26 C
Hanoi
Chủ Nhật, Tháng 10 19, 2025

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...

Hát những giai điệu yêu thương

T huở còn thơ dại, tôi là...
Trang chủ Blog Trang 67

Nắng mưa một cánh đồng làng

Có những chiều chật hẹp trong lòng phố, tôi đã nhớ biết mấy cánh đồng của tôi. Cánh đồng bạc thếch đất đai, phấp phỏng những hạt mầm mùa vụ, cần mẫn nuôi lớn những giấc mơ, những hy vọng, tin vào phù sa ngày mai rồi sẽ “còn chồi nảy cây” ngay cả khi lũ bão vừa qua…Và rồi, tôi đã mải miết đi tìm …

Chỉ cách trung tâm phố Vinh vài cây số, chạy dọc con đường đê sông Lam là đã chạm bạt ngàn cói Hưng Hòa. Trên cánh đồng cói tháng bảy, tôi đã gặp một ông lão xóm Phong Thuận đang miệt mài gặt cói, chẻ cói. Nhìn tấm thân vạm vỡ của ông đánh trần dưới nắng chiều, không ai nghĩ ông lão Lê Xuân Thùy chạm tuổi 70, lại còn là một thương binh. Ông kể: “Nhà tui làm cói từ đời cố, can. Khi vừa mở mắt là thấy cây cói, là nghe mùi cói. 6 tuổi đã biết kéo gon. 10 tuổi đã ra đồng cùng cha mẹ gặt hái. Các o không quen, thấy gốc cói sắc, đâm vào chân trần là đau, chớ như bầy tui lại quen đi trên gốc cói, trên ruộng mấp mô này. Đi đất bằng có khi thấy chân mình lạ lẫm, chông chênh”.

Những lời nói thủng thẳng, tưởng chừng xù xì của ông, ấy vậy mà khiến tôi sửng sốt. Không chỉ bởi nó giản dị, mà còn đầy sâu sắc, yêu thương. Ông kể với tôi về những vụ cói ngày xưa, thời hoàng kim của cây cói Hưng Hòa, về cái thời làm hợp tác, tiếng cười nói rộn rã cả cánh đồng bạt ngàn gần 70 ha trồng cói. Rồi ông nói về gia đình mình, hiện còn 6 sào cói, mỗi năm thu hoạch 2 vụ thay vì 3 vụ như trước đây mà “nguyên nhân là cói thoái hoá hết rồi”.

Ông thở dài, không giấu nỗi ngậm ngùi, rằng 4 con ông giờ đây đã chẳng ai theo nghề cói, “2 đứa rời quê vào Nam lập nghiệp, 2 đứa làm thợ xây”. Vậy là nghề cói 4 đời rồi sẽ khó mà giữ được. “Là cũng mừng cho chúng, vì làm cói xem chừng vất vả, nhưng mà tiếc cái nghề truyền thống cha ông”. Nhưng rồi ông vẫn hy vọng “Có thể rồi người Hưng Hòa cũng phải tìm được hướng đi bền vững cho cây cói, biết đâu rồi nông dân trồng cói lại có một ngày được hưởng ấm no nhờ vào đồng đất của mình”.

Ông cũng kể về năm mình ra trận, nắm cơm cuối mình ăn trên chính cánh đồng này, có thể cũng ngồi trên chính là những gốc cói này, mà cây cói ngày xưa cắt rồi lại lên mãi đến giờ. Ông đã chiến đấu 81 ngày đêm ở chiến trường Quảng Trị nóng bỏng, trong giấc mơ bom đạn chập chờn vẫn thấy bạt ngàn cánh đồng cói quê hương. Rồi ngày trở về, từ bỏ súng đạn, cởi áo lính để khoác lên người tấm áo nông dân, ông lại miệt mài với cánh đồng này.

“Cùng độ tuổi của tui, người còn ra lấy gon được hiếm lắm. Dưới tôi chừng dăm tuổi còn có ông Dư bên ruộng kia kìa, ông ấy cũng trở về từ chiến trường miền Nam, cũng là thương binh, hoàn cảnh khó khăn hơn, sức khỏe yếu hơn và vẫn bám lấy cây cói mà sống”.

Theo tay ông Thùy chỉ, tôi gặp ông Dư. Ông Dư sinh năm 1954, là thương binh 2/4. Con ông Dư là đời thứ 5 cũng đang làm cói trên cánh đồng này. Cuộc sống còn nhiều vất vả, nên ông, dù đã yếu vẫn phải ra đồng. “Mà mùa cói, không ra cũng nhớ. Tui quen bà tui cũng trên cánh đồng này. Cảm mến nhau vì cái đức siêng năng, chăm chỉ mà nên đôi, nên lứa. Có thể nói, trừ quãng đi bộ đội, thì cả cuộc đời tui, cuộc đời vợ tui đã diễn ra trên cánh đồng”

Tôi còn gặp ở đây những chị Hiếu, chị Duyên… rộn rã tiếng cười, đẫm ướt giọt mồ hôi trên cánh đồng đầy nắng lóa. Nghề cói là thế, cần nắng. Có biết bao nhiêu khó khăn nghề cói, cùng nỗi lo mai một, nhưng giây phút này đây, tiếng máy chẻ, tiếng dao cứa vào từng lá cói xanh tươi, tiếng bước chân giẫm lên từng thớ đất rậm cỏ, và tiếng đàn châu chấu nhảy rào rào sau khi bị đánh động bởi bàn chân người khiến tôi cảm thấy tất cả như trong một điệu nhạc vui…

Những người nông dân Phong Thuận ra đồng từ lúc 4 giờ sáng, trưa về nhà, chiều lại ra cho đến tận 7, 8 giờ tối. Bao nhiêu năm qua, họ đã quen với cái mùi ngai ngái của đất bốc hơi khi nắng vừa lên, mùi của những giọt sương tan ra trong bình minh, mùi của cỏ dại, của cói lúc đã cao ngang tầm với. Và mùi của mùa màng, cái mùi mang đến niềm vui dìu dịu và một nỗi trìu mến khó tả mà phải gắn bó lâu năm trên cánh đồng, người chủ nhân của chúng mới thực sự cảm nhận được.

Khác với màu xanh bạt ngàn cói Hưng Hòa, thì trên cánh đồng Khánh Sơn (Nam Đàn), lại ngập màu nâu vàng xao xác. Người đàn bà nhỏ thó thoăn thoắt khiêng những bao tải ngô đặt lên cân dọc con đường nhỏ dẫn ra bến đò Vạn Rú quệt mồ hôi nói với chúng tôi. Bà tên Tuyết, 60 tuổi, là dân ở Khánh Sơn 2, vượt đò Vạn Rú sang cánh đồng Khánh Sơn 1 này bẻ ngô, phơi ngô thuê.
“Năm nay, chỉ có cỏ là xanh, còn ngô thì cháy”. Bà nói với bao nhiêu xót xa, rồi chỉ cho tôi “ông chủ ngô”. “Ông chủ” Phạm Việt Xuân, năm nay 51 tuổi, bao năm tận dụng đất bãi trồng vài mẫu ngô, nhưng năm nào cũng thấp thỏm.
“Đất cát đã khó trồng, mà năm nay hạn quá, ngô không thể ra bắp cho trọn”. Anh Xuân cũng cho hay, “làm thì làm chứ xác định là lỗ. Phải thuê bà con bẻ tại ruộng, rồi bóc, phơi luôn trên con đường nhỏ này, đóng bao, cân luôn. Phần lớn ruộng ngô năm nay đành bỏ vì ngô không ra nổi hạt, thu hoạch được ít lắm”.
Trên cánh đồng rộng hút tầm mắt, nắng đã khiến cây ngô khô giòn gãy gục. Thảng hoặc, có bóng một người đi mót trên những ruộng đã bỏ không thu hoạch. Bà Tuyết nói, cả cuộc đời bà làm lụng trên đồng, hết việc nhà mình lại kiếm việc đi làm thuê để trang trải cuộc sống.

Nghề nông, với bà là nghề “cha truyền con nối”, hết đời nọ sang đời kia, nên cánh đồng này bà thuộc từng ngách cỏ, từng lối mòn. Bà đơn thân nuôi 1 cô con gái, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, năm nào cũng trông cậy “ơn giời”. Thế nhưng, bà hay cả anh Xuân, bao năm nhìn nắng hạn, nhìn mưa lụt vẫn tin “ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng” và nhắc nhở nhau rằng: “chớ bỏ ruộng hoang”…
Giống như mọi người nông dân trên khắp các cánh đồng đất Việt, người dân Khánh Sơn dành cho đất đai một tình yêu da diết. Họ không biết diễn tả tình yêu đó bằng ngôn từ, nhưng tôi biết, nó ở ngay đây, trong trái tim họ, trong ánh mắt xao xuyến niềm vui của họ khi được hỏi về nghề nông, trong nụ cười hiền hậu rạng rỡ của họ ngay cả trong lúc đang lao động mệt nhọc nhất.
Tình yêu ấy thấm đẫm trong từng giọt mồ hôi nhỏ xuống cánh đồng, và những mùa vụ đã trôi qua bấy lâu nay đều có thêm vị mặn nồng của mồ hôi và nước mắt. Tình yêu ấy đến một cách tự nhiên như những cơn gió vốn đã thênh thang hiện hữu giữa cõi trời.

Trong sâu thẳm, nó là sự gắn bó một cách tự nhiên giữa người nông dân và công việc của mình, cái công việc ngàn đời nay ông bà tổ tiên cha mẹ họ vẫn làm, vừa là một cách để duy trì sự sống vừa như cuộc chơi mà họ dành cả đời đặt vào đấy, một cách tự nguyện đến gần như nghiễm nhiên.
Như một nghệ sĩ yêu sân khấu của mình, người nông dân cũng yêu cánh đồng bởi trong phần lớn cuộc đời đó chính là khoảng trời của họ. Mồ hôi đổ xuống để những nhánh lá xanh tươi mọc lên, lung linh trong nắng.

