Người ta nói, lữ hành có hai kẻ. Một kiểu đi để chinh phục, để đặt gót chân mình lên vùng đất lạ, để thấy mình hơn người. Kiểu còn lại, là đi để được vỗ về, để tìm một chốn nương náu cho tâm hồn, và để… tương tư. Tôi không biết cụ Nguyễn Tuân xưa đã từng hành tẩu đến xứ này để mà ca tụng thêm cái lý lẽ xê dịch của mình hay chưa, nhưng nếu cụ đến, tôi tin cụ cũng sẽ phải lòng cái xứ sở này. Bởi Ninh Kiều không phải nơi để chinh phục. Ninh Kiều là nơi để yêu.

Ninh Kiều chẳng cũ, Ninh Kiều không mới. Nó không mang cái vẻ cổ kính rêu phong của Hội An, cũng chẳng hối hả, lộng lẫy như Sài Gòn. Nó là một thực thể nằm lơ lửng giữa hoài niệm và hiện tại. Ninh Kiều, chỉ vừa mở mắt dậy sau một đêm sông Hậu thở đều, đã khiến người ta tương tư.

Cái tên “Tây Đô” đến với tôi không phải qua sách vở địa lý, mà trớ trêu thay, lại là qua một bài hát vàng vọt thời chiến chinh. Một bài hát mang những nỗi buồn xanh xao nhầy nhụa, kể về một Tây Đô khói lửa, điêu tàn. Giọng ca liêu trai, rền rĩ ấy đã gieo vào tâm trí tôi một nỗi ám ảnh về vùng đất này. Nó là một vết sẹo âm ỉ, một vùng ký ức xa xăm nhưng đau đớn.

Để rồi, nhiều năm sau, khi tôi thực sự đặt chân đến Cần Thơ, nỗi ám ảnh về một Tây Đô khói lửa ấy mới chịu “rụng rốn” mà yên lành. Tây Đô của đời thực không có tiếng súng. Tây Đô của hiện tại là một vùng nước non châu thổ chan chứa phù sa, là những vườn cây trái trĩu cành cong oằn bên mép nước. Nó không còn xanh xao, mà mỡ màng, đẫy đà. Nó nặng tình như cô gái miệt vườn mười tám tuổi, má hây hây đỏ. Nó nóng hổi, chân chất như cái cảm giác ngồi canh hỏa lò, nướng con cá rô đồng vừa bắt dưới mương bằng mớ lá tre khô ngoài bãi. Cá chín xém, mùi thơm lựng, bẻ đôi con cá, khói bốc lên, chấm vào chén nước mắm me cay xè. Cái trần trụi, cái mộc mạc ấy chính là Cần Thơ.

Về Cần Thơ đi, để thấy mình chẳng cần vội vã, để thấy lòng mình dịu lại, và để bắt đầu một cuộc tương tư với xứ sở Ninh Kiều.

Cũng đã lâu, lâu lắm rồi, tôi chẳng có dịp về lại Cần Thơ. Cái “lâu” ấy đủ để cho nỗi nhớ lên men, thành một thứ rượu mận cay nồng. Nhớ đến ngơ ngẩn mấy độ Rượu mận Sáu Tia. Nhớ đến bịn rịn cái đĩa Bánh hỏi – heo quay Phong Điền, nơi bánh mềm như lụa, heo quay giòn tan, và nước mắm pha thì như một bản hòa tấu của vị giác. Nhớ, là nhớ đến cồn cào.

Người ta nói Cần Thơ là “đô thị miền sông nước”, cái tên mỹ miều ấy chẳng sai chút nào. Nét độc đáo làm nên linh hồn của Cần Thơ chính là mạng lưới kênh rạch chằng chịt, đan xen như một bàn tay khổng lồ mở ra hứng lấy dòng phù sa của mẹ Cửu Long. Ở đây, kênh rạch cũng là phố. Người ta không chỉ đi trên đường nhựa, người ta “đi” trên mặt nước. Những con hẻm không phải là ngõ xi măng, mà là những con rạch nhỏ, hai bên là hàng dừa nước xanh um. Nó mang một vẻ đẹp phong thủy đầy sinh khí, của một đô thị tiềm tàng mà không phô trương, giàu có mà hiền hòa.

