32 C
Hanoi
Thứ Bảy, Tháng 10 18, 2025

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...

Hát những giai điệu yêu thương

T huở còn thơ dại, tôi là...
Trang chủ Blog Trang 68

Thương nhớ vùng cao

Tôi không biết thổi khèn như Lò A Sùng, tôi không giỏi bắn tên như Giàng A Chính, nhưng thời gian của tôi cứ vùn vụt trôi đi như mũi tên, cứ âm ba điệp điệp như điệu khèn bè bạn. Ai đó khóc, ai đó cười, ai đó say còn tôi cứ ngân nga mãi thương nhớ vùng cao.

Cứ mỗi độ thu về hơi may ẩn dật trên các triền núi, ven lối đi, trong bản nhỏ, khứu giác của tôi lại trầm kha mùi nếp nương, điệu khèn đổ lửa, màn giăng sạp rượu nồng và ngất ngây những đêm Mường tịch mịch.

Là lúa đó, nó chín từ chân đèo, nó ngả từ xanh lá mạ tới vàng ruộm trăng non, là nếp đó nó vắt từ lưng chừng nương đến bộn bề thôn bản. Đâu đâu cũng thấy một màu vàng nhớ thương day dứt. Tây Bắc ư mùa thu gấm vóc những nẻo đường.

Ừ nhỉ tháng chín xếp nắng lên gác bếp, tháng chín gùi gió vào nhà kho, tháng chín đổ vàng ra nương rẫy, nhìn mấy đường dao đi, ngước mấy đường trâu về đâu đâu cũng ngờm ngợp no tròn màu lúa. Vậy ư? Ai bảo thương nhớ vùng cao.

Mùa lúa chín ở Tây Bắc diễn ra vào khoảng từ tháng 9 đến tháng 10, chẳng gọi mời thì đã làm bồn chồn những đôi chân ham đi gửi mộng mà chiêm ngưỡng vẻ đẹp của vùng cao Tây Bắc.
Ai trầm trồ khi bước chân vào thung lũng hùng vỹ ở Mù Cang Chải  với những thửa ruộng bậc thang vàng ươm trải dài trên những sườn núi cheo leo.Ai chết lặng Lao Chải, những áng mây bồng bềnh trôi trên ruộng bậc thang như mênh mang gợn sóng. Ai bảo thương nhớ vùng cao?

Có một hôm nào đó chẳng như bao hôm nào ở bản Phùng thuộc huyện Hoàng Su Phì tỉnh Hà Giang bạn thức dậy trong một buổi sớm mai. Ô kìa bình minh nhen nhóm giữa những lớp lúa vàng đang độ thu hoạch, lúa ngả vào gió, lúa nắng vào mây, lúa bồng bềnh xếp vàng xếp bạc.

Đừng vội giật mình mà ngã vào mùa màng bản nhỏ. Ai bảo thương nhớ vùng cao.Đừng có ngạc nhiên khi ai đó ném bạn vào một buổi chiều Tú Lệ, sau những hạt mưa cuối mùa mỏng mảnh, dưới thung sâu những hạt nắng cuối ngày vỡ òa lặn vàng vào lúa, se khô vào gió mà mơ hồ lên khơi mườn mượt những thang trời. Chết lặng ư? Ai bảo thương nhớ vùng cao.

Tôi đã từng ngã vào nụ cười của một cô gái Mông, đã ngẩn ngơ trong một vài lưỡi hái, tôi ước mình là lúa mà vàng rực những tháng ngày, tôi ước mình là gió mà thơm nếp những mùa nương.
Ngày trôi đi, giờ trôi đi, tháng năm biền biệt những mảnh vàng Tây Bắc. Đời người ai biết được những niềm vui nhỏ bé vùng cao. Đừng ước nữa tôi chỉ muốn làm một điệu khèn thôi để nhảy nhót những tháng năm này, giữa vùng trời này. Ai bảo, thương nhớ Vùng Cao.

Có những đêm phải ngủ lại Pù Luông, có những khi offroad xuyên rừng, có đôi lần lạc như thú hoang trekking men theo sườn núi tôi cũng chẳng hơn gì Lưu Nguyễn ngày xưa lạc bước tới Đào Nguyên.

Vùng cao là vậy khắc khoải như bìm bịp than chiều, dớ dẩn mà ngồ ngộ như đôi dép tông Lào gã choai choai trong bản. Vùng cao là vậy, vụng về như lưỡi hái thôn nữ trăng tròn mà thoăn thoắt chuyển mùa ươm hạt. Chết chửa, ai bảo thương nhớ Vùng Cao.