Tôi vẫn luôn tin vào một thứ tình cảm mang tính chất gắn bó cội rễ với tâm thức người Việt, đó là tình yêu đối với đồng ruộng. Dù bạn là ai, một đứa trẻ sinh ra ở miền thôn quê hay trong đô thị phồn hoa, dù là người từ nhỏ đã quen với cái tấp nập của phố phường hay những kẻ chân lấm tay bùn quanh năm bán mặt cho đất.

Một thứ tình yêu không đơn giản như yêu một nơi ta đã sinh ra hay gắn bó lâu dài. Mà có lẽ là một tình yêu sẵn có, một tình yêu đã tồn tại ngay cả trước khi con người sinh ra, nó vừa rất hiện thực lại vừa mang tính tâm linh. Bởi trên quê hương hình chữ S, người ta đâu thể đếm hết được những cánh đồng.

Từ ngàn đời nay, người ta sinh sống và hít thở trong bầu không gian của chúng. Và không chỉ sinh nhai, đến khi chết đi, người ta cũng nằm xuống cánh đồng, dưới những nấm mồ xanh cỏ. Hết thế hệ này đến thế hệ khác, cánh đồng thực sự là máu thịt của con người vì lẽ đó. Nó chính là nơi họ muốn quay về để vĩnh viễn nằm xuống khi đã già.

Là nơi những kẻ tha hương muốn quay đầu trở lại chỉ để đứng tần ngần trong một chiều đầy ráng đỏ. Là nơi trong một thời điểm đau buồn hay thất bại của cuộc đời, con người muốn được nhìn ngắm để vơi bớt nỗi lòng. Là nơi, cứ mỗi dịp Tết đến hay thanh minh, giỗ tổ, người ta lại hẹn nhau quay về để thắp nén nhang lên những nấm mồ và thầm thì gửi vào thiên thu những niềm thương nỗi nhớ…

Và như thế, cánh đồng không chỉ là nơi làm việc của người nông dân. Đó đôi khi là cả bầu trời của họ. Đó là mẹ. Là quá khứ, hiện tại và cả tương lai của con người.Có lẽ vì thế, tôi yêu tha thiết những vần thơ viết về nông dân của nhà thơ xứ Nghệ Nguyễn Sỹ Đại, và cũng luôn lấy nó để nhắc nhớ mình:
Nông dân sống lặng thầm như đất
Có thể hoang vu, có thể mùa màng
Xin chớ mất, chớ niềm tin sai lạc
Chín phần mười đất nước – nông dân

Ngõ quê thương nhớ vơi đầy

Ảnh: Tran Xuan Thieu

Ngõ quê thương nhớ vơi đầy. Ngõ quê là thế, có thể đo chiều dài bằng những bước chân, nhưng sao đo được chiều dài nhung nhớ, chiều dài nếp quê.

Người đi xa người ở lại.

Cách đây nhiều năm, trong một chuyến đi viết bài về mẹ liệt sỹ Nguyễn Thị Tuyết ở Nghi Phương, Nghi Lộc, tôi mãi ám ảnh bởi hình ảnh của bà mẹ lưng còng, đôi mắt mờ đục ngồi bên giàn trầu vợi trông phía con ngõ nhỏ. Năm ấy mẹ Tuyết đã chuẩn bị chạm ngưỡng 90. Hơn 40 năm qua, mẹ vẫn giữ thói quen ấy, đợi bước chân người con trai lên đường chiến đấu mà mãi chẳng thấy con về.

40 năm, đủ để người phụ nữ tóc đen trở thành bà già tóc bạc. Đủ để những hố bom trên quê hương xanh lại ruộng đồng, cây cỏ. Ấy vậy mà không hề làm vơi đi niềm tin trong trái tim người mẹ, rằng con mình, rồi sẽ trở về từ phía ngõ. Mẹ đã hình dung anh sẽ thả ba lô xuống, cười rạng rỡ và ôm mẹ chặt đến thế nào. Mẹ đã hình dung, mẹ sẽ khóc trên vòm ngực rộng của con trai mình ra sao.

Cô con dâu của mẹ kể rằng, có những đêm, nhất là những đêm mưa, mẹ lại lần trở dậy, rời giường, ra ngõ. Mẹ nói, lỡ mà Danh (con trai mẹ) nó về, mẹ không kịp trở dậy mở cửa, nó bị ướt thì sao. Rồi cứ chiều về, mẹ lại bên giàn trầu mà thủ thỉ. Những lá trầu run trên tay mẹ. Mẹ tin đó là dây trầu mà anh Danh đã trồng trước ngày ra chiến trường, trồng cho mẹ ăn trầu và hứa hẹn với mẹ ngày thắng trận trở về sẽ cưới cho mẹ một nàng dâu, những lá trầu ấy sẽ thắm trên môi hai họ…

Tôi đã nhức lên một suy nghĩ trong ngực mình, rằng, nếu như không có niềm tin cháy bỏng ấy, hẳn mẹ Tuyết cũng sẽ không đủ sức khỏe để sống đến ngày hôm nay. Và khi chúng tôi chào mẹ ra về, như một thói quen, bước chân chậm của mẹ lại đưa ra ngõ.

Mẹ đứng lặng trong bóng chiều đang phủ tím, không xa nơi này là dòng Phương Tích với bao nhiêu vết thương chiến tranh đã phủ sóng rì rào. Mẹ chỉ dưới chân mình, chính nơi con ngõ nhỏ này, những bước chân đầu đời của anh Danh đã chập chững ở đây. Rồi ngày tiễn anh lên đường, mẹ cũng đã đứng đây mà hút nhìn theo bàn tay anh vẫy…

Nhà thơ Vương Cường (em trai nhà thơ Thạch Quỳ) – môt người sống xa quê hơn nửa đời người, nhưng ông nói, hồn ông gửi cả ở làng quê Đông Bích của ông. Làng quê mà mỗi con ngõ đều thấm đẫm tình quê, vị quê.

Trong giấc mơ xa xứ, ông luôn mường tượng mình được bước chân trong con ngõ nhỏ. Con ngõ ngoằn ngoèo với bóng tre, bóng chuối. Phía sau là làng quê, phía trước là cánh đồng. Trên cành cây, những chú chim chào mào, đỏ đít, chim chìa vôi khoang trắng, chim chích mải bắt sâu lích rích suốt ngày.

Những đám mây chờn vờn phía núi Quỳ. Ngõ nhỏ ấy, nơi những người con gái làng lấy chồng xa và những người con trai lấy vợ ngoài làng thường dừng lại ở đây, như lời tạm biệt và lời chào người và đất làng để trở thành công dân của làng. Người làng khi về với ông bà, tổ tiên cũng qua đây. Đám người đưa tiến thường dừng lại và tiếng trống buồn vang lên như lời từ biệt.

Như lời đề dẫn của câu chuyện dài.

Mỗi ngõ quê lại mang môt dáng dấp, một dấu ấn. Bao giờ đặt chân đến một làng quê nào, tôi vẫn hay để ý tới những con ngõ. Những cái ngõ nhiều tre ở làng lụt Hưng Lợi (Hưng Nguyên). Những cái ngõ vun vút hàng cau ở Thanh Liên, Thanh Tiên (Thanh Chương). Những con ngõ kín liếp phơi đa nem Diễn Bích (Diễn Châu). Những con ngõ mặn mòi ở làng muối, làng cá Quỳnh Phương (Quỳnh Lưu), Diễn Vạn (Diễn Châu). Những con ngõ nồng thơm mùi bánh đa, kẹo lạc ở Vĩnh Đức, mùi khói lò ở Trù Sơn (Đô Lương).

Những cái ngõ hẹp với vỉa gạch nghiêng nghiêng. Những cái ngõ bê tông hun hút. Những cái ngõ có vòm cổng lá uốn lượn. Xôn xao hay lặng lẽ bước chân đi, về. Ngõ quê, vừa như để mở ra, mà như vừa để khép lại. Nó là con sông nhỏ để đổ ra dòng sông lớn là đường làng ngoài kia, để từ đường làng lại ra với tỉnh lộ, quốc lộ.

Ngõ quê – nơi đầu tiên mở ra những con đường, những chân trời. Và cũng ngõ quê, khép lại một ngày rộn rã náo nhiệt, khép lại một cánh cổng, có khi chỉ bằng tre, bằng nứa đan cài để về lại, quây quần bên một nếp nhà, với bao nhiêu buồn vui, thăng trầm, khổ đau, hạnh phúc…

Ra ngõ quê mà thấy đường làng. Ra ngõ quê mà tắm gió nồm, mà ngắm trăng suông, mà đón hương cau, hương bưởi. Ngõ quê bời bời sắc hoa. Này hoa xoan, hoa bưởi tháng 3, này bông bụt đỏ cháy như niềm vui áo mới, những bông xuyến chi mong manh trắng. Những giọt sương kết thành chuỗi ngọc sáng lấp lánh bảy sắc cầu vồng khi nắng sớm vừa lên trên khóm cỏ.

Này bờ rào mạn hảo, cúc tần với những dây tơ hồng như muốn vấn vít cả tuổi thơ ta. Này bụi duối lá xanh um với những quả li ti vàng chín mọng… Con ngõ sáng đom đóm bay đêm, mỏng cánh chuồn, phất phơ cánh bướm, rù rì tiếng ong.

Không thể không nhớ về Nguyễn Bính mà trong mỗi bài thơ quê, đều thấy thấp thoáng đâu đây cái ngõ quê tình tứ, thẳm sâu trong đó: Có những con ngõ, bờ dậu thấp lắm, chỉ thoáng nhìn là biết “láng giềng đã đỏ đèn đâu”, để nhắn nhủ: “Chờ em ăn giập miếng giầu em sang/ Đôi ta cũng ở một làng, cùng chung một ngõ vội vàng chi anh”. Có con ngõ “Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn”, con ngõ mà hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ trong tiết mưa bụi Giêng, Hai khiến cô thôn nữ nào mơ màng nhớ lời hò hẹn?

