26 C
Hanoi
Chủ Nhật, Tháng 10 19, 2025

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...

Hát những giai điệu yêu thương

T huở còn thơ dại, tôi là...
Trang chủ Blog Trang 6

Mùa khói đốt đồng

S ông Hồng mùa này nhiều lũ, nước lớn mấp mé chân bờ, nhấn chìm những cồn cát, len lỏi dâng ngang thân chuối thân ngô, kéo theo ngàn loại rác từ thượng nguồn về mắc lại, nồng lên trăm thứ mùi chua nồng ngai ngái hôi tanh. Lại đi qua những triền thấp, chân đê, mặt sông được gió hạ phủ thêm một lớp mùi mới, một chiếc áo mới: mùi khói đốt đồng.

Tôi chạy xe dọc triền đê Thanh Ba – Hạ Hòa về “cù lao” Minh Quân vào những buổi chiều nắng tắt, trời lơn phơn chút gió muộn, thổi cho lưng người khô vạt mồ hôi ẩm ướt, thổi cho ngọn lửa gầy leo lét bùng lên. Thời điểm thu hoạch vụ mùa xong, người ta lại vội vã phơi rơm, cắt rạ, chặt thân ngô, ngả nghiêng vàng trắng ngợp cả cánh đồng.

Gió thổi hướng Nam, gió vờn hướng Bắc, gió nghêu ngao chớp tắt, gió xoay vần tứ tung. Nên những đụn khói cũng xoắn xuýt mịt mùng, những tàn lửa cũng nhảy nhót rồi tan ra tứ phía. Gần gần là đụn rơm nhỏ, xa xa là đống rạ to, hừng hực như một cuộc thi đua xem nhà ai rạ rơm khô nhất, khói nhà nào tin tít bay cao.

Mùa này thường hay mưa rào, cỏ rơm đều ướt. Người tranh thủ nắng lên mang cào ra lật lên lật xuống, qua loa một ngày tạnh ráo là gom thành từng đống, vội vã đem đốt, chạy đua với trời. Rạ rơm bên ngoài thì khô, cỏ cây bên trong thì ẩm, nên khói cũng như nước hoa mang ba mùi hương đầu, hương giữa, hương cuối. Hun lòng kẻ lạ nhớ quê.

Mùi hương đầu khô cong, thơm mùi mùa mới, rơm tươi, rạ nếp, cồn cào gan ruột một bữa cơm nhà. Tháng năm, tháng sáu được ăn bát cơm gạo dẻo nóng hổi kèm một đĩa thịt ba chỉ rang thì thấy đời không buồn phiêu bạt nữa. Chỉ muốn nằm bẹp sân nhà, nhẩn nha phơi thóc, đốt rơm. Mùi giòn như mùi khoai lang, bông lúa nếp, củ lạc còn sót lại giữa đồng, tụi nhỏ chăn trâu nhặt lên vùi vào một góc rạ, chờ lửa đượm đưa hương.

Mùi hương giữa ngai ngái, nồng nồng hơn, cuộn theo những ẩm ướt còn xót lại sau vài trận mưa đêm dào dạt. Bốc tung lên cả mùi đất, mùi bùn, mùi giun dế ủng trong nước, khiến người bất chợt nhớ tới chiếc áo cựu chiến binh bố thường mặc đi đồng treo trên chiếc đinh mười phân trong cây cột góc nhà lớn. Áo bố cứ khoác lên người rồi lại khoác lên cột, cả tuần không giặt, cóc cách bùn đất hoa cỏ, mày lúa, vụn rơm. Thêm cả mùi mồ hôi cóc cạnh tích lũy, cau lại khen khét, chỗ sậm chỗ bạc, chỗ sờn chỗ chai, lúc mẹ nhớ ra kéo xuống giặt thì hai lông mày xoăn tít lại…

Mùi hương cuối nhạt như hương lài mới nở, bởi gió đưa lên cao, tản ra khắp triền,khắp lối, trộn thêm mùi cỏ cây tươi, mùi sông, mùi núi, mùi của hoàng hôn rót những tia nắng cuối ngày. Rót đầy lòng dạ người thương khói, không uống giọt gì mà cả người chếnh choáng đến say.

Khắp đồng khói bay, triền miên vài chục cây số. Người người lố nhố, kẻ chống cuốc đứng, kẻ dựa cào ngồi, ngoài mặt thì thảnh thơi nhìn khói lượn về trời, trong đầu lại đang nghĩ xem giống ngô nào sai bắp, giống lạc nào hạt ngon.

