20 C
Hanoi
Thứ Sáu, Tháng 10 24, 2025

Lững thững… và yêu

C ó những buổi chiều, tôi ngước nhìn...

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...
Trang chủ Blog Trang 17

Một thứ quê mùa

Một ngày bình thường tháng ba rung chuông trên bầu trời lẳng lặng. Đi giữa phố phường người ta, đi giữa nhà nhà kẻ lạ, đi giữa thênh thang tháng ba chẳng phải quê nhà, những bông hoa đỏ rực ngỡ ngàng nhà quê…

Tôi nhớ ở đâu đó trên phố Tràng Thi có những gốc gạo già nua, bật những ngọn đèn màu đỏ thân thuộc, ấm lại mùa xuân, khô khan mưa phùn ẩm ướt, hợp xướng chim muông, đất trời đâu phải Hà Nội người dưng, tháng ba lung linh một thứ quê mùa.

Dẫu không phải là loại hoa quá phổ biến ở đường phố nhưng người dân Thủ đô vẫn thấy Pơ Lang là một thứ quà tặng ngọt ngào của trời đất ban những con người xa quê. Đôi khi tinh mai tỉnh giấc Mộc Miên chẳng ồn ào thắp nến giục lòng tháng ba, gọi những hồi ức về một Hà Nội cũng gần gụi như những đốm lửa ấm áp lạ kỳ.

Mỗi buổi tối trước khi đi ngủ tôi thường cho con nghe, cho con xem chương trình truyện cổ tích Việt Nam. Thú thực mới ngày gần đây chính tôi thực sự biết về gốc tích của một thứ quê mùa hoa Gạo.

Ảnh: Lê Thanh Từ

Chuyện kể rằng ở một bản nọ có chàng trai nghèo khoẻ mạnh, yêu cô sơn nữ xinh đẹp. họ chuẩn bị cưới thì trời đổ mưa, cơn lũ lớn cuốn phăng ngôi nhà và lễ vật của chàng. Dân bản trồng cây nêu để chàng lên trời hỏi sự tình. Ngày ra đi, chàng buộc vào tay cô gái băng vải đỏ, mỗi đầu có tua năm cánh thay cho lời thề thuỷ chung.

Gặp Ngọc Hoàng, chàng thưa: “Trần gian mưa nắng thất thường, cuộc sống con người rất cực khổ. Xin người xem xét lại”.
Ngọc Hoàng hỏi xem ai trông coi mưa nắng, một vị thần tâu: “Đó là thần Sấm, nhưng thần vốn ham vui nên có lúc xao nhãng”. Thần Sấm thưa: “Một mình thần không làm xuể. Xin người giữ chàng trai này lại giúp thần làm mưa”. Ngọc Hoàng chuẩn tấu và truyền nâng bầu trời xa mặt đất để người hạ giới không lên được nữa. Chàng trai đành ở lại làm thần Mưa. Nhớ người yêu, nước mắt chàng trào ra.

Lại nói về cô gái, ngày nào cô cũng trèo lên cây nêu trông ngóng. Một ngày tháng Ba, Ngọc Hoàng vi hành hạ giới. Biết chuyện, cảm kích cho tình yêu đôi lứa ngài cho cô gái một điều ước. Nàng thưa: “Xin người biến cây nêu thành loài hoa có rễ bám sâu, thân thẳng, ngọn cao để thần nhìn thấy anh ấy, dải vải đỏ biến thành bông hoa để anh ấy nhận ra thần”. Thoả nguyện, cô gái gieo mình từ trên cao xuống. Nhìn những bông hoa đỏ nâng niu linh hồn người yêu, nước mắt thần Mưa rơi lã chã. Người ta gọi đó là hoa gạo, loài hoa đỏ rực như tình yêu thắm nồng.

Ảnh: Sơn Thủy

Nghe xong câu chuyện tôi mới hiểu vì sao hoa gạo thường hay được trồng ở bến sông, đầu nước hay bất kỳ một nơi nào để người đi xa có thể lấy đó như một dấu mốc trở về.

Nhưng Hoa gạo lại là một loài hoa hiền lành đến tội nghiệp. Hoa gạo không phải là loài hoa đẹp, trái lại nếu nhìn từng cánh hoa riêng lẻ chắc hẳn ai cũng dễ dàng nhận ra cánh hoa mập mạp đến thô kệch. Hoa gạo cũng chẳng giàu có sắc đỏ, nếu nó chỉ là từng bông riêng lẻ thì màu đỏ ấy cũng chẳng đủ rạo rực mùa xuân đến thế. Hoa gạo lại không thể khoe mùa ở những cành thấp hay những vùng đất chật chội. Gạo phải đứng riêng lẻ ở những bãi đất trống để có thế vươn lên khẳng khiu. Kỳ lạ thay một bông hoa quê mùa khi tíu tít ở trên cao cùng với trăm ngàn bông hoa khác như đã tạo ra sự khúc xạ ánh sáng, phản chiếu thứ màu đỏ tươi hồng đầy đam mê như lòng một cô gái quê lúc nào cũng vồn vã một cách thái quá.

Quả thực mỗi khi ngắm nhìn những cây gạo dồn nhựa mà hừng hực cháy lên trời cao tôi lại liên tưởng tới sự trở về, sự ra đi, và những niềm tin ngóng đợi đến tội nghiệp của người nơi bến đò giang, của người nơi mảnh làng quê, của người lên hình lên bóng trên những tường vách cũ kỹ của những điếm canh chẳng biết tự bao giờ cũng gắn liền với những thân gạo.

Trở về ư? Hoa gạo ở thành phố thì gạo mới chỉ đẹp một nửa thôi, gạo thì phải ở làng, gạo thì phải ở bến sông, gạo thì phải ở những nơi mà người đàn ông nắm tay người đàn bà mắt nhìn nhau mà đò giục qua mau. Bởi vậy hoa gạo ăn đời ở kiếp với mùa xuân, thứ mùa hò hẹn, thứ mùa lứa đôi, thứ mùa ấp ủ chờ chờ đợi đợi. Và loài hoa nhiều tên gọi ấy lại phù hợp hơn cả khi đứng ở một bến xuân mà mưa bụi làm mỏng manh nhiều đi những cánh hoa dày dặn như miệng một cô gái quê mặn mà mỗi khi bậm vào nhau vì thấy cô đơn.

Gạo gắn liền với mùa xuân xứ Bắc. Ngôi làng nào cũng có một vài gốc gạo cổ thụ, mỗi năm khi xuân sang lại bung nở những cánh hoa đỏ thắm một thứ quê mùa. Hoa gạo không kiêu kì, nếu chỉ một vài bông thôi cũng chẳng đủ làm bầu trời nhớ thương nhức nhối. Nhưng hoa gạo mỗi khi nở là bung nắng, bung gió, chồi giục nụ, nụ giục hoa, hoa giục màu, hối hả và mê man, sắc đỏ như đèn của trời, như mắt của đất, như tình quê mộc mạc thấm tháp thời gian. Phải vậy chăng mà người đời gọi đó là Mộc Miên? Một thứ quê mùa như hoa gạo đã trở thành nỗi ám ảnh tháng ba, dịu dàng như thôn nữ áo nâu tần ngần sắp đặt nơi thương chốn nhớ.

Hoa gạo là giống nòi thân thẳng như ước mong của người sơn nữ, gốc gác xù xì u bướu đến cả những cánh hoa cũng mập mạp dày dặn chẳng thoát nổi một dáng dấp kiêu sa. Vậy nhưng hoa gạo đã đi vào lòng thơm dạ thảo của những kẻ quê mùa như tôi ký ức một chốn đi về.
Cuộc sống hiện đại khiến ruộng đồng làng quê và những kí ức tuổi thơ cứ ngày một vơi đi như ly trà vối chưa kịp hít hà thơm mộc đã vội quyện khói lên bầu trời lắm khi phù phiếm. Hoa gạo vô tình hay hữu ý mà như người kể chuyện thời gian bằng hình ảnh, bằng sắc màu, bằng những yêu thương vụng về gom góp những thân thuộc ngày xưa trong một thứ quê mùa làm người ta đôi khi phải nhìn lại mình trong những sắc màu lung linh phố thị. Những đám hoa bừng lên như những đốm lửa gọi những ai đang bộn bề lo toan nơi nảo nơi nao trở về. Trở về bầu trời của chính mình.

Buổi chiều nay, tôi trầm ngâm như bao buổi chiều tạc vào đăm chiêu nét mặt, tôi tự hỏi cổ tích có thực ngoài đời. Liệu trên thế gian này có người đàn ông nào nỡ lòng bỏ người đàn bà của mình để can tâm ở lại quyền uy, và liệu có người đàn bà nào Vọng Phu hóa đá hay chỉ đơn giản làm một cánh hoa làm một đốm lửa thắp lên giữa bầu trời mà nhân gian còn đắm đuối mộng mị lầm lạc vô thường. Có can tâm không hay cổ tích vẫn chỉ là cổ tích?

Trở về với thực tại, thôi những hoài nghi, buông bỏ những nhọc lòng, tôi lành lặn tháng ba. Hoa gạo thì vẫn là hoa gạo thôi, mộc miên thì vẫn là mộc miên thôi và bầu trời đỏ ối. Ai nhớ đường về? Ai quên đường về? Ai mua đường về? Ai bán đường về? Một thứ quê mùa có giúp tôi là chính tôi?

Biển quê

Tất cả những ai lớn lên được đều mang theo hoài niệm thơ ấu. Ngay cả những người hối hả chạy theo dòng đời cũng chỉ là tạm quên, tuổi thơ luôn khu trú một góc khuất nào đó thôi. Mình thường chia sẻ thật nhiều với độc giả những người bạn ngày xưa, những làng quê ở Hoài Ân, Hoài Nhơn, bởi một lý do những miền quê mộc mạc, những tháng ngày nghèo khó đã nuôi dưỡng tâm hồn mình, nuôi mình lớn lên...Bùi Duy Phong

L ang thang dọc theo con lộ phẳng lì sát bờ cát trong những ngày chúa xuân đã gõ cửa muôn nhà, biển không còn dữ dội ồn ào mà chỉ thấy dịu êm lặng lẽ khi đất trời đã sang mùa. Suốt chiều dài hơn 3200km từ mũi Cà Mau đến địa đầu Móng Cái, có biết bao bãi bờ mà vẻ đẹp của nó làm mê hoặc trái tim người yêu biển.