Ngõ quê, ai đã sáng tạo ra ngõ quê mà tài đến thế. Như một nhịp dừng nhỏ trước khi bước vào với sân nhà, hay hiên nhà. Như một lời đề dẫn trong câu chuyện dài về những ngôi nhà, những phận người. Như để đong đựng bao nỗi nhớ, hoài niệm. Nơi người quê chập chững bước đầu đời. Nơi từ đó đi xa. Nơi tiễn đưa, nơi hò hẹn. Nơi quay quắt nhớ về…

Lớn lên từ ngõ quê.

Tôi cũng thế, lớn lên từ một ngõ quê, mang bao nhiêu ám ảnh ngõ quê, để rồi khi sống đời phố thị, bao năm vẫn không nguôi nhớ một lối về bé nhỏ. Tôi đã viết trong bài thơ vụng về tuổi nhỏ, rằng ngõ quê là “ngưỡng cửa đầu tiên tôi bước vào đời”. Nơi ấy, tôi vẫn còn nghe tiếng kẽo kẹt rặng tre ông trồng, những con thuyền lá tre bềnh bồng dưới mặt áo trong. Hoa dâm bụt cháy đỏ. Một ô cửa sổ màu xanh mở rộng đón nắng sớm mai. Lời bà tôi ru, những nàng Kiều lưu lạc, những Mỵ Châu với oan khiên lông ngỗng.

Khi tôi chập chững tập đi, bố tôi đã đầm gạch, vữa cho nhỏ rải lên nền đất để tôi đi mưa không trơn, không vấp. Nơi nào đó, có dấu chân tôi những chiều ngóng mẹ về. Cũng có lúc tôi đã rơi nước mắt tủi hờn những khi bị mẹ mắng. Tôi đã luôn đón bóng bà đi chợ về trong ngõ với rạo rực niềm vui bánh đa, kẹo vừng.

Nơi bà tôi nghe tiếng con chim gọi nước mà thở dài rằng sắp đến mùa lụt. Cũng là nơi bà nghe tiếng chim khách mà đoán bố tôi công tác xa sắp trở về nhà. Nơi lũ bạn tôi í ới gọi tôi đi học mỗi ngày. Nơi bà ra đó gọi tôi ời ời những trưa đi rong, rồi tiếng chổi quét lá êm đềm của bà lại vang lên mỗi chiều sương khói.

Là ngõ quê, ấp iu của tôi những tiếng rao thần thánh tuổi thơ. Ai kem mút, ai kẹo kéo càng kéo càng dài… Những lông ngan lông gà, những dép rách đứt quai xôn xao con ngõ, đánh đổi bao niềm vui tuổi thơ khờ dại. Những viên bi tròn, những que thẻ chuyền, trò khăng, trò đáo, trốn tìm… như vẫn còn huy hoàng trong tâm trí đứa trẻ quê ngày ấy. Nơi ấy, có câu chuyện cổ tích vẫn nằm nghe à ơi, đợi tôi về dù lâu lắm rồi tôi không còn tin vào cổ tích nữa nhưng đứa trẻ đã trưởng thành này biết mình dù có xa đến thế nào vẫn vĩnh viễn thuộc về đất quê.

Cũng ngõ quê này, tôi làm sao quên được ánh mắt của nỗi rung động đầu đời vào một trưa nắng tháng Giêng. Cái thời tuổi trẻ với bao nỗi sững sờ “một thoáng nhìn có thể hóa tình yêu”. Chỉ tại nắng làm má tôi bừng đỏ.

Cũng ngõ quê này, tôi quên sao ngày tiễn bà tôi một ngày tháng 5, nắng bời bời trên rặng cúc tần. Tại nắng chói mà mắt tôi cay xè, ầng ậng nước.

Ngõ quê là thế, có thể đo chiều dài bằng những bước chân, nhưng sao đo được chiều dài nhung nhớ, chiều dài nếp quê. Đó là một dấu mốc từ bước chân đầu đời bước ra của mỗi con người, đến ngày vui vu quy, rồi đến ngày nằm xuống… Lặng im chứng nhận những buồn, vui, những đổi thay mưa nắng.

Lặng im chứng nhận những nỗi lòng người mẹ quê tôi, tiễn chồng, tiễn con đi, để rồi lại vời vợi ngóng trông dằng dặc năm tháng, chờ từ thanh xuân vắt qua thời tóc trắng, lưng ong thành lưng còng, để cùng cây gậy lại đứng tựa ngõ quê. Những người mẹ biến điều “lạ thành quen” để rồi “quen đã thành lạ”.

Đó là nơi có nhiều tiếng cười và cả nước mắt thấm vào đất và hồn làng nhiều nhất. Ơi ngõ quê của tôi!

(Nguồn: baonghean.vn)

Thân thương một bóng đê làng

Đất nước của ta, một dải đất uốn mềm nằm trước biển trên bản đồ, một đất nước của bao dòng sông suối, của bao nhiêu bão dông, lũ lụt…nên cũng là đất nước của những con đê. Thân thuộc trong trái tim mỗi người Việt, ấy là bóng đê làng.

      Những con đê ngăn lũ, chắn bão giữ bình yên mùa màng và làng xóm. Đê cũng là nhân chứng lặng lẽ, chứng kiến bao nhiêu cuộc đời đi qua, bước chân người từ lúc chập chững đến khi về già, bao nhiêu cuộc tiễn biệt và trở về, bao nhiêu hẹn hò đôi lứa, bao nhiêu dời đổi quê hương…

     Tôi từng rời làng, và phút cuối, khi chiếc ô tô lăn bánh trên con đê quen thuộc, tôi quay lại nhìn lũy tre xanh mà ngày nhỏ bọn tôi thường ra đó mỗi tối bắt đom đóm, thoáng thấy trong gió mùi thơm ngầy ngậy của đất đai mùa màng. Mắt sũng nước, tôi suýt nữa đã định bảo bác tài dừng lại, quẳng đôi giày mới mua để cứ thế chân trần chạy xuống triền đê…

     Tại con đê ấy, tuổi thơ của chúng tôi đã trôi qua như một giấc mộng. Chúng tôi là những đứa trẻ trốn mẹ đi chơi trưa nắng, là những mục đồng lãng mạn hát trên lưng trâu, là đứa trẻ lên 9 bị trâu húc để lại một vết sẹo dài, là con bé mắt lúc nào cũng ươn ướt như sắp khóc, là thằng bé đen nhẻm có nụ cười hiền khô, là lũ người chân đầy bùn đất chạy thình thịch trên đê làng để đuổi theo một quả bóng, thả một con diều…

     Chúng tôi, những đứa trẻ khóc cười trên triền đê suốt tuổi thơ mình, đã lớn lên trong cái giấc mơ tưởng như chẳng bao giờ khép lại ấy.Khi xa quê, tôi đã biết thế nào là nhớ nhung. Một thoáng mưa buồn, gợn gió heo may, một màu xoan tím, con đò sang ngang, cánh diều chấp chới giữa hoàng hôn… đều có thể khiến những kẻ tha hương rớt nước mắt.

     Và trong những giấc chập chờn, con đê làng hiện ra vừa gần gũi thân thương vừa xa xăm diệu vợi. Những bước chân chạy trên đê của lũ trẻ hiện về trong ký ức như một thước phim quay chậm. Trên đê lúc nào cũng gió lộng. Gió trở thành người bạn thân thiết của chúng tôi, nó mang hương vị mằn mặn nồng nồng từ dưới triền sông hắt lên.

    Một người bạn của tôi cũng kể về một con đê trong ký ức làng của chị. Chị nói, đó là nơi chị tiễn cha mình đi làm ăn ở xứ người, hôm đó cũng là lần cuối hai bố con chị gặp nhau. Mẹ ốm nằm liệt giường, chị là người tiễn cha tới đầu làng. Ông đi mà không ngoái lại. Chị không hiểu sao ông không hề ngoái lại, đến tận giờ đây mấy chục năm đã trôi qua mà chị vẫn không hiểu nổi điều đó. Và ông đã biến mất khỏi cuộc đời chị như thế, để lại một nỗi rỗng không trong tâm hồn, cùng một nỗi buồn đau khắc khoải.

     Mẹ tôi từng kể, trong những năm tháng chiến tranh, những phụ nữ thế hệ bà đã tiễn người yêu ra chiến trận từ con đê làng. Chính ở đó, những hẹn hò, những yêu thương, nước mắt và nụ cười, những hạnh phúc, chờ đợi và cả những sự lỗi hẹn nữa, đã diễn ra. Dòng sông nhỏ chảy dưới chân đê không có tên.Người dân trong làng thường gọi là sông đê, vì chẳng có một cái tên nào hợp hơn để gọi. Chính dòng sông ấy, bờ đê ấy đã chứng kiến bao hẹn thề và bao cuộc chia ly, rồi sau này với thế hệ của chúng tôi, đã chứng kiến bao kỷ niệm vơi đầy. Dòng sông ấy, triền đê ấy, chính là linh hồn của làng, là linh hồn của quê hương. Nơi mà chỉ cần nghĩ tới, lòng ta sẽ chùng xuống và mắt ta rơi lệ.

     Có biết bao con đê như thế ở khắp các vùng quê Việt. Con đê chờ đợi bóng hình ai trong thơ Nguyễn Bính, con đê “mòn lối cỏ về” trong một ngày sang ngang của người thiếu nữ trong nhạc Trần Tiến… Còn bao con đê ngăn lũ, giữ làng khác. Không chỉ ngăn lũ, giữ làng, những con đê còn là chứng tích lịch sử, ghi lại những trang sử hào hùng của dân tộc, ở đó bao máu xương đã đổ xuống để có được hòa bình cho ngày hôm nay.