Là bùa đấy, là ngải đấy, mùa thu là thứ bùa ngải ám ảnh con người. Đừng sợ, tôi đã nhiều lần muốn được chết chìm trong thứ bùa ngải ấy để mà vĩnh hằng. Tháng chín ư, tháng chín mà làm gì, đừng nói lại thương nhớ Vùng Cao?

Cánh đây chừng mười năm, lâu như bước con trâu đẩy dốc, tôi và vài người bạn đã chia ba con đường Y Tý. Một đường bắt đầu từ dưới chân đèo Ô Quy Hồ dốc ngược lên như đỉnh trời. Một đường được đi xuyên từ Bát Xát – Bản Vược qua Mường Hum mà vào và đường thứ ba là từ tận A Mú Sung, điểm gần sát với Lũng Pô – nơi con sông Hồng buông mình vào cõi Việt.

Mấy anh em chúng tôi chẳng ai bảo ai dang hai tay mà ôm trọn tháng chín vào lòng, lúa rục rịch tay áo, lúa vàng rực khom lưng, lúa ngả vào lòng thơm thảo. Tôi mon men chạm đến mây trời.
Mấy hôm trước Vũ Mạnh Cường gọi: Hồ ơi về Trạm Tấu nhớ ghé Homestay mình nhé…Dông dài nữa nhưng tôi chẳng thể nào nhớ hết đã nói những gì, đã nghe những gì, trong lòng chỉ trào dâng một ham muốn, một ham muốn tột bậc…xách ba lô lên và đi…và đi…

Cường kể: “Mình chưa kinh doanh du lịch bao giờ nên cũng hoang mang lắm. Nếu tiếp tục khai thác thị trường trong huyện thì không thể thành công. Và mình bắt đầu lên mạng học hỏi mô hình kinh doanh du lịch homestay thu hút khách từ dưới xuôi lên”.

Từ một mảnh đất xung quanh là ruộng đồng, Cường vay vốn ngân hàng mở rộng quy mô homestay. Đến nay, tổng diện tích đất homestay này hơn 2 ha, bao gồm cả bể bơi khoáng nóng, nhà sàn và đồi thông. Hiện tại, homestay của anh Cường có 19 phòng nghỉ, trong đó có 17 phòng nhỏ và 2 phòng tập thể.

Những ngày cuối tuần, lượng khách dưới xuôi lên nghỉ dưỡng kín phòng, còn những dịp lễ tết, mỗi ngày khu nghỉ dưỡng thu hút 1.000 lượt người đến tham quan, vui chơi. Nói tới homestay tôi lại nghĩ về Trần Vũ và Chez Vu Homestay Phú Quốc. Khỉ thật, tôi là ai mà cuộc đời cứ mắc nợ những bàn chân.

Tôi là ai? Tôi không biết thổi khèn như Lò A Sùng, tôi không giỏi bắn tên Giàng A Chính, nhưng thời gian của tôi cứ vùn vụt trôi đi như mũi tên, cứ âm ba điệp điệp như điệu khèn bè bạn. Ai đó khóc, ai đó cười, ai đó say còn tôi cứ ngân nga mãi thương nhớ vùng cao.

Mái đình tha hương

Khi những đôi chân còn chưa mỏi mệt, khi những đôi vai còn gánh nặng nhân gian, thì cho dù là một ngày nào đó vẫn còn những mái đình tha hương…

   Ngày đổ dài trên phố
Những mỏi mệt vô chừng…

Đã úa mềm như cỏ
Đã tan hòa như sương
Đã chìm làm đá sỏi
Đã hư vô bụi đường
Mà sao lòng vẫn khát
Mà sao dạ vương thương
Sao trí còn lẩn khuất
Một nỗi sầu tha hương

   Và người không ở lại
Đằng sau ánh tà dương
Còn ta và đêm tối
In đời nhau trên tường

( Thơ Phạm Thùy Vinh )

Đã nhiều lần tôi ngước mắt lên, đã nhiều lần tôi chùng chân xuống và biết bao lần trong giấc chiêm bao vụng dại những mái đình ấu thơ lại vi vút hiện về. Cuộc sống của người tha hương là vậy, cho dù bạn đi đến đâu, là cùng trời cuối đất hay góc bể chân đời, phồn hoa đô hội hay lấm lem cực nhọc thì cây đa bến nước sân đình luôn là những ám ảnh vượt mọi ngóc ngách ngõ hẻm hang cùng của không gian và thời gian.