Chẳng khác nào những nàng tiên cá sau khi vẫy vùng cùng sóng nước nằm phơi mình dưới ánh nắng dịu nhẹ lúc mùa sang, những bờ cát dài cứ lồ lộ dáng kiêu sa kỳ vĩ của mình làm đắm say lòng người. Là người con của vùng duyên hải, tôi yêu bãi biển nho nhỏ quê mình đến lạ kì. Mỗi khi xa vắng hơi lâu, tôi lại muốn chạy ào đến bên nó để được nằm sóng soài trên bờ cát trắng phau mà nghe những con sóng vỗ về bì bạch vào bờ đá, để được đắm mình vào làn nước mát lạnh của đại đương bao la…Ôi Lộ Diêu! Nàng tiên cá giáng trần của Hoài Nhơn, Bình Định.

Áng chừng cách đây tầm hai mươi năm, cái tên của vùng biển này vẫn còn xa lạ đối với nhiều người. Khi ấy nàng tiên cá Lộ Diêu gần như tách biệt với thế giới bên ngoài bởi muốn ngắm được nàng ta phải vượt qua dãy núi cao vút trườn ra sát ngoài bờ cát bằng con đường đèo cheo leo. Con đường ấy là lối mòn giao thương qua lại của người dân làng chài. Những đôi bầu mắm, những gánh cá tươi roi rói cứ lắc lẻo trên vai của những người phụ nữ mà vượt đèo để đến với mọi người. Những chiếc xe máy Minsk với đôi giỏ thồ như làm xiếc trên cung đường độc đạo ấy. Lộ Diêu tựa như cô gái dậy thì nhưng chưa biết chăm sóc vẻ kiều diễm của mình. Cái đẹp vốn có tự bao đời mà chẳng cần phải tỉa tót. Nhìn từ trên cao, bờ cát dài trắng phau như vầng trăng lưỡi liềm rơi từ trên bầu trời đêm nào đó rồi nằm lại nơi đây mãi mãi. Vầng trăng ấy cứ nằm im để cho những con sóng lăn tăn mà vỗ về, mà rì rầm suốt đêm ngày. Chúng cứ mãi quấn quýt bên nhau kể cho nghe những câu chuyện về đại dương mà chưa biết bao giờ đến hồi kết cuộc. Gành đá nhấp nhô nhoi mình ra biển như muốn vui đùa cùng sóng nước. Chúng đứng sừng sững cho bao con sóng mơn man mỗi sáng, mỗi chiều.

            Vào mùa nước cạn, đám rêu xanh chẳng biết từ đâu bám đầy trên bề mặt. Gành đá khoác lên mình tấm áo choàng xanh rì, mượt như nhung nhô lên khỏi mặt nước tạo nên bức tranh đẹp đến lạ thường. Từ lúc ba bốn giờ sáng khi mặt biển còn phủ một lớp trắng xóa chưa rõ mặt người, những nghệ sĩ nhiếp ảnh đã lội bì bõm trong nước tìm chỗ đặt chân máy để lúc bình minh vừa lên kịp thời ghi lại những khoảnh khắc đẹp nhất của mùa rêu Lộ Diêu. Ngôi làng chài nằm vắng lặng dưới chân núi nghe biển hát tự ngàn đời. Những ngôi nhà đơn sơ chen chúc nhau theo nhiều hướng quấn quýt, tương trợ lẫn nhau mỗi khi biển cựa mình thét gào hay lặng im cho những cơn gió từ đại dương mênh mông thổi vào ve vuốt. Khi xưa trong những ngày hè nơi miền trung nắng cháy da người này, tôi và đám bạn rủ nhau đi Lộ Diêu để được ngắm nhìn và giỡn đùa cùng nàng tiên cá. Hành trình dài và vượt qua con đèo cao ngất ngưởng đủ làm cho đôi chân dù có khỏe đến mấy cũng phải rã rời. Nhưng mọi mệt mỏi sẽ tan biến nhường chỗ cho sự háo hức choáng ngợp lòng mình khi ta vừa chạm đỉnh đèo. Mở ra trước mắt là màu ngọc bích của biển cả trải dài đến ngút ngàn tầm mắt. Rặng dừa xanh rợp bóng ngôi làng chài ven bờ như nét cọ của người họa sĩ quệt một đường cong mà đích cuối là cái gành đá nhô ra biển như một điểm nhấn cho bức tranh phong thủy hữu tình. Chúng tôi cứ muốn chạy thật nhanh để được ào xuống mà vẫy vùng trong làn nước trong veo mát lạnh, để được bờ cát trắng phau mịn màng kia cứ bịn rịn níu lấy bước chân mình. Bởi giao thông gian nan hiểm trở nên khi ấy nhiều trẻ em nơi này cũng dừng lại sự học của mình ở ngôi trường làng mà bám biển mưu sinh. Những tình nguyện viên lại trèo đèo mang cái chữ đến vùng biển tuy không xa nhưng cách biệt này. Ánh đèn dầu đêm đêm vẫn cháy cùng tiếng đọc bài với hy vọng một ngày nào đó nàng tiên cá Lộ Diêu sẽ bừng tỉnh giấc ngủ dài của mình bên bờ biển xinh đẹp.

Năm 2001, con đường đèo quanh co, khúc khuỷu được mở rộng và hạ thấp độ cao. Lộ Diêu trở mình sau bao tháng năm dài lặng lẽ. Ngôi làng chài giờ nhộn nhịp hơn với khách thập phương đổ về mỗi ngày khi giao thông thuận lợi. Những hàng xe nối dài bên bờ cát những chiều hè. Nhiều hàng quán mọc lên phục vụ cho nhu cầu của du khách. Những ngôi nhà mới cao thấp nhấp nhô dưới bóng dừa xanh mát. Một lần tôi đưa những người bạn cùng lớp đại học của mình cắm trại picnic ở Lộ Diêu, cô bạn định cư ở Mỹ về lâu ngày được đắm mình trong con nước Biển Đông chẳng muốn lên bờ. Cô nói biển ở gần nơi định cư đục lắm chứ không như ở Việt Nam mình. Lúc trước khi bóng nắng chưa kịp tắt, dù có yêu biển cũng vội vã vượt đèo cho kịp kẻo trời tối thì giờ nhiều bạn trẻ, nhóm gia đình đã thức thâu đêm cùng biển. Còn gì thú vị hơn khi được nằm bên đống lửa nhóm lên trên bờ cát cảm nhận làn gió từ khơi xa thổi vào mơn man làn da và nghe sóng biển cứ từng lớp, từng lớp xào xạc xô bờ. Men rượu quê cùng thứ hải sản không thể tươi hơn nơi đây làm ta lâng lâng hay vẻ đẹp của cô gái xuân thì Lộ Diêu làm ta say không biết nữa. Tiếng guitar của một bạn trẻ nào đó cắm trại trên bờ cát văng vẳng tan vào màn đêm bàng bạc trên bãi vắng nghe da diết lắm. Câu hát “Tiếng sóng xô bãi cát, tiếng biển xanh đang hát, tiếng sóng ru êm biển hát khơi xa…” trong bài bài hát “Ru em bằng tiếng sóng” của một chị trung niên đi dã ngoại cùng mấy người thân trong gia đình ngân nga cứ bị làn gió đêm xô đi lúc rõ, lúc nhòe như tiếng rì rào xa gần của rặng phi lao còn sót lại ven bờ. Ta chẳng thể chìm sâu giấc ngủ vào lúc bình minh khi những con tàu nhỏ đánh bắt ven bờ cập bến. Tiếng lao xao mua bán hải sản nhộn nhịp. Những rổ cá lấp lánh ánh bạc được đưa vào bờ để lên đường cho kịp phiên chợ. Có những hôm tôi cùng với những người bạn thể dục bằng xe đạp gò lưng trên con ngựa sắt vượt đèo tắm biển đón bình minh và thưởng thức hải sản tươi ngon nơi đây. Cảm giác thật là tuyệt khi được ngâm mình trong con nước triều dâng cảm nhận cá bơi đụng dưới chân mình. Tôi ước mong sao nàng tiên cá Lộ Diêu mãi phô diễn vẻ đẹp tự nhiên của mình để du khách thập phương được ngắm mà không bị người ta “thẩm mỹ” quá mức.

Trong những năm chiến tranh, ngôi làng chài nằm dưới chân đèo lại là một căn cứ cách mạng vững chắc. Đây là nơi cập bến của những con tàu không số chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền nam. Năm 1999 khi còn làm công tác Đoàn, chúng tôi tổ chức chuyến cắm trại về nguồn đầy mạo hiểm khi cả trường rồng rắn khiêng vác lỉnh kỉnh đủ thứ vượt đèo về với địa chỉ đỏ. Chuyến đi để lại nhiều ký ức đẹp cho nhiều cô cậu học trò mà giờ đây cũng đã bắt đầu tuổi trung niên. Đến Lộ Diêu hôm nay ta còn có một địa điểm để check in lý tưởng khi di tích lịch sử tàu không số vừa mới được Bộ tư lệnh hải quân đầu tư xây dựng to sừng sững ngay dưới chân đèo. Nó như một cột mốc cho các thế hệ hôm nay và mai sau soi rọi vào đó mà tự hào, mà gìn giữ lấy biển trời thiêng liêng của ông cha ta từ ngàn xưa để lại. Tôi từng thấy những du khách cao nguyên khi được về với biển họ không muốn lên bờ mà mãi đắm mình trong nước vì hiếm có dịp. Một cô gái Lào, đất nước không có biển đã rơi nước mắt nuối tiếc khi thấy những vùng biển của ta bị ô nhiễm thì tại sao ta không biết chăm sóc những nàng tiên cá tuyệt mỹ mà thiên nhiên ban tặng cho mình? Hãy gìn giữ và khai thác môi trường biển cho ta và cho con cháu muôn đời sau.

