người lớn ra đồng là một nỗi niềm vô cùng choáng ngợp. Bọn tôi í ới gọi nhau, lăng xăng chạy đầu này đầu kia, chân giẫm mẹp gốc rạ, tay sục dưới ruộng bùn tìm cua, tìm ốc, bắt cá rô cá lóc. Hễ có đứa nào thấy được con cua con cá là y rằng mừng rú lên sung sướng đánh động để mấy đứa kia biết chạy tới. Cả bọn túm tụm sục sạo, lục tung hết một góc ruộng lên cho đến khi mình mẩy ướt sũng, lấm lem nhớp nháp và bắt gọn con cua, con cá trong tay mình mới thôi. Chúng tôi thích chí cười ha hả. Tiếng vạc trong tâm tưởng trẻ con chỉ đơn thuần như một dàn hợp xướng của thiên nhiên, không mảy may gợi trăn trở cũng chẳng có chỗ đọng lại suy tư. Và chẳng biết tự bao giờ lũ trẻ trong xóm tôi lại thuộc nằm lòng mấy câu thơ, đọc vanh vách mỗi khi nô đùa dưới trăng mà nghe tiếng vạc kêu:

“Cái vạc mà đi ăn đêm
Rớt lại trên đồng một tiếng kêu sương
Ơi nắng mày nắng lên mau
Lúa thóc đầy bồ tao đổ ra phơi”.

Mặc cho bao cõi lòng người lớn chất chứa tâm tư, những liên tưởng kiếp vạc mỏng manh sương mây nào đó. Tâm hồn trẻ con chỉ có chỗ cho ngập tràn niềm vui của đêm trăng mùa gặt; của đầy ắp chậu cua, chậu ốc và rộn ràng mùa màng bội thu; của ngày mai trời được nắng và lúa thóc sẽ giòn khô… Tất thảy đều là những âm sắc long lanh trong trẻo chưa lợn cợn đường gân ngờ vực nào ở cuộc đời, như thể những sợi dây ngờ vực chỉ hình thành và chảy trong huyết quản của kẻ đã trưởng thành.

Rồi mùa thu dịu dàng qua đi. Đông về, khi từng cơn gió bấc băng đồng, thốc liên hồi làm nghiêng ngả hai hàng bạch đàn dọc bờ sông, đập vùn vụt vào vách nhà ẩm thấp phủ rêu. Lũ trẻ chúng tôi bị cái lạnh mùa đông quật cho tơi tả, lây lất rồi cũng vươn mình lớn lên. Trong mơ giữa chấp chới cánh vạc bay, tôi thấy má ngồi móc lại chiếc áo len thủng rách tơi cũ. Mắt má thẳm sâu đăm đắm theo từng mũi đan. Ánh điện nhập nhòa vạch những sắc vàng lạc lõng trên chiếc giường tre xập xệ, như chính má gượng nở một nụ cười nhưng còn đó là nỗi đau. Nước mắt má lã chã trong ráng chiều đỏ rực ngày tiễn đưa bà ngoại về miền mây trắng, như máu đổ ngập vào lòng huyệt mộ sâu. Ngoại ra đi nhẹ tênh, bóng ngoại thấp thoáng lúc mờ lúc tỏ, tan vào trong vắt tiếng chuông tụng kinh. Ngoại ơi, ngoại ở đâu trong triệu triệu giọt âm thanh lanh lảnh đó? Ngoại từng tựa cửa bảo tôi rằng: “Đêm đông nghe tiếng vạc kêu bạt gió não nùng quá con ơi!”. Để từ ấy trong tâm hồn cô gái tuổi mới lớn, tiếng vạc kêu không còn là âm sắc trong veo trẻ thơ với nắng lên, với đêm trăng nô nức, mùa màng bội thu nữa… Mà đã trở nên nao nao tê tái, quạnh vắng một nỗi đời. Tôi đã thấy những cánh đồng trơ gốc rạ nhuốm màu nâu sẫm sau nhà. Chiều chiều khói đốt đồng cay hoài con mắt. Tiết trời vào đông, đêm dài và nặng nề trôi qua như những cơn mất ngủ. Bình minh ngày càng chậm chạp thêm và đến muộn hơn, bất đắc dĩ lắm chúng mới le lói vài tia nắng vàng úa yếu ớt. Xa xa sương như khói giăng kín mênh mông cánh đồng vừa gặt, cái giá rét làm bức tranh quê thẫm lại đặc quánh. Hình ảnh lũ vạc nhập nhòe quyện vào sương mù, lững thững từng bước chân kiếm ăn khi trời còn phủ lên mình một lớp khăn voan mờ đục sương giá. Sớm mai lạnh buốt, mưa phùn xiên xiên lất phất làm bộ lông chúng ướt mèm, cúm rúm. Cảnh tượng ấy vô tình làm thức dậy trong tôi niềm thương cảm sâu sắc. Và tôi… Đã biết rưng rưng thương cho kiếp chim trời mong manh sương mây từ đó. Cơn Bấc vẫn cồn cào quét bạc thếch đôi bờ sông. Mùa nối mùa qua đi ngoại tôi ra đi không bao giờ trở lại nữa. Má đem thương nhớ dệt lên ngày tháng cũ. Còn tôi, tâm hồn rỗng khuyết nay đã được đắp đầy nỗi buồn của sự mất mát người thân. Đêm đêm tiếng con vạc kêu “ac ac ac” như đốt cháy cả trời đông, như xuyên thủng vào căn nhà trống hoác lạnh căm. Đâu rồi dàn hợp xướng âm thanh của tự nhiên trong trẻo ngày xưa? Vạc ơi, mày kêu chi hoài, chi mãi phía nhà đã vắng bóng một người thân.

Thời gian trôi qua, khi con người ta mỗi ngày một trưởng thành, mỗi ngày một nhìn sự vật xung quanh một cách khắc khổ hơn. Tôi nhận ra rằng dù mùa thu hay mùa đông thì con vạc cũng chỉ kêu một điệu duy nhất, là ngôn ngữ của nó. Cũng như con người nói thứ ngôn ngữ của chúng ta. Lẽ tất nhiên ta không thể thay đổi ngôn ngữ của loài người bằng một thứ ngôn ngữ khác mà diễn đạt với nhau được. Nhưng theo tuổi tác, tâm hồn con người lại được làm đầy lên mãi. Chính vì vậy mà khi ta trưởng thành, khi ta đã hiểu được nỗi đau của sự mất mát. Ta nghe tiếng vạc vọng lên giữa đêm cũng giống như tiếng thét vào bầu trời mà âm thanh dội lại của nó chính là những giọt âm sắc quyền năng, xuyên thấu tất thảy, làm rách toạc cõi lòng của những kẻ có tâm hồn đang trĩu nặng tâm tư.