     Ai đã từng chậm rãi chạy xe dọc đê sông Lam, có giây phút bất chợt gặp cái nghĩa trang nhỏ ven đê đoạn qua xã Hưng Khánh, huyện Hưng Nguyên. Nghĩa trang nép bên bờ đê cao lớn sừng sững mà người dân Hưng Nguyên vốn quen gọi là nghĩa trang liệt sĩ đê điều. Có lẽ đây là nghĩa trang liệt sĩ đê điều duy nhất trên cả đất nước ta.

     Nơi này, ngày 27/8/1967 đã diễn ra một sự kiện bi thương: Từ rạng sáng, dân quân 2 xã Hưng Khánh, Hưng Thắng tập trung trên tuyến đê trọng yếu chạy qua địa phận xã mình để làm công tác ứng cứu đê, san lấp hố bom qua một đêm dài để thông tuyến đường tiếp viện cho miền Nam đánh Mỹ. Quãng 5 giờ sáng, một số người đã xong việc vác cuốc xẻng trở về làng, một số khác còn đang rốn làm thêm, bất ngờ 2 máy bay Mỹ phát hiện và “bổ nhào” cắt bom.

     Trận bom ấy đã cướp đi tính mạng của 15 dân quân trên đê, làm bị thương  23 người khác, cùng hơn 20 tính mạng khác của người làng. Xác người nằm la liệt bên những hố bom nham nhở, cày xới trên đê làng. Ngày 4/8 âm lịch hàng năm đã trở thành ngày giỗ chung của người làng. Vậy là đổ xuống đê làng, không chỉ mồ hôi, nước mắt, là cả máu, là cả những linh hồn con người yêu làng, giữ nước… Để con đê trở thành biểu tượng, thành linh hồn làng quê…

     Đê làng, nơi người ta tụ họp, sinh hoạt, vui chơi, nơi người ta hò hẹn, từ biệt, nơi người ta yêu thương và chia ly, sum họp, nơi người ta ra đi để cứ mãi nhớ nhung khắc khoải một ngọn gió mang hơi nước, một cánh diều, một bước chân vội, một tiếng sáo… Nơi mà trong những ngày tháng khốc liệt hay đau khổ nhất của đời người, ta mơ được trở về.

     Nhiều lúc tôi vẩn vơ nhớ quê, nhớ triền đê đầu làng, rồi tôi nhớ cả con đê đã chứng kiến người bạn tôi tiễn bố lên đường và bao chiều chị ấy tan học đạp xe về nhà qua đó, nuốt nước mắt vào trong vì nhớ bố. Tôi nhớ cả con đê của Nguyễn Bính, của Trần Tiến và bao nhiêu nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ khác. Tôi nhớ những con đê của làng quê Việt, những mồ hôi mặn chát đã rơi trên đó, những máu xương đã đổ, những nụ cười giòn tan trong gió, tiếng sáo diều lũ mục đồng thổi mướt mát chân đê…

     Có những ngày như thế, tôi cứ nhớ những triền đê. Thèm được trở về con sông xưa, khua tay xuống dòng nước mát lạnh và nghe tiếng gió lùa vào bụi tre đâu đó. Thèm được chân trần bước đi trên vạt cỏ thắm nắng chiều, cúi xuống hái những bông xuyến chi mọc hoang với một sức sống như bất tận. Thèm được mân mê một nhánh cỏ gà, nghe tiếng cười của lũ trẻ trong xóm ùa nhau chạy đến, tiếng côn trùng ri rỉ những đêm trăng. Thèm được nhìn thấy bóng bà đi lễ chùa về xiêu xiêu nắng chân đê. Thèm được thấy mẹ với bao gánh gồng tất bật cơn gió ngược. Thèm ngồi đợi mẹ bên lũ cào cào tí tách.

     Những giấc mơ đó, nỗi thèm khát đó, nhiều khi mạnh mẽ vụt dậy trong tôi và có cảm giác như chúng thật hơn cả cuộc sống, thật hơn cả thực tại. Nó khiến tôi thực sự nghĩ rằng, không chỉ triền đê đầy nắng ở quê tôi, mà bất cứ một triền đê nào khác, đều có thể trở thành quê hương của tôi, máu thịt của tôi. Những nơi tôi đã đi qua, những triền đê tôi chỉ kịp nhìn khi con tàu đang lăn bánh, những con đê bạn bè tôi kể, những con đê lịch sử, cả những triền đê tôi chưa từng thấy, chẳng biết tự bao giờ đã lưu lại trong trái tim tôi như một kỷ niệm, mà không, như một giấc mơ.

     Giấc mơ ấy chẳng bao giờ tan, nó cứ bồng bềnh trong đời sống của tôi, đôi khi khiến tôi buồn nhớ nhưng luôn nó cho tôi cảm giác yên bình, ấm áp. Nó giống như một chuyến đò đợi sẵn, một cái níu tay của cố nhân, một bậc thềm thơm nức hương hoa chờ người mỏi chân ngồi nghỉ. Nó giống như mẹ, đợi ta về bất cứ lúc nào ta muốn, ôm lấy ta bất cứ lúc nào ta cần, vuốt ve khi ta khóc, lo âu và chờ đợi khi ta đi. Nó giống như chính ta, dù có đi chân trời góc bể cũng vẫn là ta.

( Nguồn: baonghean.vn )

Ngôn tình của nắng

Em ngọt ngào cay đắng đến bao nhiêu?

Em chẳng còn mùa xuân, em chẳng còn mùa hạ
Thu úa sáng mai, đông giá ban chiều
Chưa dám trọn đêm làm sao anh biết được
Em ngọt ngào, cay đắng đến bao nhiêu

Mùa hạ đi qua tôi. Mùa hạ đi qua em. Mùa hạ đi qua những cuộc đời. Trai trẻ. Không phải xuân qua, hạ tới, thu đi, đông về. Mỗi người chỉ có một mùa hạ trong đời. Ngôn tình của nắng. Và … nhớ nắng.

Trời đang nắng, can cớ chi mà nhớ nắng? Lạ thế, những sớm mai trong và mịn như nhung thế này, lãng đãng nhìn ra cái không gian chơi vơi ngoài kia… Những bông hoa triệu chuông, những đóa dạ yến thảo (mình còn chả biết gọi tên chúng cho đúng), đang nở tím vàng đỏ cả ban công chật hẹp. Thành phố lao xao dưới kia. Người người chộn rộn, bận mải dưới kia… Nắng đẹp đến thế này…Sao lại nói nhớ nắng?

Có phải vì, ấy là nhớ một tri âm nào? Nhớ cái nắm tay. Nhớ những câu chuyện không đầu mà chẳng có kết thúc. Nhớ những lang thang bãi biển đầu ghềnh. Có thể thỏa thích chửi rủa hay nói bậy mà không cần phải nghi ngại. Lạ thế, có đôi khi, những thiết thân đâu cứ phải “đồng điệu”. Chỉ là có thể ngồi bên nhau, nói những điều không phải quá nhiều đắn đo, suy xét. Có thể tin nhau đến mức chả có điều gì mà lay chuyển.

Nhớ nắng. Có phải vì đang tiếc từng giây phút mà cái nắng trôi qua, mọi tươi sáng hôm nay rồi lại chìm trong mưa rét u ám? Chả có gì vô tình, đổi thay nhanh chóng như thời tiết cả.

Chẳng phải vậy. Nắng của ngày hôm nay đã không là nắng của ngày hôm qua. Những bàn tay âu yếm, những mắt nhìn khiến buổi chiều nhỏ bé bao dung. Những con nước dềnh lênh trên ngọn những thủy triều không đỉnh. Đi qua mùa hạ để thấy nhớ nắng vô chừng. Có ai đó từng nói hay là chính tôi nhỉ: mỗi người chỉ có một mùa hạ trong đời…

Ừ thì gió, ừ thì mưa, ừ thì nhớ, ừ thì thương, ừ thì những giận hờn, nhưng bấy nhiêu thôi chẳng đủ để thiêu đốt nhân gian. Phải là nắng, xênh xang nắng, bão táp nắng, chao đảo nắng, phải là ngôn tình của nắng.

Em chẳng còn mùa xuân, em chẳng còn mùa hạ
Thu úa sáng mai, đông giá ban chiều
Chưa dám trọn đêm làm sao anh biết được
Em ngọt ngào, cay đắng đến bao nhiêu

Vậy ư. Mùa hạ qua lâu rồi. Đã bảo. Dẫu một ngày kia mây có bừng lên ửng hồng chân trời mùa hạ, chết tiệt, yêu thương lại rủ nhau nhớ nắng quay về…nhưng đó là ngôn tình của nắng.
Đôi khi ngồi với mình một sáng mù sương, trong một quán cà phê để chờ nắng lên. Quán đông người, nhưng may mắn, ô cửa sổ mở ra một khoảng trời xao xác gió trên những tán mận quân và vú sữa. Có người bảo, thèm về quê, nghe tiếng gió vườn, ngả mình trên chiếc giường tre, nhìn trời xanh và xem lũ chim líu ríu hót… Còn tôi ư? Chẳng biết nói gì ngoài cái sự thèm bêu đầu giữa nắng trưa.

Có những ngày rơi xuống bên ta những niềm vui trốn biệt. Tìm đến lưng chiều, mà gió cũng đi vắng hết. Chỉ còn đôi sợi ánh sáng vương lại trên mặt sông hoang vu như chờ giây tan biến. Lúp xúp những bụi cây giữa cồn sông lặng tờ nước dâng mang mang. Nơi đó chả biết lá đang kể chuyện gì, con còng, con cáy đang mơ giấc bình yên nào, con cuốc cuốc đang khắc khoải điều chi mà làm tan nốt chiều mỏng tang màu khói? Tự đứng vào bức tranh buồn lặng, tự vẽ mình thành nét vẽ cô quạnh, chẳng vì đâu, chẳng vì ai.