Tiếng sóng của biển Lộ Diêu mãi xô bờ tung bọt trắng xóa mang những băn khoăn của một người yêu biển như tôi hòa vào đại dương mênh mông. Bờ cát cứ như níu lấy chân mình lúc chia tay khi hoàng hôn tím sẫm loang mặt nước. Nàng tiên cá Lộ Diêu cũng bắt đầu cựa mình đưa những con tàu nổ máy vượt sóng cho một chuyến đánh bắt đêm nhiều hứa hẹn. Lộ Diêu ơi! Ta phải lòng nàng rồi đấy nhé!

Mình viết văn không phải để trở thành nhà văn mà chỉ đơn giản là ghi lại cảm xúc từ những chuyện quanh mình, từ những va đập trong cuộc sống để chia sẻ cùng mọi người. Và khi còn xúc cảm, còn biết đau, biết thương, mình còn viếtBùi Duy Phong

Hà Nội tình Xuân

Hà Nội đã vào đông từ lâu, sông Hồng như nghiêng thêm vào phố. Ngọn gió bấc nào mải miết lùa rất sâu từng cơn… từng cơn. Ta mong xuân tinh khôi dẫu lòng chưa trang điểm, lòng xuân căng lồng ngực mới với những khát khao.

Ta trở về đây, nơi con phố, nơi cây bàng đang mùa thay lá đỏ. Liệu đâu đây còn gieo lên vạt nắng, đón chờ từng bước ta trở về? Rét mùa đông Hà Nội, rét chẳng của riêng ai. Rét như lưỡi dao sắc, từ tầng không cứa sâu vào trong phố. Lòng đã lạnh, càng thêm lạnh. Mặt Hồ Tây, ngây ngây sóng, lăn tăn, gió không thôi vi vu. Bảng lảng…mờ mờ sương giăng mặt nước. Sóng lao xao…chan chứa, miên man miền xưa cũ, nhịp thời gian thêm day dứt gõ vào hồn. Có vòng tay nào che chở cả mùa đông, xào xạc phố mong chờ từng con nắng, hong ấm phố. Kia là đường cong vòng theo lòng phố, như dang tay đón ta trở về.

Ta muốn lên Hàng Cót, rẽ về Hàng Than mong rực cháy lửa đam mê. Liệu nồng nàn còn đó ở Hàng Vôi, khi rét về run run trong mắt? Thấy Hàng Gai xắt lại nỗi niềm, lòng chạnh thêm đau, tình đầu Hàng Ngang bỗng dưng nghẹn ngào chẳng đặng. Ta nghe hào hùng Hoàn Kiếm, giục giã đền Ngọc Sơn, nơi cụ Rùa trăn trở với nhớ thương, đến Tháp Bút nơi ngàn năm mãi viết…

Ta muốn đứng trên cầu Long Biên ngậm ngùi nuối tiếc, nhìn dòng sông Hồng sóng cuộn trào rên xiết, xuôi theo dòng để biết, bao nhiêu nước đã chảy qua cầu. Ta muốn nhìn ra xa thật xa, kia là bãi ngô lên xanh rì trên cát trắng mùa xuân. Lòng bâng khuâng nhớ…

Có nỗi nhớ nào, cuộn trào để bùng lên như lửa? Có hối hả nào, có khát khao nào để từng đêm, từng đêm sưởi ấm đôi bàn tay?Sưởi ấm trái tim, xoá tan đi niềm cô quạnh, để về với sẻ chia một đỗi chân thành.

Vài hôm nữa, ta sẽ xa Hà Nội, biết bao giờ gặp lại. Ta nhớ Hà Nội cả lúc trời mưa, lúc nắng nhạt rơi thầm lặng. Cơn mưa vừa dứt, cơn gió đi ngang chỉ còn bụi phố. Ta không còn gom suy tư từ xa, không phiền muộn đến ngập lòng, bởi Tình Xuân hé nở.

Ta muốn gửi vạt nắng của mùa Xuân cũ, hong ấm những ngày Xuân sang, khi trời đất vẫn ngâm mình trong màn mưa lê thê đến não nề. Ta muốn gửi câu hát của mùa Xuân cũ, khi Xuân này giai điệu không đủ rực lửa đam mê. Ta nhớ tới mùa Xuân xưa xanh thắm, lúc én nhạn bay về, đất trời vẫn còn mải miết hoan hỉ giao thoa. Lòng Xuân vàng ươm cùng sắc nắng ngọt lịm, hương dịu nhẹ mơ màng.

Xuân nay về rồi, sao Xuân chẳng tự tin, ngại đông, vẫn phải dựa vào chiều bởi lòng khao khát nắng. Những cơn mưa phùn ngả lòng mình chờ đợi. Xuân xanh tươi ngàn lộc biếc hoan ca. Xuân sẽ thắp lên giai điệu thầm thĩ, ghé sát tai nghe ong bướm thủ thỉ, ủ men say khắp chốn mọi miền. xuân ơi hãy vén màn mây cao mãi. Để trời Xuân thêm cao vời vợi…Mong đợi Xuân về lộc biếc sẽ hồi sinh. Để bản tình ca giao mùa ngân ngấn cất, xuân rộn ràng từng giai điệu xuân non. Nhành lộc kia gọi nắng tới bên thềm.
Ta mong xuân tinh khôi dẫu lòng chưa trang điểm, lòng xuân căng lồng ngực mới nỗi khát khao. Xuân rung lên cất lời tươi trẻ, nhẹ nhàng xuân, đàn én chao nghiêng…

Đêm nay hoa bưởi dậy thì

Tôi là Lê Phương Liên

Thành viên của Tản Văn Hay từ 23 tháng 8, 2020

M ột sớm xuân lang thang, bất chợt gặp gánh hoa bưởi bán rong trên đường Lán Bè. Nhìn trang phục áo cánh nâu với chiếc khăn đội đầu kiểu mỏ quạ che kín mặt, chỉ hở đôi mắt lá răm, tôi dám chắc chị bán hoa từ Thủy Nguyên sang. Dừng xe, tôi hỏi chị. Chị nhận ra tôi, hóa ra là người quen. Ngày còn đi làm, tôi thường hay mua na của chị ở Ngã Sáu, đường Điện Biên Phủ. Na Thủy Nguyên vốn ngon nhất đất Hải Phòng.

Hai gói hoa được chị bọc trong lá chuối xanh mướt, tôi mang về để một gói trên ban thờ, một gói dành ướp bột sắn dây. Chắc tâm thành nên khi thắp hương xong xin lộc, tôi thả đĩa hoa vào nồi nước gội đầu, gội xong thấy đầu óc nhẹ nhàng tâm vui thanh thản.

Hoa bưởi về khi xuân đã vãn. Màu trắng tinh khôi, hương thơm dịu dàng của hoa đánh thức trái tim thiếu nữ đã bắt đầu biết bâng khuâng xao xuyến, biết làm duyên. Đánh thức những hoài niệm của người già với giấc mơ quá vãng…

“Đêm nay hoa bưởi dậy thì/tỏ cùng em những vân vi tháng ngày.”*
Đi dưới làn mưa phùn mỏng như sương khói, hương bưởi len vào lòng tôi mùi thơm thuần khiết.

Hương hoa bưởi dắt tôi về những chiều hong tóc bên hiên nhà. Sau khi được bà kê ghế và tưới những gáo nước thơm mùi hoa bưởi lên mái tóc dài. Bà vừa gãi đầu cho tôi vừa thủng thẳng:”Mài thì không xinh, dưng được cái tóc dài da trắng kéo lại”.

Bà đi xa đã mấy chục năm, tôi vẫn không thể quên dáng bà mỗi tháng ba về. Không quên cái rổ thưa bà ra vườn hái hoa để ướp bột sắn và thêm một chùm hoa vào nồi nước gội đầu cho các cháu.

Suốt những ngày mùa đông, sau khi đã dâng cho đời những trái vàng mọng nước. Cây bưởi lặng lẽ cần mẫn hút từng dòng nhựa sống, tự chăm chút cho mình. Khi mùa xuân đến, cây như bừng tỉnh, lá non mởn xanh biếc. Từng chùm nụ tròn tròn be bé lấp ló đầu cành. Và rồi khi làn mưa bụi của những ngày đầu xuân giăng giăng trên cành cây ngọn cỏ, là lúc bưởi trổ bông.

Trong tiết trời nắng ấm, những nụ bưởi to tròn bung nở thành từng chùm hoa. Không rực rỡ như các loài hoa khác, hoa bưởi lặng lẽ chọn cho mình màu trắng tinh nguyên. Những cánh hoa muôn muốt như ngón tay mềm ôm trọn sắc vàng ươm của nhụy. Cái vẻ đẹp mộc mạc dân dã ấy đã chứng kiến bao tình yêu đầu đời của trai gái quê tôi. Hoa mỉm cười thánh thiện trước những câu chuyện của mấy cô gái sắp đến tuổi cập kê:” Khi cầm tay nhau thì có gọi là yêu không nhỉ?”

Ôi cái thời mây chua khế ngọt ngày xưa ấy, dễ mấy ai quên…
Thanh Hà quê tôi ngoài vải thiều nổi tiếng còn có giống bưởi đào đặc biệt. Ngày ấy chiến tranh nên hoa trái các vùng miền chẳng dễ giao lưu. Chỉ biết khi các cô chú ở phố về, họ thường đặt mẹ tôi mua bưởi đào để mang đi. Trái bưởi không to lắm, nhưng có mùi thơm ngọt đậm đà. Sau lần vỏ vàng là những múi bưởi hồng đào mọng nước.