                                            Có một ngày trên xứ người xa lạ, không phải thôn Đoài, cũng chẳng phải thôn Đông, hoàng hôn tím sẫm buông xuống buổi chiều của gã đàn ông bươn chải, bất giác một mái đình cong vút lở lói những tường gạch điêu tàn, đó là khi quê hương đang lặn lội tìm về trong những ẩn ức yêu thương. Cái cảm giác đó khiến cho biết bao nhiêu người phải nổi da gà, cảm giác đó đã chạm đến yêu thương sâu thẳm của mỗi con người tha hương.

Chỉ một mái đình cong vút trong tâm tưởng cũng khiến người ta ấm lòng, như được trở về với mẹ, như được trở về với cha, như được trở về quê hương xứ sở. Dẫu có nghèo xơ nghèo xác, dẫu có bùn lầy đầm cạn chuôm sâu thì nơi ấy vẫn là nhà. Quê hương như một tiếng nấng nghẹn ngào ám ảnh người ta vào những buổi chiều buông tà khơi trăng. Giấu làm sao được những cảm xúc, che đậy làm gì những cảm xúc, hãy cứ để nó bung ra, hãy cứ để nó nức nở mà gọi tên ngày tháng.

                                                     Ai bảo thời gian là phũ phàng? Tôi nói thời gian là ngang trái. Bởi thời gian chính là kẻ khổ tâm nhất khi phải chứng kiến lớp người này tới lớp người kia sinh ra lớn lên để rồi cứ biền biệt cá nước chim trời. Than ôi những mái đình rêu phong, găm vào mình bao mưa bao nắng, xõa vào mình bao nhức nhối trần ai. Để làm gì? Để trơ trơ mốc mác, để sói mòn ưu tư, để phiền muộn những tháng ngày heo hút. Ai bảo thời gian là phũ phàng? Người ta đi và đi. Ai bảo không có những mái đình tha hương.

Ngôi đình làng có thể được xem là những lối đi về của mỗi người, đặc biệt trong những dịp hội làng, hay mỗi khi làng có việc. Trong khuôn viên của ngôi đình thường có cây đa cổ thụ, bóng râm mát, hồ sen và một khoảng sân vẫy gọi chim về làm tổ.

                        Lúc đầu, đình chỉ có chức năng như ngôi nhà lớn của cộng đồng, là nơi hội họp, nộp sưu thuế và nơi nghỉ cho khách lỡ đường. Về sau, triều đình phong kiến mới sắc phong cho những vị có công với nước làm Thành Hoàng làng (sống làm tướng, thác làm thần). Vì vậy đình kiêm chức năng nữa là thờ vị Thành Hoàng – người có công khẩn đất, lập làng.

Ngoài Thành Hoàng làng, tùy theo thực tế của làng, mỗi ngôi đình làng có thể thờ các vị thần, thánh khác do mỗi làng tôn thờ, hoặc việc thờ cúng các vị thần theo sắc phong của nhà vua, tất cả đều được rước vào đình thành một tập thể siêu thần, thành một sức mạnh vô hình, tạo niềm tin, niềm hy vọng của làng xã Việt Nam.

                                Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, trong đời sống người dân Việt Nam khi xưa, đình làng khi khởi dựng được phục vụ nhiều mục đích, từ thờ tự, tế lễ, là nhà hội đồng chung, là nơi xử kiện, nộp sưu thuế, nơi nghỉ cho khách lỡ độ đường, đình làng cũng là nơi vui chơi, nơi sinh hoạt ca hát, có đình làng còn là lớp học… Đình làng còn được coi như biểu tượng của quyền lực làng xã, nó có chức năng như một ngôi nhà lớn của cộng đồng.

Chỉ bấy nhiêu đó thôi mà đình làng có một sức sống bền bỉ, tôi có thể quên mùa thu, tôi có thể quên mùa hạ và ai nữa có thể quên mùa xuân nhưng đình làng căm căm như cái rét nàng Bân chẳng ai nỡ lòng quên mùa đông tàn trên những tán lá đa sân đình cũ càng rêu mốc. Chẳng ai nỡ lòng quên cái nắng cái gió khô rang những đêm hè. Một đêm hè nghe lời hát ru sân đình. Có không? Có chứ, những lời hát ru muôn thủa đã nhập đồng nhập bóng nơi này.