Không vì đâu, không vì ai hẳn cũng là điều nuối tiếc nhất. Giữa bao nhiêu cũng chỉ có mình. Tìm đến đánh bạn cũng niềm tuyệt vọng. Thở bằng những niềm đau, tim đập bằng ảo giác. Lấy nước mắt soi tỏ nụ cười. Lại đeo đẳng câu hỏi ngày thơ bé, khi ngắm mây chiều.
Đằng sau những trùng trùng điệp điệp, những tầng tầng lớp lớp kia là gì. Cái gì sẽ là điểm tận cùng? Và đằng sau điểm tận cùng sẽ là gì nữa chứ ??? Hỗn mang vô định. Chợt thấy ngắn ngủi quá những kiếp mình. Sao không thể chọn vẽ mình vào những niềm vui? Biết làm sao, khi có những ngày mà niềm vui trốn biệt ??? Ấy là những ngày thiếu nắng.

Vậy phải làm sao giữ nắng trong bầu trời này, hay chỉ dẫu là bé nhỏ như giữ nắng trong cuộc đời mình, trong tâm hồn mình. Nắng ở đâu và ở đâu. Lại nhớ nắng. Lại giãi bày nắng. Lại tâm tư nắng. Chẳng vậy sao một khi thiếu lửa trong đời.
Nắng hát tình ca. Nắng bộn bề thiếu thời. Nắng chất ngất hai mươi. Nắng dật dờ ba mươi. Nắng lặn nắng ngụp trong sâu thẳm nắng khi ai đó hát lên ngôn tình của nắng. Đẹp như một đời nắng đã qua…

Viết chung bởi: Hồ Huy & Thùy Vinh

Đếm thời gian khi đi qua cánh đồng

Nếu như người quê thường đếm thời gian khi đi qua cánh đồng thì ở phố, người ta thấy thời gian trôi qua những hàng cây.

     Mùa tháng Ba, mỏng nhẹ như tơ trời, với ánh nắng ửng trên màn sương trắng loãng. Lúa ngoài cánh đồng vừa phấp phỏng lên xanh. Cây trên phố vừa hé bừng lộc biếc. Bao người lại qua, một sớm kia ngỡ ngàng trên những vòm cây hôm nào đã xôn xao thay màu lá mới. Cho ta thoáng giật mình: Ôi thời gian, sao mà nhanh quá! Như thảng thốt trên đầu mình tóc đã thêm sợi bạc.
Thế đấy, thời gian- những khoảnh khắc vô hình ta đâu thể nắm bắt cứ trôi về vô cùng vô tận, nhưng lại làm mái tóc xanh một ngày thành tóc trắng.

     Nhưng cũng chính nó, kỳ diệu thay, chữa lành bao nhiêu vết thương trong tâm hồn con người. Để rồi không còn nữa những đắng cay, tuyệt vọng – những điều mà khi ta chạm phải ta đã muốn dừng bước. Mỗi bước đi của thời gian, mỗi bước đi non dại chập chững của ta, vượt qua ngưỡng đời chật hẹp và khó khăn, ta lại có thêm sự trưởng thành. Để có một ngày bình thản nhìn cuộc đời, lại vẫn hân hoan đón đợi… Bởi biết rằng, những cánh đồng lại run rẩy cây mạ lên xanh. Những mùa cây lại cho lộc nõn sau lớp vỏ xù xì…

     Và mẹ ta, bà ta, sau những lấm láp bùn quê, lại thong thả bước chân lên chùa, vui hội. Mùa lộc nõn này cũng là mùa lễ hội. Niềm vui như ngưng lại trên nụ cười, trong ánh mắt. Lấp lánh những tin tưởng, đợi chờ… Như thể là mắt lá trong một sáng mùa này rung rinh mãi những non tơ, như chưa hề biết rằng đã có đông giá và bão gió đi qua…

     Đếm thời gian đi qua cánh đồng…Ban mai lóng lánh. Cỏ ướt, chân trần. Ô cửa xanh mở ra phía rặng tre, lá khô thả thuyền trên mặt ao trong vắt.

     Trưa thơm khói. Nắng Xuân nhảy nhót trên rặng đài bi rời rợi xanh. Má ửng hồng, và nỗi bàng hoàng của ánh mắt chạm nhau sau rặng cây còn vương những sợi dây tơ hồng rực rỡ…

     Đêm ảo huyền. Có bông cau rụng khẽ dưới sân gạch êm rêu. Trăng biếc buông xuống đất, xuống cỏ, xuống rơm…bao nỗi dịu dàng. Bạn đã từng có nó trong đời thực chưa? Có thể là có rồi, nhưng nó ở xa quá, hoặc có thể nó quá đẹp đẽ, quá mỏng manh khiến bạn chưa bao giờ tin nó là thực trong đời mình. Và nó vĩnh viễn thuộc về giấc mơ…

     Những khi đi về dưới vòm khuya sương lạnh, có cảm giác như nỗi buồn treo mình như những cánh dơi đêm. Có thể im lìm, cũng có đôi khi quẫy đạp, nhưng rồi sau đó lại rơi thăm thẳm vào bóng đen đặc quánh, bí hiểm.
Nếu như người quê thường đếm thời gian khi đi qua cánh đồng thì ở phố, người ta thấy thời gian trôi qua những hàng cây.

Chỉ có sóng dẫu đã bạc đầu vẫn còn nông nổi

Chỉ có sóng, dẫu đã bạc đầu vẫn còn nông nổi. Nên biển, dài rộng thế vẫn chẳng khi nào lặng yên.

Chúng tôi đi qua những con đường chiều nắng đang vãn mà cánh đồng phía 2 bên xa xăm lại mờ ảo màn sương cuối cùng của mùa Xuân, của tháng ba. Những ngọn núi xanh trầm tĩnh ngàn năm, chợt nhói vết thương loang màu đất đỏ. Nhưng rồi mây trắng, nhanh lắm, đã ùa xuống như những ngọn thác, dần choàng lên núi màu viễn ảo. Rồi những thác mây ấy tràn lấp cả chân trời…

     Chỉ có sóng, dẫu đã bạc đầu vẫn còn nông nổi. Nên biển, dài rộng thế vẫn chẳng khi nào lặng yên. Con đường nhỏ gập ghềnh dẫn lối tới một bờ biển hoang vu gió. Những cái mảng nhỏ, không có cánh buồm nào, chỉ có những lá cờ đỏ chói cứ muốn bay lên trên ngọn sóng trắng. Và cơ man là đá nằm gối nhau trên cát dài với nỗi u tịch. Trên mình nó, có những vết vẹm, vết hà khắc dấu những trầm luân.

     Chỉ có sóng, dẫu đã bạc đầu vẫn còn nông nổi. Nên biển, dài rộng thế vẫn chẳng khi nào lặng yên. Nó đã ở đâu, tự bao giờ, dưới lòng biển sâu, qua bao trôi dạt, bao con sóng, bao cơn thủy triều, bao mùa trăng sóng sánh, bao nhiêu sự sinh tồn…để chiều nay im ắng năm đây?
Tôi cúi xuống với từng vết bám, khứa vào thân đá nỗi đau, niềm vui, đời sống vừa như bí ẩn nhưng cũng vừa bình thản của những loài sinh vật đã hiện hữu từ chục, trăm hay ngàn năm trước. Một chút tò mò, một chút xót xa, một chút luyến nhớ, mông lung…

     Chỉ có sóng, dẫu đã bạc đầu vẫn còn nông nổi. Nên biển, dài rộng thế vẫn chẳng khi nào lặng yên. Tôi đã ném một con dã tràng vào lòng biển, khi chúng chưa kịp xe cát vì không muốn đứng trông những thành quả bị sóng dập vùi.

Tôi muốn nói: Dã tràng, mày cũng ngu ngốc lắm. Nhưng biết đâu, con dã tràng nhỏ bé tôi tưởng chừng đáng thương tội nghiệp đó lại đang thầm mai mỉa cái ngu dại của tôi.

     Chẳng phải ư, những vết thương loang đỏ trên núi xanh trầm tĩnh rồi cũng được vỗ về bằng cả thác mây. Chẳng phải ư, dẫu biển lắm tai ương thì mỗi ngọn cờ kia cũng chói màu hy vọng? Chẳng phải ư, mỗi một sinh vật dẫu nhỏ bé, mỗi một cá thể nhỏ bé, nó có lý khi theo đuổi một đời sống, hạnh phúc của riêng nó, mà không thể và không nên áp đặt, cưỡng cầu cái ý muốn chủ quan của ai khác…?

     Chỉ có sóng, dẫu đã bạc đầu vẫn còn nông nổi. Nên biển, dài rộng thế vẫn chẳng khi nào lặng yên. Và trên hết cả, tôi thấy yêu biết mấy tình yêu mà tôi vẫn cảm nhận, vẫn hiện hữu ở xung quanh tôi. Một năm chúng nó nhận ra nhau giữa cuộc đời này, đã cho tôi thấy và tin vào tình yêu. Cảm ơn chúng, vì nhờ chúng mà tôi tự dưng lại biến thành ma quỷ.

Tết hàn thực và ô cửa màu xanh

Điều duy nhất, với mình, khiến tết hàn thực còn có ý nghĩa là để…nhớ bà ngoại. Sáng mồng ba tháng ba của những năm xưa xa ấy, bà trở dậy cùng mùi trầu nồng ấm, và tiếng nói khẽ như nhung trong không gian tịch mịch ban mai vừa hé ngoài ô cửa: Tết hàn thực bánh trôi bánh chay rồi đây.

Mình lơ mơ trong chăn ấm, nghe thấy lời bà nói với một niềm vui len lỏi. Cái đứa vừa hảo ngọt, vừa hảo nếp như mình (thực ra cái gì mình chả hảo) nghĩ đến món bánh bà nấu, sau khi cúng dâng.