Vườn nhà tôi rộng. Mẹ trồng đủ các loại cây. Cây dừa soi mình bên bờ ao, cây cau nghiêng bóng bên bể nước, cây mít cây vải cây cam và một vườn chuối tiêu xanh mướt…

Năm1967, trước khi lên đường vào Nam chiến đấu, cha tôi lúc bấy giờ là huyện đội trưởng, mang về một cây bưởi đào. Cây chỉ bé ngang tầm ngực tôi nhưng đã có hoa và cả quả. Bà nội tôi nhìn cây bảo:” Bố mài khéo chọn, cây nài đúng bưởi tứ quý”.

Rồi chiến tranh khốc liệt hơn. Cha tôi biền biệt không tin tức. Mỗi mùa hoa bưởi về, bà tôi thở dài. Mẹ tôi nhặt từng bông rụng để trên bàn. Đêm đêm mẹ soạn giáo án, hương bưởi dịu thơm len lỏi khắp nhà. Tôi tỉnh ngủ nhìn qua màn, chắc là mẹ lại nhớ cha…

Mùi hương ấy là một phần không thể thiếu của lũ trẻ ở nông thôn. Mấy chị em tôi thường cài hoa lên tóc, tước dây chuối xâu hoa thành chuỗi vòng đeo cổ làm cô dâu. Rồi đám cưới, đám cưới không có chú rể. Không sao, đã có lũ gà nhiếp mơ và mèo tam thể sang mừng. Mấy ông anh mũi thò lò còn mê say những trò  nghịch ngợm.

Họ chẳng bao giờ thích nhặt hoa rụng như lũ con gái, mà thường trèo cây bẻ cả chùm nụ hoa to tướng. Có lúc còn lấy súng cao su bắn vào vòm hoa bưởi, làm tơi tả những chùm hoa non nớt. Tôi chạy vào mách ông. Ông cầm chổi lá dừa đuổi theo, các anh tôi chạy tá lả sau khi dứ dứ nắm đấm về phía tôi.

Rồi theo mùa hoa tôi lớn dần. Thôi trò đám cưới mà thường lặng lẽ một mình dưới gốc cây, tìm nhặt những bông còn nguyên vẹn, gom đầy vạt áo, đem về gói trong khăn mùi xoa để lên bàn học. Mùi hương thoang thoảng giấu giùm tôi những điều thầm kín…

Cho đến một hôm, dưới gốc bưởi này, anh lặng lẽ nắm bàn tay và cài lên tóc tôi chùm hoa bưởi hái ở vườn nhà. Đêm ấy hoa thảng thốt thơm… Bây giờ, khi có quá nhiều bận rộn, bởi những lo toan cuộc sống. Tôi không còn thời gian để cất giữ hoa bưởi cho riêng mình. Cũng ít khi gội đầu bằng hoa bưởi. Trong phòng tắm đủ loại dầu gội tây ta. Nhưng chẳng có mùi thơm nào sánh bằng hoa bưởi.

Tháng ba về quê, nhìn cây bưởi già trong vườn dường như trẻ lại, mưa xuân lất phất, những búp hoa như những ngón tay nhún mình tỉnh dậy. Tôi biết, chỉ đêm nay thôi. Hoa sẽ dậy thì…

*Từ bài thơ cùng tên trong tập thơ” Độc thoại sen”.

Lời thì thầm của những đôi tay

Gió mùa đông bắc tràn về kèm theo mưa rắc rây, nặng hạt. Cái rét thẩm thấm dần trên từng nóc nhà, trên từng ô cửa. Phố thưa người bên tàng cây thiếu ngủ cả đêm qua. Gió lách nhẹ, trượt dài bên những khe cửa sổ lùa vào căn phòng nơi tôi ngồi đếm nhớ trên ngón tay mình. Đôi bàn tay im lặng. Từng cuốn sách im lặng. Kéo chiếc chăn đắp hờ lên ngực, nghe hơi thở miên man. Ấm áp là những nghĩ suy tháng năm xa, mùa cũ. Ở đó có lời thì thầm của những đôi tay.

Từ lúc sinh ra những đôi tay đã biết đến giọt cười trong mắt mẹ, lời ấm áp, thủ thỉ tình cha. Đôi tay làm quà, đôi tay chực khóc. Trong cơn vượt cạn, “sinh nặng đẻ đau”, đôi tay làm dịu vết rạn thịt da. Ai được sinh ra, ai bùn đất, áo nâu, rơm rạ. Đôi tay tất tả trong những vun trồng, đâu nề hà khó nhọc. Đôi tay cha cất nóc, đôi tay mẹ quyện hơi ấm ổ rơm. Và tôi ngọt giấc êm từ khói quê, đồng bãi. Cũng như thế, tôi là người đầu tiên chìa đôi tay người cha đón lấy tâm hồn bé nhỏ, lọt thỏm nâng niu, xúc động của đứa con đầu. Tôi còn nhớ như in lời bác sĩ vang lên từ phòng sinh: xin mời người nhà sản phụ… cháu trai, nặng… chúc mừng gia đình! Đôi tay tôi cũng trưởng thành từ đó, cất lên từ đó. Biết run rẩy, xúc động, đung đưa, vỗ về. Đây võng nhớ đưa nôi, đây lời ca dao ngọt ngào, êm ái. Đôi tay có những đêm tê cứng không nhấc nổi. Người mẹ trẻ trở mình đặt gánh mỏi, ôm con. Hơi ấm thoáng qua xoa dịu mỏi mòn. Những đôi tay chụm vào nhau làm đầy giấc mơ, làm đầy hạnh phúc.

Trong tiếng nhạc vừa cất lên: “Ru mãi ngàn năm từng ngón xuân nồng, bàn tay em năm ngón ru trên ngàn năm”. Đôi tay mang theo ước vọng, cả những hồi tưởng, hồi sinh. Đôi tay ru đời, đôi tay ru người. Hình bóng người con gái ru tuổi xuân, lặng ngắm tuổi xuân. Và có cả giấc mơ giấu tuổi, đắm chìm sâu cuối nhớ thương. Đôi tay của mẹ cha cho từ ấy hát lên, cất lên, từ ấy dặm trường. Cũng bởi: “ngày mai trong đám xuân xanh ấy/có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”. Những đôi tay như “lời ru buồn nghe mênh mang, mênh mang, sau lũy tre làng khiến lòng tôi xốn xang”. Những đôi tay dự cảm. Rằng một ngày mai tần tảo, năm dài tháng đặng vì ai. Những đôi tay rửa bát, quét nhà, lau sàn… Những đôi tay giặt giũ, phơi phóng một chữ “tình”, “như mây xuống phố khoảng trời áo bay”. Đôi tay thắp lửa, đôi tay đảm đang chăm lo, vun vén. “Vì yêu mà cưới”, vì những điều không thể nói, chỉ có âm thầm, lặng lẽ, hi sinh.

Mẹ tôi vẫn bảo: “bàn tay còn có ngón dài ngón ngắn”. Cũng như thế, cuộc sống không có sự hoàn hảo. Chỉ có sự vun vén từ những đôi tay. Đôi tay mẹ tôi không chỉ nâng giấc đưa nôi mà còn thô ráp bao lời đường xa gió bụi. Tay mẹ chai cả mười ngón. Những vết chai khắc khoải dặm trường, ngân ngấn gió sương. Cái cào, cái cuốc, cái liềm… rung lên. Trong hơi thở cỏ mềm, trong xanh tốt lúa êm là đôi tay cần mẫn vun trồng gối vụ. Những ngày nắng cháy, hanh hao, đôi tay sạm đen, nứt nẻ kiệt cùng. Đôi tay nhặt lấy những sợi rơm nếp, bện chặt thảo thơm. Hạt thóc lép nào còn dính lại chưa muốn rời ra. Chiếc chổi quét nhà, gom từng khóe bụi. Đôi tay lầm lũi, nhặt ánh lửa hồng. Trong đôi mắt ấy, đôi tay là cả dằng dặc mùa đông.

“Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm
Bầm ơi có rét không bầm
Heo heo gió núi lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non”.

Dường như những đôi tay không chỉ thắp lửa mùa đông mà còn lạnh cóng, lớp da tay nheo lại, trắng bệch bám lấy xương thịt. Ôi đôi tay nhăn nhúm bám bùn, men theo dặm dài hơi thở lúa hát. Cáu bẩn, phèn chua đâu có là gì. Đôi tay ấy vẫn run lên mỗi khi gió bấc, sương mờ. Đôi tay ấy hằn những mùa đông đói lòng, áo tơi thân cò đồng xa quãng vắng. Lời thì thầm theo chiếc nón mê đội đầu cụp xuống soi bóng nước già nua. Mẹ ta gân guốc, chạm từng khắc khoải lạnh mùa.

Trên nóc phố thị thành, mùa đông vẫn phả gió vào từng ấm áp bên đủ đầy thinh lặng. Mưa đông vẫn trơn trượt bám dính vỉa hè. Có đôi tay quệt nước, đưa chiếc chổi tre quèn quẹt. Ai thấy những lầm lụi, lo toan về ngang qua phố. Ai thấy đôi tay vẫn bao năm khoảng hở. Chẳng có chiếc găng tay nào che chắn nổi màn mưa. Bởi đôi tay vẫn thế: thiếu thừa. Biết giấu vào đâu, để trong lòng ủ ấm. Dòng đời biến động, đôi tay nhặt lấy xác lá cựa mình. Trong mỗi dung hình vẫn thầm thì tàng cây, hè phố. “Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”. “Bàn tay ta làm nên tất cả/Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”. Thì ra, những đôi tay chẳng phải yếu mềm. Những đôi tay đâu chỉ có ôm mặt giận hờn chực khóc. Và cũng đâu chỉ để che chắn miệng cười khó nhọc. Những đôi tay biết yêu đời, thương người từ đó. Những đôi tay sương gió, mà tự hào biết mấy nắng mưa.