Khói ruộng này bay sang, khói bãi kia quấn lại. Tro tàn quanh quẩn, tung lên hạ xuống, như chiếc áo choàng được bện từ ngàn sợi mỏng tơ xam xám, phủ lên sông Hồng mênh mông nước, phủ lên đất trống, ruộng bùn; ôm trọn những phù sa nhộn nhạo, riết chặt lố nhố người. Và, chiếc áo choàng vô hình nặng mùi hương nước hoa vị quê nhà ấy, trói chặt kẻ “nuốt” trăm vị khói mà lớn, là tôi!

Đèn quê

Có một ánh đèn luôn khiến tôi chập chờn miên man giấc ngủ. Có một ngọn sáng gầy guộc mỏng manh leo lét nhưng bền bỉ da diết mãi không nguôi. Từng câu chữ cứ nhảy múa thúc giục tôi. Lí do chỉ vì chúng muốn được nghe kể, được rong chơi, được ngụp lặn và được cháy cùng vầng sáng ấy. Tôi lưỡng lự phân vân. Chẳng lẽ cảm xúc của mình hẹp hòi thế sao. Khoan, đèn quê mà! Nhìn thấy chữ quê là tim như run rẩy, đắm đuối loạn nhịp và buông thả mất rồi. Tôi miệt mài nhơ nhớ…

Cái ngày tôi còn mếu máo buộc những chiếc răng lung lay vào sợi chỉ để nhổ bỏ đi thì đèn dầu đã có từ lâu lắm. Từ thời ông bà, bố mẹ và tổ tiên xa xưa hơn nữa. Không riêng gì nhà tôi mà cả xóm đều dùng đèn dầu để thắp mỗi khi trời tối. Tôi rất yêu cái bếp nhỏ nhà mình. Cái bếp chẳng thiếu củi lửa bao giờ. Con mèo khoang cũng vậy. Nó cứ ở lì bên kiềng tro ấm. Khi thì trụi hết cả râu lúc lại xém hẳn một mảng lông trên người mà vẫn lim dim gật gù cả ngày không muốn dậy. Lửa cháy liu diu. Bữa cơm chiều muộn bên bếp chẳng thấy lạnh lẽo bao giờ. Đôi ba món bày trong mâm thật gọn. Vẫn còn hẳn một khoảng rộng để đặt chiếc đèn vào. Mẹ xới cơm cho anh em tôi mà trìu mến: “Ăn đi các con, ăn nhiều vào đấy”. Tiếng xuỳ xụp của cơm chan canh rau, tiếng cà nén giòn tan không ngớt. Ngay cả bát muối lạc cũng lạo xạo lắc đều bị chọn hết những hạt to. Bố mẹ ăn chậm rãi vừa nhìn chúng tôi vừa bàn với nhau về thửa ruộng ngày mai sao cho đủ nước cấy. Còn anh em tôi tíu tít khoe nhau ai thắng trò chơi lúc chiều.

Chúng tôi ăn quên cả no. Vạt áo chật căng, cúc áo bung biêng xiêu vẹo, lại chơi trò đọ bụng xem “quả mít” ai to và chín hơn. Ngoài vườn, gió tung tăng trêu đùa khiến mấy tàu lá chuối cọ vào nhau lạo xạo. Đèn vẫn cháy, thỉnh thoảng còn vi vút ngân cao như nhảy múa cười đùa, như tán dương cuộc chuyện. Hai cái bóng nhỏ bé lọt thỏm trên bức vách. Hai chiếc bóng nữa cao hơn, đậm hơn cứ bao dung, khăng khít cận kề. Một ánh đèn giản dị sum suê. Những niềm vui ngọt ngào sai trĩu.

Có lẽ đèn thông tỏ nên cảm động cháy hết mình. Bao lần cạn dầu, đèn trơ cả bấc. Mẹ lấy chai dầu đổ thêm vào đèn rồi nút lá chuối khô cẩn thận cất đi. Mẹ quẹt que diêm châm, đèn cháy giòn giã như tiếng cười con trẻ. Đèn sáng vằng vặc hệt như trăng đêm rằm. Kệ anh làm toán, tôi ngồi chung chiếc bàn mà tập đọc, tập viết inh ỏi, chồm lên chồm xuống chạm cả vào đèn. Đèn cháy khét lẹt mấy sợi tóc mái của tôi. Kẻ làm anh thấy vậy cười khanh khách. Tôi ngúng nguẩy chạy sà vào lòng bố mà kẽo kẹt, ấm ức.