                                 Sân đình như một nỗi bi ai từ ngàn kiếp đã chẳng mong một gánh tương phùng. Người ta gió, người ta mây, người ta xoải những bước dài tha hương, còn mái đình trăm năm hay ngàn năm vẫn vô thủy vô chung mà trầm tịch, mà lặng câm, mà rang rộng cong vút những mái xưa chái cũ dưới vòm trời này, dưới gầm trời này, dưới những thác lũ cuộc đời này…

Chiều hôm ấy, chiều hôm nay, chiều hôm kia, đã rất lâu rồi những buổi chiều tôi gặp. Mái đình ưu tư ở đâu và ở đâu, cất những mái vòm cong vút mà cuốn tôi vào lòng. Đó là khi tôi tha hương, đó là khi tôi cơ nhỡ, đó là khi tôi không thể nói lên lời. Ai biết và ai biết. Chỉ có tôi với một mái đình. Để tôi nhớ, để tôi đếm, để tôi nghĩ… đời tôi đã có bao nhiêu mái đình tha hương…

Người đến từ Triều Châu

Người đến từ Triều Châu nhưng lại không nhớ rõ mình là đời thứ bao nhiêu của dòng họ từ Triều Châu di cư đến đây nhưng chiếc xe hủ tiếu, mì truyền lại từ đời ba anh đến nay cũng ngót nghét gần 60 năm.

     Đặt chân đến Hà Nội, Hà Nội đâu phải người dưng, người ta muốn thưởng thức ngay một tô phở Bát Đàn, phở Lý Quốc Sư nóng hổi. Còn tới Sài Gòn chữ vội trên vai bạn nhất định phải ghé những tiệm dưới đây để thưởng thức hủ tiếu.

     Những người Hoa đầu tiên từ Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Triều Châu… đã đặt bước chân di dân đầu tiên lên “Hòn ngọc viễn đông”. Họ mang theo nhiều nét văn hóa, phong tục khác nhau làm cho linh hồn mảnh đất này thêm phong phú. Mà trong đó, nghệ thuật ẩm thực là nét chấm phá thú vị, với điểm nhấn đặc sắc là hình ảnh những chiếc xe hủ tiếu, mì “chở” trên mình các điển xưa tích cũ của lịch sử Trung Hoa.

     Năm 1778 người Hoa từ Cù lao Phố đã chuyển về Chợ Lớn sinh sống và một cộng đồng người Hoa bắt đầu hình thành. Cũng từ đó những chiếc xe hủ tiếu mì đầu tiên bắt đầu xuất hiện ở Sài Gòn. Ban đầu phần lớn người Hoa tập trung ở khu Chợ Lớn. Anh Lưu Khải Văn không nhớ rõ mình là đời thứ bao nhiêu của dòng họ từ Triều Châu di cư đến đây nhưng chiếc xe hủ tiếu mì truyền lại từ đời ba anh, đến nay cũng ngót nghét gần 60 năm. Cứ đều đặn 7h sáng anh bắt đầu nấu và chế biến nguyên vật liệu, đến 13h chiều thì bày bán, đến 23h khuya lại dọn hàng. Chu kỳ ấy cứ tiếp diễn đều đặn tuần tự từ hàng chục năm nay. Tất cả công thức nấu nước lèo, pha chế đều “bí truyền” riêng trong dòng họ.

     Nằm trong con hẻm nhỏ trên đường Nguyễn Thiện Thuật (quận 3, TP.HCM), quán có tên là Trường Thạnh nhưng nhiều thực khách chỉ biết đến cái tên “hủ tiếu mì bò viên Triều Châu”, bởi đây là quán ăn có chủ là người gốc Triều Châu và nổi tiếng bởi món bò viên nhà làm cực ngon.

     Được biết, quán hủ tiếu Trường Thạnh do một người đàn ông gốc Hoa tên Thái Minh Khôn mở bán khoảng 60 năm trước, khi ông cùng vợ con sang Việt Nam sinh sống và lập nghiệp. “Ngày đó cha tui chỉ bán bò viên với nước súp, mới đầu hương vị khá lạ nên nhiều người không thích cho lắm. Cha tui cứ nấu đi nấu lại riết rồi cũng quen, cha còn tự chế biến ra công thức làm bò viên của riêng mình và được thực khách ủng hộ đến tận bây giờ”, bà Thái A Muổi (56 tuổi, chủ quán đời thứ hai) cho biết.