Có những đôi tay hát trên phím đàn. Là những đôi tay ngoan bao lần ấp ủ. Đôi tay dạo trên nền nhạc tháng năm. Trong nốt nhạc phận “liễu yếu đào tơ” lời yêu thương thôi là chưa đủ. Bao dung, nhẫn nại và dâng hiến. Những đôi tay tình nguyện, vun đắp cuộc sống này. Từng đôi tay thiếu nữ, từng đôi tay đàn bà. Và đôi tay nếp nhà cùng lắng sâu thả hồn vào nhạc. “Ta làm con chim hót/Ta làm một nhành hoa/Ta nhập vào hòa ca/Một nốt trầm xao xuyến”. Tôi ngồi một mình lặng ngắm mùa đông trôi qua trong những giấc mưa lạnh căm ngấm nước. Gấp cuốn sách lại, tĩnh lặng nghe lời thì thầm, nghe thanh âm vọng về từ những đôi tay.

Thương nhớ rau lang

Nhà báo Việt Hải

Thành viên của Tản Văn Hay từ 24 tháng 12, 2020.

X anh mơn mởn hồn nhiên trên đồng, xanh trong trẻo thơm nồng ngai ngái, xanh mướt nức thơm mùi tỏi, ôi rau lang, món ăn bình dân giản dị mà đậm đà thấm đẫm hương quê

Giờ đây cứ mỗi độ qua Tết ra Giêng, khi những giò chả bánh chưng thịt gà thịt đông nem rán đã khiến người ta chững lại thì những món bình dân như rau lang ấy lên ngôi. Cái thứ rau không ai mua trữ trong ngày Tết, vì nó là thứ rau kén chọn với thời gian, chỉ cần hái khỏi thân, để lâu lâu chút là cành cậng cứng sần sận lên, độ bùi ngọt giòn mềm bay đi mất.

Vậy nên qua mấy ngày Tết không người thu hái, lại thêm nếu gặp tiết mưa xuân, thì ngọn lá cứ mướt xanh, thi nhau đua lên mơn mởn hơn hớn trong gió. Tầm ấy, ra đồng lùa một lát đã có vài nẹn rau mềm mượt tứa nhựa tươi ròng, không thì ra chợ quê chợ phố, mớ rau lang buộc lạt khiêm nhường sẽ khiến bữa cơm gia đình sau Tết như háo hức hơn.

Vì ngọn rau lang thường vươn lên cao hơn một chút so với thảm lá già nên rau ít lấm đất. Nước múc vào thau, khỏa đôi ba lần rồi vớt ra rổ, chờ nước sôi là thả rau vào, nêm vài hạt muối cho xanh, lật nhẹ chút cho đều, lửa phải to để nước trùm lên mặt rau, tay đũa phải nhẹ nhàng để tránh rau sượng, thời gian phải vừa độ để khi cuộng rau hơi xuội ra, chuyển từ xanh đục sang xanh trong là vớt ra đĩa rồi. Rót bát con nước mắm cốt, nêm chút mì chính, đập vài tép tỏi, gắp một đũa rau còn nghi ngút khói, người ăn nhạt thì chấm nhẹ tay, người ăn mặn như dân miền Trung quê tôi thì vùi non nửa hoặc cả lọn rau vào bát nước mắm mới đã, cái mặn tê tê đầu lưỡi do nước mắm sẽ tan nhanh khi bụm rau được cắn vỡ ra, vỡ ra ngọt bùi, vỡ ra thơm ngái, quấn vào nhau, quyện vào nhau.

Nếu bạn định làm món rau lang xào tỏi thì những món khác trong bữa cơm phải nấu trước, dọn sẵn mâm cơm, đập sẵn tỏi… Ngọn lang để xào chỉ luộc vừa tới, rồi phi tỏi cho thơm, thúc lửa cho to, cho rau vào đảo nhanh tay, nêm chút bột canh, cho nhắc lại chút tỏi đập dập băm nhỏ là nhấc ra khỏi bếp, trút ngay ra đĩa. Món này nếu dùng mỡ lợn để xào sẽ thơm hơn dùng dầu ăn. Người rành ăn trước khi nhấc chảo ra khỏi bếp còn chấm một đầu đũa mắm tôm lướt nhanh tay vào chảo rau, mùi vị cứ thế hân hoan cả lên, làm bấn loạn cả một vùng vị giác. Đưa đũa rau còn nghi ngút khói lên miệng, có gì lạ quá lan lên vòm mũi, dường như mùi của ký ức rưng rưng…
Ngày ấy ở miền Trung quê tôi, rau lang không phải là món ăn “đặc sản” như bây giờ. Người ta trồng khoai chủ yếu để thu hoạch củ làm lương thực cho người, còn rễ và thân cây dùng để nuôi lợn.

Thế nhưng cái cây khoai lang thơm thảo chả từ cái gì trên thân thể cây mà con người không tận dụng từ củ cho đến thân, rễ, ngọn, lá… Những ngày giáp hạt, rau lang nhiều khi trở thành bữa chính của nhiều gia đình. Những đứa trẻ tầm tuổi chúng tôi có nhiệm vụ ra đồng hái rau, nhà có ruộng trồng màu thì hái ngọn lang, đọt đỗ trên ruộng nhà mình, nhà không có ruộng hoặc không có đất trồng màu như nhà tôi thì chúng tôi hái rau chùa (tức là hái trộm rau).

Rau lang mang về luộc vớt ra rổ (ngày ấy rau thường chỉ luộc, nhà nào có điều kiện mới có mỡ để xào). Một nồi cơm độn hoặc rổ khoai luộc, một rổ rau, mà có khi chỉ có mỗi rổ rau, thêm bát nhút cáy*, mắm cáy** hoặc mắm tôm, thế là thành bữa. Phải người nội trợ cầu kỳ hơn, rau mang về nhặt để riêng chút lá bánh tẻ, ngọn để luộc, lá dùng nấu canh. Bát canh rau lang thời ấy không có thêm tôm khô như bây giờ. Nhưng sao mà ngọt mà thanh khiến người ta nhớ mãi.

Tôi nhớ bà tôi sau vài lần nước, bà dùng tay vò nhẹ từng chiếc lá rồi rửa lại một lần nước nữa cho phai nhựa, rồi nẹn chặt rau vào họng tay, dùng con dao mỏng lưỡi thái rau thành từng sợi nhỏ, nước sôi thì nêm chút muối, cho rau vào đợi sôi bùng lên là nhắc xuống ngay, cho một thìa nhỏ nhút cáy vào khoắng đều. Rau không được tham rau, lửa không được lâu lửa. Tham rau là bát canh chuyển sang vị chát, lâu lửa sợi rau nát nhuyễn và bát canh chuyển sang màu xanh nhựa, hương bị nồng. Mắm nhút nêm cũng phải đúng cữ, vừa tay, nêm lúc trên bếp canh trở vị khai, nêm khi nguội bị tanh, nêm dư một chút bát canh sang vị gắt. Rõ ràng là cả trong thời đói kém, thì người quê tôi vẫn giữ cái nét ăn thanh nhã không xô bồ thô tạp, đâu cần phải sơn hào hải vị mới có điều kiện thể hiện sự thanh nhã, mà trong món ăn dân dã thì nét thanh nhã ấy cũng đã mặc nhiên lên tiếng rồi.

Giờ đây điều kiện sống đã khá hơn, người ta có thể xào rau lang với thịt bò, làm nộm rau lang, hoặc bát canh rau lang có thêm tôm khô nấu kèm, hoặc nước chấm không chỉ mắm tỏi mà cũng có thể chấm tương, xì dầu, mắm mẻ. Nhưng không phải ai cũng ưa những đổi thay đó, nhất là với những người quê đã từng qua đận đói những năm 70, 80 của thế kỷ trước. Bởi khi cái ăn không chỉ để ăn mà còn để nhớ về một thuở, khi món ăn không chỉ là món ăn mà đã trở thành món ân tình.

* Nhút cáy: Một dạng mắm đặc làm từ cáy
**Mắm cáy: Nước mắm làm từ cáy

Sủng Là man dại khèn Mông

Dễ có đến năm năm tháng tháng ngày ngày tôi không về ngồi bên bậu cửa mà nhìn hoa mơ ngủ gật bên bờ tường đất, bên vách đá mèo bên Sủng Là man dại khèn Mông…

Khèn Mông đêm đêm phập phòe trên con đường mày về, trên con đường tao đi, trên những mùa xuân trốn về làm tổ giữa Sủng Là này giữa cuối đường này giữa cuối trời này. Con đường cụt rồi, mày leo lên trời hả khèn, sao không man dại một khúc người Mông?
Nói cho tao nghe khèn chờ xuân bao lần, nói cho tao nghe khèn muộn xuân bao ngày, nói cho tao nghe khèn bội bạc người con gái bao mùa? Sao người Mông chẳng thấy đó làm vui, sao người Mông chẳng thấy đó làm buồn, sao người Mông luôn cười như cánh hoa đào xuân về man dại Sủng Là?

Từ ngày ngày tháng tháng năm năm mùa mùa đất đất trời trời tôi theo hướng Yên Minh lên thị trấn Đồng Văn, chạnh chọe ở ngã ba Phó Bảng, nơi ả đèo xinh đẹp vặn vẹo rồi quấn quýt bám riết lấy cái thung xanh là điểm cao và đẹp nhất để ngắm toàn cảnh Sủng Là. Ở một nơi tưởng chừng như cô đơn nhất thế gian, buồn nào cũng vậy, vui nào cũng vậy, tâm tư nào cũng vậy, chỉ thấy một màu xuân ngát ngát, chỉ thấy một tình xuân vuông tròn, chỉ thấy lấm tấm hoa mận hoa mơ hoa đào yêu thương vành vạnh trong tiếng khèn Mông.