Và cái khí hậu mới đáng yêu làm sao. Bạn đừng đọc sách địa lý làm gì. Đừng bận tâm chuyện Cần Thơ có hai mùa. Bạn chỉ cần biết rằng, đây là vùng đất gần như hiếm bão. Quanh năm, nó được bao bọc bởi một cái nóng ẩm êm ái, một thứ nắng không làm da người ta rát bỏng, mà chỉ làm cho hoa trái thêm ngọt. Nó không có mùa đông, không có cái lạnh cắt da cắt thịt. Mùa mưa ở đây, kéo dài từ tháng Năm đến tháng Mười Một, cũng không phải là thứ mưa dầm dề sụt sùi buồn bã. Mưa Cần Thơ ào ạt, thẳng thớm, mưa để gột rửa, để làm cho cây lá xanh thêm, rồi tạnh, trả lại bầu trời trong vắt. Mùa khô thì nắng vàng như mật ong. Quả thật, đây là vùng đất được trời ban cho sự lý tưởng, một sự lý tưởng để người ta sống chậm và yêu sâu.

Nếu kênh rạch là huyết mạch, thì chợ nổi chính là trái tim đang đập của thành phố này. Có thể nói, chợ nổi là một nét văn hóa sinh hoạt rất đỗi đặc trưng mà tôi chỉ có thể tìm thấy ở miền Tây Nam Bộ nói chung và Cần Thơ nói riêng. Sau này, những chuyến lữ hành có đưa tôi qua vài vùng miền tương tự ở Thái Lan, nhưng dẫu vậy, cái sức nổi, cái sự cám dỗ rất thật, rất đời ở Cần Thơ vẫn luôn len lỏi và cuống quýt trong tôi. Nó sống động, nó mời gọi như con cá linh đâm vào mùa nước nổi.

Tôi thường ép mình dậy thật sớm, khi trời còn mờ sương, để đến chợ nổi Cái Răng. Phải đi từ sáng sớm, vì đó là thời điểm họp chợ sôi nổi và đông vui nhất. Cả một khúc sông bỗng chốc hóa thành một khu chợ khổng lồ. Tiếng máy nổ xình xịch, tiếng rao hàng lảnh lót, tiếng mái chèo khua nước, tiếng í ới gọi nhau. Những cây “bẹo” – những cây sào tre cao vút, trên đó treo lủng lẳng thứ hàng mà ghe đó bán: chùm chôm chôm đỏ rực, trái dứa (thơm) vàng ươm, mấy củ khoai lang tím ngắt. Chẳng cần biển hiệu, chẳng cần quảng cáo, chỉ cần nhìn cây bẹo là biết tìm đến đâu.

Có thể tôi chẳng mua bán gì nhiều. Tôi chỉ thích gọi một tô hủ tiếu từ chiếc ghe nhỏ xíu, khói bốc nghi ngút. Ông chủ ghe tay thoăn thoắt trụng hủ tiếu, tay kia giữ thăng bằng. Ngồi trên ghe mình dập dềnh, húp một muỗng nước lèo nóng hổi, cảm nhận cái vị ngọt của tôm khô, của xương hầm, tôi thấy mình như một kẻ vi hành. Một ông vua, hay một vị quan, trút bỏ long bào để len lỏi vào đời sống thực. Tôi vốn không quen nhiều với khẩu vị Tây Nam Bộ, nhưng đã nhiều lần cố tình trải nghiệm sự khác biệt ấy. Ăn tô cháo cá lóc thơm mùi hành phi, nếm miếng canh rau đắng vị nhân nhẩn mà hậu ngọt sâu. Cái cảm giác lênh đênh sông nước ấy, nó thú vị, nó tự do. Cần Thơ là vậy. “Thơ” lúc nào cũng thân tình như bằng hữu, lúc nào cũng ve vuốt, yêu thương như cô em gái khỏa chèo buông một buổi chiều tà.