     Khi ông Khôn qua đời, toàn bộ công thức làm bò viên, nấu nước lèo đều được ông truyền lại cho con gái là bà Muối. “Tui tiếp quản quán ăn của cha để lại cũng hơn 20 năm nay rồi, ngoài bò viên thì tui cũng có thêm một số thành phần ăn kèm như gân bò, lòng bò, lá sách… Đặc biệt bò viên, nước chấm đều phải tự nhà làm thì mới yên tâm giữ đúng hương vị, vì đó là cái đặc trưng, cái riêng biệt mà cha tui làm ra rồi”, bà chủ nói.

     Theo cảm nhận của nhiều thực khách đã từng ăn và “nghiện” hương vị của hủ tiếu mì bò viên nơi đây thì “bò viên phải nói là ngon tuyệt đỉnh, dai nhưng không hề cứng, mềm mềm, sần sật, cắn một nhát là ngập răng và mùi bò thật sự rất thơm ngon”. Tuy nhiên, tô hủ tiếu mì ở đây khá ít nên nếu người nào có sức ăn khỏe thì phải hai tô mới đủ no.

     Bên cạnh hương vị thơm ngon của món ăn, chất lượng của bò viên thì phong cách phục vụ và thái độ bán hàng vui vẻ của chủ quán cũng là điểm níu chân thực khách suốt hơn nửa thế kỷ qua.
Bà chủ ở đây bán hàng dễ thương lắm, tôi ghé ăn lúc nào cũng được chủ quán hỏi thăm tận tình xem ăn có ngon không, có vừa miệng không. Có hôm còn được tặng thêm chén bò viên ăn kèm. Ấn tượng nhất là một lần tôi ghé ăn thì thấy có đứa bé bán vé số vào mời khách, bà chủ ra hỏi có đói bụng không rồi làm cho đứa nhỏ một tô hủ tiếu bự. Với riêng tôi thì món ăn do một người có lòng tốt nấu ra chính là món ăn ngon nhất rồi. Mỗi khi hương bò viên thơm lên nghi ngút, tình người, tình đất, tình xứ sở lại giao hòa với nhau khiến cho lòng tôi mải mê thờ phụng.

     Hủ tiếu Triều Châu ngon quá, tuyệt vời quá, mùi vị phá lấu cải chua thanh đậm và miếng hủ tiếu hồ trơn trơn dai dai, tất cả hòa nguyện vào đầu lưỡí, một sự kết hợp độc đáo cuốn hút từ miếng đầu tiên tới miếng cuối cùng, chắc chắn bạn sẽ phải ghé ăn hoài vào những lần sau.

     Đến Sài Gòn muốn ăn hủ tiếu bạn có thể đến Hủ tiếu mỳ cật: Cửa hàng nằm tại số 62 Trương Định, phường Bến Thành, quận 1. Quán nổi tiếng và có từ lâu đời, tuy không gian hơi nhỏ nhưng lúc nào cũng đông khách. Tô hủ tiếu luôn đầy đặn như tấm lòng hiếu khách của chủ quán, sợi mỳ dai dai được làm trong suốt như bột lọc, bạn cũng có thể lựa chọn ăn cùng thịt nạc, xí quách, thịt bằm, hay thập cẩm đều rất lạ và ngon miệng.

     Ngoài ra bạn có thể đến Hủ tiếu Nam Vang Ba Hoàng. Là một quán không biển hiệu, nhưng luôn đông khách nằm trong hẻm 46 Võ Văn Tần. Hủ tiếu Nam Vang hay hủ tiếu xương ở đây đều rất ngon. Tô hủ tiếu đầy đặn, tôm tươi luộc đỏ au, thịt xắt mỏng, thịt bằm béo ngậy. Nước dùng ngọt đậm đà, hành phi thơm giòn ăn kèm tỏi ngâm và sa tế thơm hợp vị.

     Ngồi ngắm nhìn những tô hủ tiếu đang nghi ngút khói, đang nghi ngút hương, đang thênh thênh thang thang đường phố, bất giác tôi lại nghĩ đến những xe đẩy hủ tiếu truyền đời của người đến từ Triều Châu. Thời gian sẽ chẳng bao giờ trở lại, giống như hôm nay bạn ăn một tô hủ tiếu này đã khác, ngày mai bạn ăn một tô hủ tiếu cũng ngay tại nơi này cũng sẽ khác. Chỉ có những phong vị quê hương, tình người, tình xứ sở sẽ chẳng bao giờ thay đổi. Kể cũng lạ, người đến từ Triều Châu…

(Bài viết có tham khảo một số tư liệu từ Wikipedia)