Ôi những tháng tháng ngày ngày, điệu múa chẳng buông tha tiếng khèn, ơi những năm năm năm chốn chốn mùa mùa cô gái Mông lẳng lặng đem bùa giấu vào những mùa xuân tình yêu. Man dại mà thân thuộc, thống thiết trong từng hơi thở, mặn nồng trong từng ánh mắt say đêm mèm khuya.

Phóng mắt từ con đường vắt vẻo lưng chừng trời, tôi lao xuống Sủng Là như ngọn thác, tôi chạm Sủng Là chằm chặp như va phải kẻ yêu người thương lâu ngày cũ mặt. Sủng Là như một cô gái vụng dại tô son, lấm lem bên những căn nhà tường đất, bên những hàng rào xếp đá ngay ngắn bủa vây linh hồn. Tôi vay quá khứ thời gian, tôi trả tương lai nỗi nhớ nhung nặng lãi.

Nhớ căn gác xưa màu của ngô lẫn trong đám đỗ tương được phơi khô, từng cơn gió cứng và mảnh như đá mèo xia lia vàng óng những không gian thảnh thơi. Cô gái Sủng Là của tôi ngồi dệt thơ bên khung cửi, tiếng Kinh không nói được nhiều cô gọi tôi là Hui. (Huy)  Một cách phát âm dễ làm người ta cười muốn cười…chẳng thể nào không cười mà cười…

Mùa xuân cũng là mùa đẹp nhất của mảnh đất này khi những nụ gấm áo hoa cuồng nhiệt khắp vùng cao nguyên đá. Những cánh đồng hoa làm khung cảnh thiên nhiên vốn khắc nghiệt, lạnh lẽo biến thành một bức tranh nồng nàn, lại thêm man dại những điệu khèn chất ngất vời vợi như rừng sa mu ủ nhựa từ đời ông đời cha. Lại nhớ: “Tôi không biết thổi khèn như Lò A Sùng, tôi không giỏi bắn như tên Giàng A Chính, nhưng thời gian của tôi cứ vùn vụt trôi đi như mũi tên, cứ âm ba điệp điệp như điệu khèn bè bạn. Ai đó khóc, ai đó cười, ai đó say còn tôi cứ ngân nga mãi thương nhớ vùng cao.”

Có những đêm vắt tay lên đá, gối đầu lên đá, khèn về lập lòe buông váy hoa xòe, cao nguyên đá trầm ngâm Sủng Là, cô gái Mông say khèn chàng trai Mông, lời yêu vần thương sao chẳng nói ra miệng, sao chẳng đong lên mắt mà lại giấu bặt vào tiếng khèn liêu trai. Nếu tôi là một chàng trai Mông tôi cũng khèn thế thôi, nếu tôi là một cô gái Mông tôi cũng yêu thế thôi. Tình yêu man dại hay tiếng khèn man dại? Mùa xuân ái ngại hay tình ai vụng dại?

Bao giờ lại có dịp về Hà Giang, nghe tiếng đàn môi dè dặt sau những tường rào lô xô đá, ngả nghiêng rượu say chợ phiên, ngắm cô em sặc sỡ váy áo, dắt ngựa xuống chợ, dắt theo cả tiếng khèn Mông man dại phập phòe?

Khèn Mông là nhạc cụ lâu đời của dân tộc nhiều hư truyền này. Tiếng khèn là sợi dây ma mị nối giữa thế giới thần linh với con người, người đang sống với tổ tiên dòng họ, chỉ đường cho người chết tìm về với người chết, là khúc tình heo hút xứ cao nguyên của người bạn trai gửi người bạn gái, tiếng khèn giúp họ thương nhau, tiếng khèn đã được truyền lại từ đời này qua đời khác, cho đến tận những ngày tôi lên Sủng Là phải lòng tiếng khèn, bắt vạ tiếng khèn…

Một đêm, hai đêm, lại năm bảy đêm, mùa xuân trên Sủng Là hối thúc những điệu khèn cổ, thứ thanh âm phập phồng cung bậc, thứ thanh âm khiến cội đá cũng phải đơm hoa. Liệu tôi đã bao giờ kết trái cho một thứ Sủng Là. Một ngày, chạng vạng trên cao nguyên đá, bóng khèn lập lò trong tiếng cô gái Mông. Cô gái đâu, cô gái đâu, cô gái dệt mùa xuân bên khung cửi, cô gái dệt tiếng khèn man dại, cô gái con thoi những tháng ngày tôi bỏ lại Sủng Là. Thời gian như con thú hoang, cứ chạy miết chẳng cần biết ai săn ai đuổi. Một đêm, nhiều đêm, đêm đêm, tôi thở không ra hơi một tiêng khèn, mơ về những vách đất rào đá bậm bọe đàn môi, phập phòe khèn Mông.
Nói cho ai nghe khèn chờ xuân bao lần, nói cho ai nghe khèn muộn xuân bao ngày, nói cho ai nghe khèn bội bạc người con gái bao mùa? Sao người Mông chẳng thấy đó làm vui, sao người Mông chẳng thấy đó làm buồn, sao người Mông luôn cười như cánh hoa đào xuân về man dại Sủng Là? Một điệu khèn thôi. Một điệu khèn thôi…

Mùa chim thiên di trở về

Xuân sắp về. Từng chùm hoa dã thơm dịu bắt đầu e ấp khoe màu trắng tinh khôi bên đường. Làn gió nhẹ nâng niu mùi hương dịu dàng rải vào trong gió, ủ trên làn tóc mây mềm của người thiếu nữ. Trong ánh nắng cuối đông dịu nhẹ, từng đám mây bồng bềnh lửng lơ nơi lưng trời. Phong cảnh làng quê thật thanh bình làm tôi lại nhớ da diết những tháng ngày ấu thơ bên cha mẹ. Nhớ những ngày cùng cha tôi ngồi dưới núi ngắm đất trời sang xuân, đón chờ đàn chim thiên di trở về.

Loài chim nhỏ bé đó thật đặc biệt. Tôi không biết chúng từ phương trời nào bay tới. Cũng không biết loài chim đó tên thật là gì. Chỉ thấy cha tôi vẫn thường gọi là chim xanh đỏ bởi những con chim bé xíu ấy có hai màu xanh, đỏ. Còn tôi lại thích gọi chúng là chim thiên di. Những chú chim xinh xắn ấy chỉ to hơn ngón tay cái một chút nhưng lại có màu lông thật sặc sỡ. Có con màu xanh biếc, có con màu đỏ chót như trái ớt chín. Mỗi năm, đàn chim chỉ xuất hiện một lần duy nhất vào dịp cuối đông đầu xuân trên vùng núi quê hương tôi. Chúng thường đột ngột xuất hiện vào một ngày nắng đẹp. Trông xa, những con chim bé xíu như những quả ớt xanh, ớt đỏ ai đó vừa vãi tung lên bầu trời. Những chú chim thiên di ấy bay thành từng đàn dày như đám mây. Rồi đám mây tinh nghịch đó sà xuống đậu kín trên những cành cây re sát chân núi.

Ảnh: Mohamed_hassan

Những ngày chim về, ngọn núi già trước nhà sôi động hẳn lên. Phút chốc cả ngọn núi như được khoác lên mình màu áo mới sặc sỡ với những chấm xanh đỏ đẹp đến mê hồn. Tiếng chim chuyện trò ríu rít, rộn vang không gian vốn rất yên tĩnh khiến cho ngọn núi già như cũng ngất ngây, rộn ràng, lắc lư, rung rinh cười vui theo tiếng chim tưng bừng ấy. Đàn chim về làm cho cái giá rét còn xót lại của ngày cuối đông vội vã thu nốt những mảng mây xám xịt trốn vào trong hang núi. Những mầm cây còn ngủ yên trong lớp vỏ dày suốt cả mùa đông nghe tiếng chim ríu rít vội tách kẽ lá nhú ra những mầm xanh non mát mắt. Vài nụ hoa đào rừng nghiêng nghiêng những cánh hoa xinh theo bước chân nhảy nhót tinh nghịch của những chú chim bé nhỏ. Dòng suối dưới chân núi rì rào hòa cùng tiếng chim sôi động tạo nên một bản nhạc vừa du dương vừa rộn rã. Mùa Xuân như ùa về theo những cánh thiên di.

Ảnh: TheDigitalArtist

Hồi còn nhỏ, vào những ngày đàn chim trở về, tôi lại vòi vĩnh, đòi cha tôi đưa lên chân núi để được tận mắt ngắm đàn chim xanh đỏ. Cha đi trước, tôi lon ton theo sau. Dốc núi, đường trơn, hơi thở như lùa qua tai. Vậy mà cái cảm giác háo hức vẫn dâng lên trong lòng bởi chút xíu nữa thôi cha con tôi sẽ được tận mắt ngắm nhìn những chú chim bé xinh, đáng yêu đang vô tư nhảy nhót mà chẳng màng đến sự xuất hiện của hai cha con tôi. Tôi và cha cứ ngồi đó vừa ngắm nhìn đàn chim thiên di nô đùa, nhảy nhót vừa ngắm hoàng hôn buông dần bên sườn núi. Nắng in hình cha con tôi vào lưng trời. Bóng cha vững chãi, mạnh mẽ còn  bóng tôi bé xíu nép bên cạnh cha. Hai chiếc bóng đổ dài xuôi theo nắng chiều.

Loài chim thiên di bé nhỏ, đáng yêu chỉ dừng chân nơi dãy núi trước nhà tôi dăm ba ngày rồi lại cất cánh bay đi. Chúng xuất hiện thật bất ngờ và cũng biến mất bất ngờ vào không gian mênh mông như chưa từng có mặt ở nơi này. Những ngày vui đó cha thường vừa ngắm nhìn chúng vừa nói:

– Năm nay đàn chim bay về nhiều trời sẽ rét lắm đây!