Tôi tự hỏi, một mai khi cuộc đời đô thị hóa, những chiếc cầu bê tông vươn xa, những buồn vui dịu dàng như món canh rau đắng này thưa thớt dần, khi những cuộc đời bớt lênh đênh, thì tháng ngày còn gì mà vui?

Về Cần Thơ, có một nơi đã thực sự buộc chân tôi lại. Nhiều khi đã định đứng dậy đi, mà rồi vẫn dùng dằng ngồi lại, không nỡ. Nơi đó là quán Hoa Sứ.

Quán nằm nép mình bên bờ sông Hậu. Cái tên đã nói lên tất cả. Bước vào quán là bước vào một khu vườn đúng nghĩa, một không gian sân vườn ngập tràn cây xanh và, dĩ nhiên, là hoa sứ. Không khí trong lành, mát rượi, như thể mọi bụi bặm của thành phố đã bị dòng sông gột rửa. Tôi thích chọn một căn chòi lá nhỏ, nhìn thẳng ra sông. Ngồi đó, vừa nhâm nhi món ăn, vừa ngắm nhìn dòng sông hiền hòa chở nặng phù sa, nhìn những chiếc ghe lặng lờ trôi, lòng mình bỗng nhẹ bẫng.

Và rồi, âm thanh ấy cất lên. Tiếng đờn ca tài tử. Không phải từ loa đài, mà là những nghệ sĩ bằng xương bằng thịt, ngồi trên một chiếc thuyền rồng nhỏ, từ từ cập vào mép quán. Tiếng đàn kìm réo rắt, tiếng song lang gõ nhịp, và giọng ca của cô đào cất lên. “Dây thép gai cột chặt anh hùng, đạn bom rơi tứ phía…”. Một câu vọng cổ. Cái mùi mẫn, cái trữ tình của làn điệu phương Nam quyện vào không gian sông nước, quyện vào tiếng gió xào xạc. Nó không bi lụy, mà nó là một sự trải lòng, một sự tự tình của vùng đất.

Và… chết lặng.

Tôi ngồi đó, chết lặng giữa cái trùng phùng của sóng nước, của ẩm thực, và của âm nhạc. Tôi yêu cái khoảnh khắc ấy. Yêu như yêu mấy cô mặc đồ bà ba lụa, lướt đi mềm mại, mơ hồ trong những căn nhà chòi mái lá để phục vụ khách. Họ không đi, họ “lướt”, nhẹ như một làn khói.

Nhưng thứ khiến tôi “tương tư cổ nghiệp” ở Hoa Sứ, thứ khiến tôi phải quay lại Cần Thơ hết lần này đến lần khác, lại là một món ăn. Một món ăn tưởng chừng đơn giản nhưng đã đạt đến cảnh giới của sự quyến rũ: Ốc nướng tiêu.

Bạn có thể đi bất cứ đâu, từ vỉa hè đến nhà hàng sang trọng, và bạn sẽ chẳng bao giờ thấy khó khăn khi muốn kiếm tìm món ốc nướng tiêu. Nó phổ biến. Nhưng tin tôi đi, chỉ cần bạn về Cần Thơ, ăn món này ở Hoa Sứ một lần, bạn sẽ hiểu thế nào là “ngon”. Và lần khác trở lại, bạn sẽ lại thấy nó ngon hơn.

Tôi đã quan sát họ làm. Từng con ốc bươu (người miền Tây hay gọi là ốc bưu) béo mập, được đem luộc sơ qua cho vừa chín tới. Khi có khách gọi, người đầu bếp mới đặt chúng lên bếp than hồng rực. Họ không nướng suông. Họ vừa nướng, vừa dùng một cái thìa nhỏ, khéo léo chế hỗn hợp nước mắm pha tiêu xanh đập dập, tỏi, ớt băm nhuyễn và chút bột ngọt vào miệng ốc.

Tiếng “xèo xèo” vang lên. Cái mùi thơm nồng nặc của tiêu, tỏi và nước mắm bị than hồng đốt cháy, bốc lên, xộc thẳng vào khứu giác. Nó là một sự tra tấn ngọt ngào. Bạn phải chờ. Chờ trong chốc lát cho đến khi nước trong ốc sôi lên, sền sệt lại. Người nướng phải canh lửa thật chuẩn, không được để lâu quá, vì ốc sẽ khô, sẽ dai, mất đi vị ngọt.