Đã có nhiều cái tết hàn thực xa quê, xa bà, mình thức dậy buổi sớm, cứ nhắm mắt như vậy, nằm im trên giường, và tưởng tượng ngoài kia, cái ánh nắng non còn vương cả bụi sương mai đang khẽ len vào ô cửa sổ màu xanh, con mọt cọt kẹt những tiếng cuối cùng ở chân giường trước khi ngoài kia, mọi âm thanh thức dậy. Đó là tiếng lá tre vươn xòa vào nhau, tiếng con chim chích chăm chỉ lích tích, tiếng bỏm bẻm nhai trầu và giọng nói chậm rãi êm mượt của bà vang lên…

Khi ấy, những đóa tóc tiên hồng rực ngoài hiên cũng thức dậy. Cả mảnh vườn nhỏ cũng xôn xao. Và bắt đầu có tiếng chân trâu, chân người lõm bõm trên con đường làng vẫn ướt sương. Bà mở rộng hơn đôi cánh cửa sổ màu xanh, đón vào chút nắng đầu tiên. Rồi bà khẽ khàng ra giếng, vào bếp, đỏ lửa… Mùi rơm cháy, mùi khói ấm… Con mèo lười cũng vươn vai theo bà vào bếp nằm gừ gừ bên đống tro cũ…

Có những sáng bình yên như thế, mình từng sở hữu, và thật nhanh, nó đã biến mất trong đời như một giấc mơ. Giấc mơ đến, giấc mơ đi, khi người ta chưa kịp tận hưởng hết vẻ đẹp diệu kỳ của nó…

Mình đã từng không dừng lại để tận hưởng cuộc sống, mà mê mải lao đi. Lao đi, mà chẳng biết để làm gì. Chỉ để thấy lòng mình trống rỗng, và mất mát. Có lẽ là lao đi theo cái quán tính, như trăm ngàn người xung quanh họ cũng vẫn lao đi như vậy. Cơm áo gạo tiền, mưu sinh, tất bật, đôi lúc giật mình ngẫm lại cũng vẫn thấy mình hèn hạ, mình bạc nhược… Và lại tự an ủi, không thế thì không sống được. Ôi, thật tệ, lấy cái hèn hạ, bạc nhược này để lấp liếm cho cái bạc nhược kia mà thôi…

Nhưng cuộc sống thì vẫn tiếp diễn và vẫn hết sức tươi đẹp. Như cánh đồng đom đóm mà bữa trước, bọn mình ngất ngây đứng nhìn nó trong đêm tối. Như rặng cây giáng hương mùa đầu tiên nở rực vàng và thơm nức trên phố (con phố có dòng kênh nặng mùi). Chỉ qua có 3 ngày, mà bạn thảng thốt nói: Hết sạch giáng hương rồi, mùa hoa đã qua…

Thế đấy, những đẹp đẽ lại thường rất mong manh. Nó như một thứ ảo ảnh, là những thoáng đến trong đời, mà người biết nắm bắt, biết tận hưởng thì sẽ có nó mãi, trong từng phút giây, trong từng giác quan…

Và tết hàn thực, tết bánh trôi bánh chay, bà ơi, cháu nhớ vùng ký ức đẹp đẽ, nhớ ban mai mà ánh nắng yếu mang cả bụi sương đậu trên ô cửa sổ màu xanh nhà ta, nhớ tiếng con mọt, tiếng con chim chích, tiếng con mèo lười, nhớ mùi khói, mùi bếp, mùi trầu. Bà ơi, cháu nhớ bà, khôn nguôi…

Bức tường sương mai

Em thơm bóng tối con đường
Tôi run rẩy chạm bức tường sương mai
Vàng son gian díu phôi phai
Bước chân đè nặng một vài trầm luân

Mùa xuân đi qua, mùa hạ đi qua, mùa thu đi qua, mùa đông đi qua, mùa xuân lại về. Tuổi trẻ như một bài ca dao đầy đủ những vòng lặp nhưng sẽ chẳng có vòng lặp nào giống vòng lặp nào. Ai ầu ơ quá khứ, ai ru hời tương lai, còn tôi đã nhiều lần bối rối khi chạm phải bức tường sương mai.

Tôi gọi nó là bức tường sương mai bởi nó mỏng tang trong tâm tưởng, một khoảnh khắc hiếm hoi nào đó bạn sẽ như kẻ mộng du, chỉ cần nhắm mắt lại là có thể chạm ngay vào ngày hôm qua và đằm mình trong những đoạn phim đẹp mà ký ức ghi lại. Nó thực đến nỗi chính mình cũng phủ nhận đó là ảo giác. Tiếc thay người ta thường bị sập trong ma trận ấy để trở về thực tại với một tâm hồn thương tật, giống như kẻ tội đồ “ketamin”(1) thiếu mấy đường cày nên không thể rũ bỏ thân xác mà “trippy”(2).

“Bức tường sương mai” là bốn câu thơ cảm thán trong một đêm tôi vô hình, bất lực về ngự trị trong nhà lao của tư tưởng khi mà tôi và người mình yêu thương sẽ chẳng còn phần nhiều hi vọng có thể cùng nhau đi tới cái đích có hậu của một chuyện tình. (May mắn thay người ấy bây giờ là vợ tôi)

Để có được hạnh phúc trong tầm tay hãy quên đi quá khứ của mình, tin vào hiện tại, sống với hiện tại một cách trọn vẹn thì niềm hạnh phúc dù đơn sơ nhưng đầy ý nghĩa. (tư tưởng Phật giáo) Dẫu vậy chẳng có lý do gì để những chuyến tàu hành hương về kỷ niệm không thôi thúc gióng giả hồi còi, không thống thiết gọi lại những yêu thương cho dù đó là tình bạn, là tình yêu và cả những thứ tình thơ dại nơi bếp lửa gia đình.

Một buổi chiều nửa mưa nửa gió, mê tơi vài đàn chim dấp díu mờ dần phía biển, phố xá ngơ ngác ánh đèn, con đường mặt lạ người dưng, rồi bỗng dưng tôi sững sờ nhận ra từ đâu đó mùi bếp dầu đủ khét đủ thơm của cha tôi mỗi chiều nấu nướng đợi con đi học về. Mấy chục năm rồi tôi vẫn không thể quên được cái mùi ấy và nhiều khi nó trở lại xộc vào khứu giác, một bức tường sương mai mỏng tang dịu dàng, chỉ cần tôi thò tay vào là nắm được, chỉ cần tôi thò chân là như có thể bước vào thế giới của ngày hôm qua. Nhưng đó là những khoảnh khắc hiếm hoi, bức tường sương mai vỡ vụn, chỉ còn lại cảm xúc nhạt nhòa.

Nếu cuộc đời cho ta cơ hội quay về quá khứ, bạn sẽ phát hiện, những kỷ niệm đó sở dĩ tươi đẹp là bởi vì chúng ta không thể làm lại mà thôi. Khi ngày hôm nay biến thành ngày hôm qua, bạn cũng sẽ hoài niệm như vậy. Tuy nhiên có quá nhiều kỷ niệm mà khi có cơ hội được quay trở về chúng ta cũng không thể làm lại. Đó là điều đau khổ nhất của mỗi một con người.

Khi bước vào tuổi trung niên tôi bắt đầu thường hay hoài niệm về quá khứ, về những năm tháng xưa cũ bên cạnh còn người thân, bạn bè. Kỉ niệm vui có, buồn cũng nhiều và quan trọng hơn hết lúc đó tôi còn rất trẻ.

Những kỷ niệm hoài cổ có thể cho mọi người cảm giác thân thuộc, có ý nghĩa và điều này giúp tôi cởi mở hơn với những trải nghiệm khác biệt trong tương lai, hơn cả, nó khuyến khích tính tính sáng tạo. Bạn có nhớ những ngày tuyệt vời đã qua? Hãy để tôi gợi nhớ cho bạn…

Như Jessica Helfand mô tả trên trang “Design Observer” sự hoài niệm khơi gợi lại ký ức và nhận thức về thực tế, ủng hộ triết lí duy tâm và tưởng tượng về một thời đã qua. Sự hoài niệm có thể đem lại những cảm xúc tích cực về hạnh phúc, sự kết nối, sự tự tin, lạc quan, và có thể nâng cao tinh thần của mỗi con người khi cảm thấy nỗi buồn phiền dửng dưng chợt đến.

Biểu hiện tâm lý của sự hoài niệm đã được kích hoạt sinh lý từ các điểm thị giác, thính giác, khứu giác và vị giác. Một bài hát đặc biệt nào đó có thể gợi nhớ về đám cưới của bạn; một mùi hương lạ lùng nào đó có thể đưa bạn trở lại với những món ăn thủa gia đình ấu thơ; hoặc một bức ảnh đơn sơ có thể khiến bạn nhớ lại những ngày nghỉ hè ồn ào thời trẻ trâu cào cào bắt bướm – hoặc thậm chí hồi tưởng lại như Expedia đã thực hiện chiến dịch “Thrownback Thursday” (Nhớ về ngày Thứ Năm), sử dụng “sự hoài niệm” để thu hút đối tượng truyền thông mạng xã hội. Đó chính là những bức tường sương mai ngọt ngào.