Ảnh: Giani

Chẳng biết mùa đông năm đó trời có rét nhiều không nhưng năm nào đàn chim về muộn tôi lại thấy cha tôi thấp thỏm không yên. Ông ra ngóng vào trông, thỉnh thoảng lại đưa mắt ngước nhìn lên ngọn núi xanh thẫm trước nhà như có ý chờ mong. Sự xuất hiện của chúng như hẹn ước không lời với cha. Loài chim chỉ trở về vào những ngày giá rét luôn được cha tôi mong chờ như chờ những đứa con đi xa lâu ngày trở về. Dù chỉ muộn một ngày cũng thấy thấp thỏm, lo âu: “Liệu năm nay đàn chim có trở về?” Năm nào cũng thế, mỗi khi đàn chim trở về, mắt cha tôi lại lấp lánh niềm vui. Hễ cứ nghe thấy tiếng ríu rít của loài chim nhỏ nơi lưng chừng núi là ông lại bỏ hết công việc đang còn dở dang, vội vã dắt tôi lên núi. Để rồi lúc đàn chim cất cánh bay đi tiếp tục hành trình vạn dặm của mình cha tôi lại thương nhớ, lại lặng lẽ đếm ngày, đếm tháng mong chờ ngày trở về của những cánh chim vào mùa xuân sau.

Bao mùa xuân đã trôi qua. Bao mùa lá xanh úa vàng rồi rụng xuống. Thời gian cứ lặng lẽ trôi đi. Chúng tôi lớn dần lên rồi rời xa quê hương, rời xa ngọn núi có loài chim màu lông xanh đỏ rực rỡ chỉ trở về khi tết đến xuân về. Hình bóng những chú chim thiên di thân thương đã gắn bó suốt một thời tuổi thơ lam lũ cũng dần mờ phai trong ký ức của tôi. Năm tháng vô tình, khắc nghiệt đã bào mòn sức khỏe của cha. Tấm lưng vững chãi mà ngày xưa tôi thường dựa vào trong những chiều cùng cha ngắm hoàng hôn rơi bên sườn núi bây giờ còng hẳn xuống. Cha tôi không còn khỏe mạnh như thủa xa xưa nhưng tâm trí ông vẫn còn minh mẫn. Cứ đến mùa đàn chim trở về, ông lại một mình chống gậy lên chân núi, lặng lẽ ngồi ngắm hoàng hôn, lặng lẽ đợi chờ. Không biết cha tôi chờ đợi loài chim tránh rét bay về hay chờ đợi chúng tôi, những đứa con chẳng khác nào những cánh chim thiên di đang ở xa tít phía chân trời.

Có lúc, trong khoảng lặng của cuộc sống vội vã với biết bao bộn bề, tôi chợt giật mình vì thấy mình nhiều khi quá vô tâm với chính những người thân yêu ruột thịt của mình. Có lúc tôi miệt mài vùi đầu vào công việc đến quên cả thời gian, cũng có lúc ngồi ôm điện thoại cả giờ đồng hồ chỉ để tán dóc với một ai đó, mà quên mất rằng nơi quê nhà cha già của tôi cũng hằng ngày mong một cuộc điện thoại của con, mong được nghe thấy giọng con dù chỉ vài phút.

Tôi cứ yên tâm rằng cha luôn mạnh khỏe mà đâu biết mỗi ngày trên mái tóc cha ngày càng thêm nhiều sợi bạc. Tôi cũng giống như loài chim xanh đỏ nơi núi vắng quê hương, cứ biền biệt nơi phương trời xa thẳm, trở về và ra đi bất ngờ vài ngày ngắn ngủi. Để lại cha tôi với khoảng không gian cô đơn mênh mông, chỉ biết tựa vào bóng chiều, tựa vào tháng năm dài nơi quê nhà. Để rồi cứ vào những ngày cuối đông đầu xuân, cha lại ngóng về phương trời xa xem chúng tôi những đứa con đi xa có trở về.

Ảnh: Homecare119

Lại một mùa xuân nữa đang về. Cây đào đầu ngõ đang trút bỏ những chiếc lá cuối cùng của mùa cũ, từ nhánh cây gầy nhú lên vài chiếc nụ phớt hồng xinh xinh. Và chắc hẳn nơi quê nhà, cha tôi lại đang ngồi tựa cửa ngước nhìn lên ngọn núi biếc xanh ngóng chờ. Đàn chim thiên di bé nhỏ, có màu lông sặc sỡ, xinh xắn ấy có chở mùa xuân về bên sườn núi.

Ning Nơng mùa quỳ tàn

T

hì nó đang là cuối mùa khô, cái mùa mà nắng như là thừa thãi nhưng lại cũng rất chi chút khi cứ phải tõe mình ra giữa những cơn gió, những cơn gió như đám ngựa hoang tràn trên thảo nguyên, mà phóng, mà phi, mà dập dênh khiến những đám dã quỳ sin sít nhau như thế cứ ràm rạp mà ngã, mà đổ xiêu, nhưng nhờ thế mà nó lại có cái dáng rất đặc trưng của cái xứ mà mỗi khắc cuối năm lại khiến ta day dứt…

Vốn dĩ dân Tây Nguyên bản địa không nhiều như bây giờ. Thuở ấy đất với trời gần như nhập một. Ở giữa, cái khe hẹp ấy, cái khoảng trập trùng chênh vênh ấy, là cái màu đỏ bất tử của bazan và màu vàng lắt lay của dã quỳ. Những người Tây Nguyên ẩn hiện giữa cái màu vàng và đỏ phối sắc tự nhiên ấy. Họ thênh thênh trên thảo nguyên, họ tự tin và bất tử trên Tây Nguyên cho tới bây giờ.

Bây giờ, mùa quỳ tàn. Bây giờ, nói tới Tây nguyên là người ta nhắc tới dã quỳ, như một đặc sản Tây Nguyên, trong khi thực ra, nó có ở nhiều nơi, kể cả… Hà Nội. Thì mấy năm nay dân Hà Nội chả đua nhau đi ngắm dã quỳ ở Ba Vì đấy thôi. Và té ra, quỳ tàn có vẻ đẹp của nó.

Lúc viên mãn, dã quỳ biến tất cả những gì dưới chân nó, xung quanh nó thành một thảm vàng rực, hùng vĩ và rợn ngợp. Con người lạc vào một thế giới vàng mê mải, ngất ngây, thế giới của an nhiên của lan tỏa, của tan chảy và ngưng tụ, thế giới hòa sắc và hòa tan, con người vừa nhỏ bé vừa tự tin, vừa phong thái quốc vương vừa thân phận nô tì…

Nhưng, té ra không chỉ thế. Khi tàn, dã quỳ cũng dâng hiến cho con người những vẻ đẹp kỳ lạ, những cảm xúc thánh thiện, đến vô ngã, đến như là không tưởng, trong veo. Nó không tròn đầy mà hao khuyết, nó không tưng bừng mà rưng rưng, nó không thăng hoa mà ngậm ngùi, nó là một vẻ đẹp khác, vẻ đẹp xao xuyến và tiếc nuối.

Và nó cũng gây xúc động cho con người. Nghĩ cho cùng, bất cứ điều gì mà tạo cho con người sự xúc động, sự thánh thiện, hướng con người tới triết lý nhân văn, tới những hành vi mỹ cảm… thì đều là cái đẹp.

Và té ra dã quỳ cuối mùa cũng có vẻ đẹp riêng của nó. Những khẳng khiu khô đét nhưng vẫn vươn lên trời như một minh chứng cho sự bất tử của dã quỳ, những tương phản giữa nắng tươi mỡ màng và màu đen của xác hoa, của quả, những tạo hình kỳ dị như dệt như đan thành những vệt kỷ hà giữa trời xanh nắng vàng và gió khiến con người phải ngác ngơ tự hỏi, lẽ nào cho đến phút cuối của cuộc đời, dã quỳ vẫn còn muốn gửi gì đó vào trời xanh, vào thiên nhiên những khát vọng vươn tới và cả khát khao về sự tự do bất diệt của mình.

Và, lá bắt đầu xanh. Khi hoa bắt đầu khô thì lá lại mướt. Một vòng dã quỳ như thế, mãi mãi là như thế, để nó trở thành một biểu trưng sống mãi của thượng đế gửi xuống cuộc đời này, nhắn con người cái ý chí không bao giờ khuất phục, cái cách biết tự nuôi mình, dưỡng mình để mãi non tơ trong khắc nghiệt, mãi mãi biết tự tái tạo để luôn luôn những vòng đời hữu ích khi nó phô bày cái đẹp bất vụ lợi trong sự ngạc nhiên đến bình thản của con người…

Người Tây Nguyên bản địa không ăn tết truyền thống như người Kinh. Họ có hệ thống lễ tết riêng của họ. Đơn giản vì họ theo hệ văn minh nương rẫy, còn người Kinh hệ văn minh lúa nước. Cùng làm nông nghiệp nhưng lúa nước và lúa rẫy khác nhau hoàn toàn. Và văn hóa của con người cũng theo đấy mà hình thành, đời này qua đời khác, rồi thành quy luật, thành truyền thống.

Mùa này, người Tây Nguyên mới bắt đầu chớm vào mùa của các lễ. Khoảng tháng 3 mới là đỉnh mùa lễ. Lúc này mùa khô nhưng vẫn còn hơi hướng của những trận mưa vớt cuối mùa. Đất chưa khô lắm, rừng chưa cằn lắm, những chồi non vẫn kịp quẫy lên những sắc vàng non, đồng cỏ đương độ xanh, và đêm vẫn nghe rõ những mầm cỏ tí tách. Sương treo từng tinh khôi dưới lá, và cái lạnh mùa khô bắt đầu len vào da thịt, vào hơi thở nhẹ bâng như khói của các cô gái Tây Nguyên mà cái đám người Kinh nông nổi hay gọi sơn nữ.