Con ốc được bưng ra, nóng bỏng tay. Tôi dùng một cái tăm tre nhỏ, khêu nhẹ. Thịt ốc giòn sần sật. Vị ngọt nguyên bản của ốc hòa với cái mặn mà của nước mắm, cái cay nồng xé lưỡi của tiêu xanh. Nó không chỉ là ăn, nó là một trải nghiệm. Thú thực, tôi không phải là người ăn phàm, nhưng riêng món ốc nướng tiêu này, một mình tôi cũng phải làm tới ba, bốn “cữ” (phần).

Đến mức, những lần sau tôi trở lại, chỉ vừa mới tìm được chỗ ngồi, chưa cần cất lời gọi, cô bé nhân viên mặc áo bà ba đã nhận ra tôi. Em nhoẻn miệng cười, một nụ cười “ngả nước nghiêng thành” rất miệt vườn: “Ốc nướng tiêu anh ha?”

Và… lại chết lặng…

Cái món ốc nướng tiêu quái quỷ này, cái giọng nói ngọt như mía lùi này, đã làm tôi bảy vía ba hồn điêu đứng.

Tôi cũng chẳng phải hạng ăn nhậu gì số má, nhưng đã có lần tôi ngồi ở Hoa Sứ từ lúc xế trưa, khi nắng còn vàng rộm trên mặt sông. Chỉ mải mê với mấy cữ ốc, mải mê nghe tiếng đờn ca, mải mê nhìn dòng sông. Loáng một cái, đã thấy trời sập tối, ánh đèn từ cầu Cần Thơ đã lấp loáng phía xa, và tiếng vọng cổ đã lạc trôi trên một Ninh Kiều nẻo ăn đường chơi. Tôi không biết đứa nào đã lấy cắp đi mấy tiếng đồng hồ của mình. Thời gian ở đây dường như bị bỏ bùa. Tôi lơ đãng, ngẩn ngơ như một kẻ tương tư cổ nghiệp.

Và… chết lặng…

Người ta hay nói, cuộc đời con người ta, được sống đã là vui, nhưng được đi mới là hạnh phúc. Tôi thấm thía điều đó. Nếu còn có kiếp sau, tôi xin tạo hóa hào phóng cho tôi thêm một đôi chân nữa, để lỡ khi đôi này mỏi mệt vì cơm áo gạo tiền, tôi lại có thêm đôi chân kia để mà xê dịch, để mà phiêu lãng.

“Cần Thơ, Vàm Sáng, Ba Láng, Phong Điền.
Anh thương em cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê.”

Câu ca dao xưa như một lời tự tình của vùng đất trù phú. Người ta giàu có, người ta hào sảng, người ta không tiếc nhau bạc tiền, chỉ sợ cái tình cái nghĩa không đong đầy.

Giờ đây, tôi ngồi gõ những dòng chữ này, nhìn qua ô cửa sổ nhà mình ở Vũng Tàu. Trời đang mưa. Cái thứ mưa trắng đường nhạt lối của phố biển. Mưa dầm dề, làm người ta phải trầm uất tiêu dao. Mưa như đổ dồn vào trăm thương ngàn nhớ. Mưa như thọc mạch vào ngàn lẻ một đêm ký ức. Mưa như bộn bề lòng dạ người con gái sắp về nhà chồng.

Tôi thầm nghĩ, từ Vũng Tàu chạy về Ninh Kiều, thực ra có là bao xa? Vậy mà đã bao lâu rồi, tôi cũng chưa một lần quay lại, để được xả láng một bữa ốc nướng tiêu, để được tương tư một câu vọng cổ bên bờ sông Hậu.

Tôi nhớ Cần Thơ. Nhớ quay quắt.
Và… chết lặng… chết lặng… chết lặng…

Đăng lần đầu ngày Th6 21, 2018
Cập nhật ngày: Th11 3,2025