Thời gian cứ trôi đi, không hạn, chẳng hồi, có nhiều khi tôi lắng nghe, có nhiều khi tôi lơ đễnh, có nhiều khi linh hồn như những dòng suối nhỏ chảy róc buồn rách vào đêm. Sương mai lại bảng lảng mơ hồ trong tầm mắt, níu tay giữ một ngày hè, dang chân khều một ngày đông, mùa thu đi qua, mùa xuân trở về, những vòng lặp đáng yêu của cuộc sống cứ hổn hển soi gương tháng ngày. Thơ viết cho nỗi buồn đã qua, thơ viết cho niềm vui ở lại, viết cho những gì khó sâu ánh mắt, khó đầy bờ môi, khó tình khó tội con tim chật chội. Ừ nhỉ, chỉ là một bức tường sương mai…

(1) Ketamin được bán dưới nhãn hiệu Ketalar và một số tên khác, là một loại thuốc được sử dụng chủ yếu để bắt đầu và duy trì gây mê. Nó gây ra một tình trạng giống như trạng thái bị thôi miên, làm giảm đau, an thần, và mất trí nhớ. Sau này Ketamin bị lạm dụng và là tiền chất của một số loại ma túy tổng hợp, dân bay gọi nó là “ke”.
(2) “Trippy” là tên gọi quá trình tác dụng của ketamin tới não và ảo giác có thể xảy ra.

Cúc họa mi

Buổi chiều chênh vênh lửng lơ trên  những ngọn triều đã đổi  hướng căng bọt gió đông. Ngồi từ cái buổi chiều của tuổi trung niên nhìn ra thế giới, cảm giác như mình đang ở trên một căn gác xép bộn bề, muốn làm việc này, muốn xếp việc kia mà đôi bàn tay lóng ngóng không nỡ làm không gian nhoài về phía trước.

Thời gian của tôi cũng như những ngọn triều kia, cưỡi lên những dòng hải lưu chu du mà trong lòng vẫn biết càng lạnh vắng, càng nhớ nhung, càng cô đơn nghĩa là một phần tươi đẹp của chính mình đã đang ngất ngư dâng đầy hay cạn kiện ở một con nước trái chiều. Từ phía biển, từ phía Nam, từ phía của mùa đông luôn mơ hồ với khá nhiều người tôi đã cảm giác Hà Nội đang thay đổi hồn phách  bởi loài cúc họa mi.

                              Hoa cúc nhiều tên, nhiều tượng trưng ẩn ý, vậy nhưng dễ dàng chiếm đoạt tâm trí người ta lại là loài cúc họa mi bé nhỏ, đã đôi khi khiêm nhường bên những chặng đường ta qua như một loài hoang dại. Không cần thương hiệu, không có slogan và đương nhiên cả cái vẻ bề ngoài chẳng phải kiêu kì, nhưng cúc họa mi lại trở thành mùa vụ, trào lưu, nương náu tâm hồn. Âý là khi họa mi biết nhường nhịn cái đẹp và sẵn lòng làm tấm gương soi cho những  vẻ đẹp cuộc đời. Phải chăng điều đó đã làm cho loài cúc họa mi thêm một lần bất tử mỗi khi Hà Nội chạm Đông?

Đã hơn hai mươi năm rồi, khi những vui buồn còn đang ngủ gà ngủ gật trên tuổi thanh xuân, một ngôi nhà nhỏ lọt thỏm giữa cánh đồng ven đô Hà Nội, mùa đông vờ vĩnh những giận hờn. Yêu thương, ai bảo em là cúc họa mi.

           Chúng tôi lớn cùng nhau dưới mái trường THPT Chuyên Thái Bình. Sau này lên Hà Nội không còn cùng bàn chung lớp, Phượng vào học Phân Viện Báo Chí Tuyên Truyền, còn tôi theo ngành Quốc tế học, Khoa học xã hội và nhân văn. Dẫu vậy tôi vẫn gặp Phượng luôn, có khi ở lại cả tuần cùng Phượng và anh trai. Phượng là đứa con gái nết na, biết lo toan cho gia đình, đôi khi Phượng còn toan lo cho tôi khác nào một thứ của nợ mắc dịch. Tôi biết thế và tự mãn với điều đó.

Chúng tôi không phải là kẻ yêu người thương, cũng chẳng là thứ ngôn tình cúc họa mi hằng đông giữa bầu trời se xám, làm người ta ấm áp gấp gáp bằng một thứ màu trắng an nhiên. Bạn bè ở giảng đường và ký túc xá có đôi khi chột dạ nghĩ tôi và Phượng kẻ yêu người thương. Ai bảo thỉnh thoảng tôi đến ký túc ngủ vùi vài giấc đông lạnh lùng.

           Lại nhớ về ngôi nhà nhỏ giưa cánh đồng ven đô lọt thỏm giữa những xô bồ Hà Nội. Một cánh đồng xám ngắt, một mùa gió hanh hao, nơi chúng tôi cứ ngồi hát hết bài nọ đến bài kia mà không biết mỏi. Có đôi khi tôi đến và mang theo cho Phượng một bó họa mi. Tình thế còn gì. Nhưng không phải là tình yêu… Hình như họa mi không có sứ mệnh để trao gửi một ái tình? Mà ở đời những ái tình không bưu cực, không địa chỉ chuyển phát lại là những ái tình bền lâu nhất?

Hà Nội ngày giao mùa không quá lạnh. Cho đến bây giờ tôi vẫn chẳng thể gọi tên một cách chính xác cái cảm giác đó. Nắng vẫn ấm áp là vậy mà gió đã làm ngơ lạnh lùng. Đôi lúc chỉ cần một cơn gió se se lướt qua nhưng cũng đủ khiến bầu trời muốn khóc và tâm trạng của người ta thì trở nên mộng mị vô thường. Nhưng may mắn thay vì giữa cái u ám ấy, người sống ở Hà Nội vẫn được tận hưởng những giây phút bình yên, lãng mạn đến ngẩn ngơ khi tình cờ bắt gặp một gánh cúc họa mi trắng trong dịu dàng.

 

Tôi nhớ lời đề từ của một cuốn sách nhỏ: “Cúc Họa Mi, dành cho người biết chạm, dành cho người biết yêu, dành cho người nghĩ nhiều, và cho ngày đông giá…loài hoa cánh trắng mỏng manh ven đường mà bao nhiêu nội lực…Bình thường, chứ lẽ nào tầm thường, phải không em?”

Như lời ước hẹn, hằng năm tháng mười một lách cửa cũng là khi bộn bề trắng muốt, mỏng manh họa mi dắt díu mùa đông về Hà Nội. Những bông hoa nhỏ nhoi với cánh hoa bé loe xoe, xếp đặt ngay ngắn, xen giữa là chút nhụy vàng của nắng, gói gém chút mảnh mai yếu đuối của mây, đơn giản thế thôi mà xinh, mà tươi, mà thương đến lạ lùng. Cúc họa mi là món quà đặc biệt mà Hà Nội dành cho những ai yêu nó, chưa kể là một lời ngỏ cho những người ghé qua đây mỗi buổi đông về.

 

Cúc họa mi vén màn bảng lảng khói sương mà hiện hữu vào những ngày chớm đông thầm kín, thời gian cúc nở rất ngắn khoảng hai đến ba tuần là tàn. Mỏng manh và tinh tế. Họa mi thể hiện bạn là con người nồng nhiệt và đặc biệt chân thành, luôn luôn biết an ủi người khác bởi vậy có rất nhiều bạn bè thân tín chung quanh. Chợt nghĩ cúc họa mi sao mà giống con bạn tôi đến vậy…

                                    Họa mi được trồng phổ biến ở những bãi bồi sông Hồng tại khu vực Nhật Tân. Hoa không có mùi hương quyến rũ, cũng không có vẻ đẹp kiêu sa khi đứng một mình, nhưng khi là một bó hoa hay một vườn hoa thì bất cứ ai cũng cảm thấy đắm say. Tôi đã đi qua bao mùa cúc họa mi, đã đi qua biết bao những ngày buổi chiều quên nắng, biết bao ngày Hà Nội giấu ngọt bùi vào thưa vắng, trầm tư mà yêu.

 

Tôi đã bắt gặp hình ảnh những cô gái lạc vào vườn họa mi. Dường như bất kể cô gái nào lạc vào đây cũng không còn giữ được thần thái của mình nữa. Khi ấy là cốt cách của cúc họa mi mất rồi. Em chỉ là cúc họa mi, em là một ngày đổi gió, em là khoảnh khắc chạnh lòng níu giữ cái bảng lảng đông sang còn vấn vít mùa thu ở lại. Có đôi khi tôi ước mình là một buổi chiều mỏng, đem chút nắng tàn của mùa thu mơ màng, ở lại những khu vườn họa mi lạc lối, thắp lên mắt môi những kẻ đương thời.

Em đi nhặt nắng giữa cánh đồng họa mi, em đi buông gió vô ưu cho những ngày tơ vương cũ. Ai bảo cúc họa mi không phải là một thứ ngôn tình… Người ta xinh, người ta yêu, người ta lạnh, người ta cô quạnh, nhưng họa mi thì chưa bao giờ tạnh trong những mùa bình dân.

Dường như loài họa mi biết cách tôn thêm vẻ dịu dàng của phụ nữ. Hay cúc họa mi từ đời trước, từ kiếp trước, từ nhớ thương ngàn xưa ngày trước đã mang vóc dáng hình hài nữ nhân…Bởi thế mà đừng bao giờ ngạc nhiên loài hoa về gõ cửa, phố phường xô nghiêng những vui buồn hay yêu thương đã từng tắt lửa, đón em trở về.