Thì già làng đang ngồi ngậm cần rượu phác việc làng. Tháng ning nơng của người Tây Nguyên bắt đầu như thế. Mùa chơi, mùa quên, mùa say và là mùa tình. Tình từ con người tới con nai con hoẵng con công con phượng con rùa con rắn mối trong rừng. Tất cả bừng men tình ái, bừng sức sống, bừng cái rạo rực thẳm sâu phải nén, phải lèn, phải dồn lại từ những tháng những ngày mùa mưa trước đấy. Mùa này đến đá cũng hổn hển, đến núi cũng nôn nao, đến gỗ mục cũng bật dậy lên chồi, và những hạt sương cũng biết khiêu vũ dưới ánh trăng huyền hoặc kia.

Huống gì người. Bao nhiêu năm ở Tây Nguyên chúng tôi cũng thường chọn những ngày tháng này để xuống làng. Cứ tới làng thì anh là khách quý. Khách của cả làng chứ chả của riêng nhà ai. Ngủ thì lên nhà rông. Cái nhà rông có rất nhiều chức năng, từ chức năng tâm linh tới vật chất, chứng năng hùng mạnh tới làm duyên. Lên đấy ngủ, khuya sẽ đọc được rất nhiều mảnh đời, nhiều số phận… bởi nó là nơi thanh niên chưa vợ, góa vợ đêm đêm lên ngủ. Mỗi người một thế giới, cứ nằm im mà nghe. Người ngủ ngon ngáy pho pho, người trằn trọc thởi dài. Người bó gối ngắm trăng, người lấy đàn Goong, K’ní ra chơi… cứ thế, đêm nhưng lại không đêm, nó là sự huyền diệu, sự bất tử.

Mà đang là mùa lễ kia mà. Nhà rông là trung tâm của làng, trung tâm của lễ. Mà lại đương trăng, cái cây nêu cứ chập chờn trong trăng. Rượu ghè xếp thành dãy, thịt vun đống trên lá chuối. Người ăn cứ ăn, uống cứ uống, ngủ cứ ngủ, nói chuyện cứ nói chuyện. Cứ nhìn những đầu mày cuối mắt của bọn thanh niên thì biết, chúng đang “đong” nhau, là thuật ngữ mới bây giờ nói thế, chứ tình yêu nào mà chả ngập ngừng, run rẩy, chả mơ hồ sợ hãi nhưng lại cũng đầy quyết tâm bạo liệt.

Tất nhiên là chiêng nữa, thổn thức lắm, da diết lắm, vang xa lắm, cuồng chân cuồng cẳng lắm. Lại còn lửa, cái đống lửa như muốn đốt cháy cả lồng ngực. Cứ chập chờn, cứ rừng rực, cứ thiêu cứ bỏng, cứ khiến đôi mắt đã lung linh càng lung linh, ngực phập phồng càng phập phồng, chân đã ríu lại càng càng ríu, vòng xoang cứ nhập lại rồi bung ra như sóng. Thì nhao ra thôi, thì díu lại thôi, thì tan thì hòa thôi…

Đầu làng, cây pơ lang lập lòe, cũng như muốn cháy, mà thực sự thì, nó cũng đang cháy. Cháy như lần cuối cùng được cháy. Mà thật, mai thì những bông hoa đỏ như mặt trời kia nó sẽ rơi xuống, sẽ như những đốm than rắc trên cỏ, trên cái lối nhỏ vừa bàn chân đầu làng. Nơi ấy, có những cặp đôi cũng đang dẫn nhau xuống suối. Họ đi gùi nước về thôi, để đổ vào rượu cần, còn tại sao họ đi lâu, tại sao họ lại đi với nhau, chỉ họ và… Yàng biết. Ning nơng mà, biết khi nào xong, biết sao được những câu chuyện chỉ trái tim mới biết… Cứ ăn tết cổ truyền của người Kinh xong thì tới tháng Ning nơng của người Tây Nguyên, bao giờ cũng thế… Tất nhiên năm nay, vui gì thì vui vẫn không quên 5K, và chắc chắn không thể đông như mọi năm. Thì cũng như người Kinh ăn tết vậy, lấy an toàn là trên hết.

Hải đường dưới mưa

ngoc-ha-le

Tôi là Lê Ngọc Hà

Thành viên của Tản Văn Hay từ 28 tháng 6, 2021

T ôi về Vỹ Dạ thăm mệ vào ngày Huế mưa lay bay. Con đường nho nhỏ dẫn vào nhà mệ đã phủ lên một màu rêu xanh mướt. Bóng mưa chảy tràn lên cây lá lao xao, dội vào lòng người nỗi miên man dịu vợi. Căn nhà rường vẫn cũ kỹ như thuở nào ẩn chìm trong mưa bàn bạc gợi nên những nỗi niềm xưa cũ. Chỉ có bóng hải đường bên hè, là vẫn rực rỡ dưới làn mưa dìu dịu.

Mệ nói, cây hải đường nở hoa khi mô cũng không biết. Mấy nay Huế mưa nhiều, chẳng biết vì mưa đã ướp lên những nụ non xanh chúm chím nơi đầu cành, để sau một đêm dài lướt thướt ướt mưa, hải đường đã ngậm đủ vị nước ngọt lành của đất trời nên sớm mai liền khoác lên mình chiếc áo hoa rực rỡ. Ngõ nhà buồn hiu hắt dưới mưa, chẳng bóng ai qua thềm. Đến con chim vành khuyên mỗi ngày vẫn líu lo nơi tán cây đầu ngõ, giờ cũng ngủ vùi đâu đó không về. Và hải đường ươm một màu hồng thăm thẳm phôi pha dưới cơn mưa chiều hiu quạnh, như thắp lên đốm lửa hồng rực rỡ ngày đông.

Tôi tựa vào bức bình phong cũ xưa trước sân nhà, để những hạt mưa lành lạnh rơi trên vai áo. Tán hải đường xanh mươn mướt vươn ra, một vài cành đậu trên bức bình phong lún phún màu rêu. Màu hoa rực rỡ kề má bên những hoa văn cũ kỹ tạo nên vẽ đẹp mênh mang đầy hư ảo. Góc sân loang loáng vệt mưa, phủ lên những cánh hải đường nằm im lìm dưới gốc, những giọt mưa trượt qua cánh hoa rồi lặng im chìm vào đất, đẹp đến mụ mị cõi lòng. Tôi như thấy mình đâu đó những ngày ấu thơ, cặm cụi ngồi dưới gốc hải đường, gom những tàn hoa xếp thành từng lớp lớp bên hè. Nhị hải đường vàng ươm, lớp phấn hoa mềm mịn ấy không biết bao lần tôi cùng đám bạn khẽ khàng bôi lên má chơi trò trang điểm. Và vòng hoa cô dâu đội đầu, bao giờ cũng kết từ những đóa hải đường rực rỡ.

Mệ tôi bảo, cây hải đường trước nhà, chẳng biết ông tôi trồng từ lúc nào. Gốc cây giờ thẳng đứng, xanh um, lớp vỏ xù xì già cỗi, đen một màu thăm thẳm. Nhớ một thuở, khi người yêu cây lùng sục hải đường khắp các ngõ làng, cậu tôi từng muốn bán bớt một gốc hải đường bên phải bức bình phong để sửa lại căn nhà rường đã cũ.

Rồi ông thương cây mà chẳng nỡ. Hai gốc hải đường cứ thế chụm vào nhau, xòe vòng tay ấm áp che chở lối vào nhà. Ngày ông mất, như những gốc cây khác trong vườn nhà, hai gốc hải đường đều được đeo khăn trắng muốt. Nhưng rồi ngày qua, chẳng hiểu sao gốc hải đường bên phải vẫn cứ héo rủ dưới mưa. Xuân sang, hạ đến, cây trút hết lớp lá cuối cùng của đời mình, chỉ để lại những cành khô xa xót. Mệ nói, không biết tại cậu từng muốn bán cây, hay cây buồn vì người khuất bóng mà theo về trời, sân nhà chỉ còn lại gốc hải đường đơn lẻ vẫn thắp lửa những mùa đông quạnh vắng.

Cửa nẻo ngày mưa đều đóng kín, mùi trầm hương ngan ngát quanh quẩn mấy góc nhà. Đưa tay mở ô cửa sổ để cơn gió ngoài vườn chạy ù vào, mang theo hơi lạnh của mưa, mùi của xanh lá, và hương hoa dìu dịu như tơ trời. Giọt mưa lành lạnh chạm lên ô cửa, hạt mưa mang theo hương hải đường len lén vào nhà. Hương hoa rất khẽ, tựa bước chân ai mộng mị lướt qua nhà. Mưa dìu dặt đã làm phôi pha mùi hoa ngọt lịm trong giá rét căm căm.

Có một sớm mai thức giấc, mệ tôi bẻ một nhánh hải đường đặt lên bàn thờ ông đang nghi ngút khói thơm. Mệ nói, hoa nở ngoài vườn chắc gì ông đã thấy, nên bà đem hoa vào nhà. Gian nhà cũ kỹ nhờ bóng hoa rực rỡ mà sáng lên không ít. Hiên nhà ngày mưa có vẻ lạnh, nhưng mệ tôi vẫn muốn ngồi nơi đó uống trà. Tách trà ấm áp xóa sạch cái lạnh giá sớm đông. Từ hiên nhà, có thể thỏa thuê ngắm hoa hải đường khoe sắc đầu ngõ. Những bông hoa rực rỡ khiến mưa rét bên hè không dưng mà ấm hẳn.

Một ngày mưa, lặng thinh ngắm hải đường e ấp dưới mưa. Nhìn những đốm lửa bừng lên giữa sương giá, lòng chẳng hiểu sao cứ miên man bao nỗi nhớ. Những ký ức, hiện tại và cả tương lai như đều dừng lại nơi khoảnh khắc rực rỡ khi cánh hải đường vừa bung nở. Ngắm hoa mà quên mưa lạnh và lòng bỗng dưng rộn rã bởi thương yêu.