Họa mi đến rồi đi nhưng yêu thương còn ở lại mãi. Vì mùa hoa chỉ trong khoảng hai tháng ngắn ngủi, nên nó luôn khiến cảm xúc con người ta chưa trọn vẹn, cứ hụt hẫng, cứ bâng khuâng và cứ thế người ta lại chờ đợi mùa cúc hoạ mi năm sau. Năm sau, năm sau và rồi nhiều năm sau nữa, họa mi vẫn thế chỉ se sẽ lời yêu, chỉ mỏng mảnh dịu dàng khiến cho Hà Nội miên man trong niềm ngơ ngác. Có ai và có ai, có tôi và có tôi, đã từng ngác ngơ trong niềm miên man ấy. Hà Nội thở dài…

                       Dòng sông Hồng chảy từ đâu mà về quanh co những bãi bồi Hà Nội. Mây trắng từ đôi mắt người Sơn Tây phải chăng cũng dìu dịu buông xuống nơi này. Họa mi cứ thế, hồn nhiên như một tình ca của hồn sông, của hình đất, của ưu tư lắm thay những nẻo mây trời…

 

Tôi xa Hà Nội như một tiếng thở dài. Tôi quên Hà Nội như một lời vu vơ. Tôi yêu Hà Nội như cái nhìn ngang rất vội. Tôi phụ tình Hà Nội từng mùa, từng mùa bối rối họa mi. Ở bờ cõi nhân gian nào còn thứ màu trắng tinh khôi hơn cúc họa mi? Ở một cánh đồng ngôn tình nào còn có những yêu thương bè bạn như tôi và Phượng đã đi qua? Thế giới ồn ào. Thế giới cay nghiệt. Thế giới muôn trùng. Xin cho giữa đời này em chỉ là cúc họa mi…

Gửi người Bụi phấn hương tay

           Chuyển đến ở cùng cha tôi trong khu tập thể giáo viên trường cao đẳng sư phạm Thái Bình, một buổi khi “Nắng vào thu” tôi tìm được trong chồng sách của cha mình “Bụi phấn hương tay”.

Tôi nhớ đó là một tập thơ khổ nhỏ, bìa màu sáng bạc, trên trang đầu có ghi dòng chữ : ” Thân yêu tặng anh chị và các cháu”. Đó là bút tích của người thơ Trọng Khánh “Người đánh trống trường” tôi.

Thu ngẩn ngơ mùa nên thu chùng? Ai vẩn vơ chùng thêm tơ đàn? Vậy nên thời khắc mùa thu có khi mơ màng vài đoạn buồn vị kỷ. Có những những khi lại than thác thầm thĩ lên khơi. Lạ lắm thay những thứ nhẹ nhàng mênh mang chẳng thể gọi tên người ta cũng cho rằng đó là thứ buồn cố hữu. Đẹp hình hài, đẹp cội rễ, đẹp tạc khắc vào thời gian, ra đi và không bao giờ trở lại, đó chẳng phải là buồn sao?

                                                   Đêm ấy lần tìm về cánh cổng nhà mình qua những tấm hình hai mươi nhăm năm về trước, THPT chuyên Thái Bình ở số 194 Lý Thường Kiệt im lìm khép hờ như vẫn đang đợi những hồi trống gióng lên vồn vã, lim dim nheo mắt, bụi mờ trắng phấn hương tay. Người đã ở đâu và ở đâu…Đó là một tấm hình quá đỗi bình thường nhưng nó đã chạm đến vô vàn thương yêu trắc ẩn của các thế hệ thầy trò chúng tôi. Nhìn qua khe cổng tôi như một kẻ phi mình từ thinh không ngút ngát cho đến khi gần tiếp đất cũng chưa bật nổi chiếc dù bung ra để níu chặt những cảm xúc, để cứu sinh khoảnh khắc gieo mình.

Tôi chuộc hồn xưa bóng cũ, tôi thấm tháp không gian và thời gian, tôi đăng đàn dọn dẹp thảo thơm lòng dạ mà mà nghe thi nhân khoan nhặt trở về.

Tiếng trống vang lên
Không gian nào cũng chật
Và thời gian chìm đi trong khoảnh khắc
Học trò các nơi
Ùa vào lớp học
Mặt trống rung lên
Những dãy nhà
Im phăng phắc
Giọng thầy giáo già
Tiếng khoan tiếng nhặt
Câu dân ca
Dào dạt lòng người
Dùi trống gầy đi
Qua tiếng tùng, tiếng cắc đổ hồi
Cánh hoa phượng nở hồng đầu mùa Hạ
Khi tang trống giục cây thay màu lá
Một bài toán khó giải cho đời
Người đánh trống trường tôi
Gân săn sợi mây
Đuôi mắt cười qua mỗi lần thay mặt trống
Chiếc dăm tre căng phần da mỏng
Để âm thanh cuộc sống chất đầy
Mùa hanh tiếng đanh nhức tay
Mùa nồm tiếng chìm mỏi bắp
Ngày buồn tiếng tròn rõ nhịp
Ngày vui tiếng nổ bung trời
Người đánh trống trường tôi
Tóc bạc, già rồi
Tiếng trống vẫn giòn như thời trai trẻ
Nhịp vẫn đều và âm thanh vẫn khoẻ
Như tiếng cười
Của lứa tuổi mười lăm.
Người đánh trống trường tôi
Cả cuộc đời
Gửi vào âm vang
Như trái tim
Thình thình nhịp đập.
Người đánh trống trường
bài thơ giải nhất cuộc thi của báo Giáo dục & Thời đạị

Cha tôi có nhiều bạn bè là văn nghệ sỹ, bởi vậy ngay từ nhỏ tôi đã có cơ duyên được lắng nghe những ngày nhạc đêm thơ và vùi hồn mình trong hương lúa bộn bề xứ sở. Khi ở trường tôi gọi người thơ là thầy, nhưng khi ở ngoài tôi gọi nhà giáo ưu tú là chú.

Đôi khi phơi phới thầy thường nheo nheo con mắt đọc thơ cho tôi nghe và hay gọi tôi là Trọng Huy chứ không gọi là Hồ Huy như các cô chú và các bác trong hội văn học nghệ thuật tỉnh nhà. Có lẽ thầy ưng chữ Trọng giống như một phần thương hiệu bút danh tài hoa của mình.Bọn học trò ở đâu mà không ma không quỷ, học sinh trường chuyên chúng tôi cũng chẳng phải thánh thần.

            Nhớ ngày đó thầy bị thoái hóa cột sống, việc cử động cái đầu một cách linh hoạt như người bình thường là quá đỗi khó khăn. Khi ai đó gọi từ phía sau thầy phải dừng lại quay nhẹ nhẹ chậm rãi cái đầu rồi vặn thêm một chút lưng mới có thể đối mặt khôi hài. Chính cái cảnh tượng đáng yêu bi hài ấy mà chúng tôi mượn thơ Nguyễn Đình Thi để định danh cho một phong cách: “Người ra đi đầu không ngoảnh lại…”

Trọng Khánh là một nhà thơ nhưng lại là người mẫn cán trên cánh đồng giáo dục. Thương hiệu “Khánh hóa” và danh hiệu nhà giáo ưu tú mặc nhiên trở thành cốt cách của một người thầy tài hoa. Thương hiệu thôi thì chưa đủ thầy còn có những tài sản vô giá là biết bao thế hệ học trò giỏi giang thành đạt.

Đáng kể là huy chương bạc Olimpic hóa học quốc tế tại Đức mà Trần Ngọc Tân đã gặt lấy mang về. Đó không chỉ là niềm tự hào của Tân của thầy mà còn là sự hãnh diện của các thế hệ thầy trò trường chuyên Thái Bình chúng tôi. Ai bảo chúng không thể không kiêu hãnh. Thầy đã dạy cho chúng tôi phải biết kiêu hãnh như thế nào

Với tôi “Người đánh trống trường” chính là hình tượng người thầy cả một đời chưa một ngày quên dùi bỏ nhịp, dẫu là trống “Tiếng khoan tiếng nhặt” thì đã “Như trái tim thình thịch nhịp đập, cả cuộc đời gửi vào âm vang…”

Tiếng trống định kiến vô tri, thầy đã cho nó mượn một linh hồn mà nhắc nhở mà hối hả năm năm tháng tháng học trò. Người văn, kẻ sỹ bầu rượu túi trăng Trọng Khánh lãng đãng sớm gió chiều mây, bị cuộc đời xô đẩy vào thơ, ấy vậy mà vẫn chưa một ngày gàn dở buông bỏ trên vai cây thập tự Thầy…

Có nhiều khi tôi chắc mẩm tài thơ “Khánh Hóa” như một thứ phụ gia ngọt ngào khiến những công thức lề luật khô cằn trổ bông đầy cánh đồng trường Chuyên tỉnh lẻ. Tôi vốn                                              không ưa thứ thơ ca phải vặn chữ này, phải vẹo chữ kia, làm thơ mà toát mồ hôi như kiểu ăn một cân chữ nhả vài hèo trăng.Thơ của thầy tôi cứ cà giật cà giật, mới đọc chưa vần mà lúc thấm thì uyển chuyển như những nguyên tố hóa học trong một bảng tuần hoàn định mệnh.

Thầy tôi sớm ra đi trong cái vòng tuần hoàn nghiệt ngã ấy. Trường tôi đã trễ nải bao hồi trống giục trống dồn, học trò như đám diều đói gió no dây. Thi ca đã nghiêng mình đưa tài hoa về chốn ưu tú vĩnh hằng. Chốn ấy là Thầy.

Một hôm khi nhớ về thầy Trọng Khánh tôi mỉm cười hạnh phúc. Người đang ở đâu trong thế giới nào, trần gian vẫn bâng khuâng bụi phấn, vẫn ý tứ bồi hồi hương tay. Và cuộc đời một người thầy bốn mùa gieo hạt, đã tự xanh non bản tình ca cần mẫn trên cánh đồng quê hương.

Tôi có cảm giác thầy mới vừa đâu đây, như một thời khắc ngất ngư của người nghệ sỹ, dìu dặt bạn bè mà lạc trôi, lạc trôi. “Người đánh trống trường” tôi đã hóa thạch những thanh âm vào nhớ, vào thương, vào nếp xưa nề cũ, vào năm trước, vào năm sau, vào những mùa quả trĩu ngọt trong cả chiêm bao.

Ôi… “Người ra đi đầu không ngoảnh lại” Tiếng trống cười, lời trống khóc, những không gian im bặt, những thời gian cay mắt. Gửi người “Bụi phấn hương tay”…

( Nhớ thầy trước ngày hội trường 30 năm)