Ấy thế thôi, mai lại quên ngay ý mà. Mẹ buông màn đi ngủ. Chúng tôi leo nhanh chân lên giường sau một ngày dài mệt lả mà ngáp lim dim. Mẹ lấy đèn soi, hơ bắt từng con muỗi. Có những hôm xác muỗi nhiều chồng chất trên miệng đèn. Chú thạch sùng kiễng chân, mắt tròn nhìn tiếc nuối. Bố để chiếc đài pin cạnh đầu giường, tiếng được vặn nhỏ. Những điệu chèo da diết. Những câu chuyện cảnh giác vơi đầy. Thỉnh thoảng âm thanh bị rè, bố lại khẽ vỗ vào đài như một thói quen. Tôi thiếp đi tự lúc nào. Những lúc tỉnh giấc cọ quậy, mẹ lại xoa lưng, khẽ quạt. Từng sợi đêm như trùng lại đan thành chiếc võng vỗ về làn gió mơn man thăm thẳm. Tiếng dế đánh đu vào không gian như kéo dài thêm tĩnh mịch. Sương khuya sà xuống chải chuốt tắm gội cho cây lá trong vườn. Căn nhà chìm vào giấc ngủ. Trên chiếc bàn, đèn dầu vẫn cháy bập bùng khe khẽ. Cháy bằng cả niềm nhân từ và bình thản. Cháy vàng vọt, vặn vừa cả một giấc quê.

Tôi lớn hơn, điện cũng về làng. Niềm vui nhộn nhịp, tiếng cười bay cao. Quãng thời gian xưa cũ chưa đủ dài nhưng vừa đủ cho tôi gắn bó yêu mến và nhớ nhung chiếc đèn dầu. Ngày nay, đèn vẫn giữ vị trí riêng trong mỗi gia đình. Đèn toả sáng mỗi lần người ta cúp điện. Nhất là ngày lễ tết, đèn được đặt trang nghiêm trên ban thờ tổ tiên. Nơi chùa chiền linh thiêng bóng Phật, đèn thanh cao thoát tục diệu kì. Một quầng sáng thiêng liêng tràn trề ấm áp. Ánh của niềm vui, của tình thân, của quây quần sum họp.

Trong kí ức của sâu thẳm mỗi người dù là ai hay ở đâu và địa vị nào đi chăng nữa vẫn luôn có một nơi để nhớ để tìm về. Nơi ắp đầy những yêu thương. Nơi bao bọc ngày thơ bé. Từng lát cắt, từng hiển hiện, từng thân quen cứ dùng dằng không thôi nhung nhớ. Tôi muốn cẩn thận ki cóp và nhặt nhạnh giữ gìn mọi thứ để buộc chặt vào tâm hồn suốt dọc hành trình thời gian, để không có điều gì rơi rớt bỏ lại. Nơi ngực trái, đèn quê vẫn hằn in, sánh đọng một màu vàng lấp lánh. Những tháng ngày trong trẻo, những thổn thức vô bờ. Tất cả sẽ được lưu lại đến tận cùng của mai sau. Đèn quê – một khúc xạ tuyệt vời trong cảm xúc của riêng tôi. Nồng nàn đầy da diết.

Huế dạ

T

ôi sinh ra và lớn lên ở nơi mà tiếng “vâng” là đồng thuận. Nếu đồng ý là vâng, ai kêu thì dạ. Và cái từ vâng ấy nó cũng nhiều cung bậc lắm. Vâng, một tiếng gọn, sắc, đanh là cái cách khẳng định chắc chắn như đinh đóng cột. Vââng hơi kéo dài là có tính chất mỉa mai, giễu cợt. Vââââ…ng kéo rất dài là khó chịu lắm. Vờng, một biến thế của vâng là vâng ạ. Vầng là vâng nhanh. Vâẩng hơi cao lên phía cuối như có dấu hỏi là đương nhiên, chuyện như thế là rất chính xác.

Còn dạ, là chỉ để thưa. Hồi nhỏ tôi đi chơi, mẹ gọi năm sáu lần mới dạ rồi chạy về, bao giờ mẹ cũng với theo câu nữa: Mang cái dạ về đây. Chả biết cái dạ là gì, là tiếng dạ ấy hay là cọng rạ mà tiếng Bắc hay lẫn giữa R và D.

Thống nhất đất nước, về quê, từ đầu tiên tôi nghe là “Dạ”. Tiếng dạ mê hoặc tôi ngay lập tức. Nó nhẹ, và mảnh, và sâu, và hun hút đốt hồn người đối diện. Ly cà phê vỉa hè sông Hương, tôi và một anh bộ đội quen trên xe từ Vinh vào. “Dạ 2 anh dùng chi”. Từ dạ đầu câu đã là sự lạ. Cô cho 2 “chén” cà phê đen. Dạ. Một lát sau: Cô ơi cho đường. Dạ. Cô ơi tính tiền. Dạ.

Tất cả đều dạ. Nó không chỉ là tiếng thưa nữa. Là khởi đầu của một câu hỏi, là vâng, là đồng ý, là OK như bây giờ ta hay dùng… nhưng cái tiếng dạ nó như ma dụ khiến cả những anh chàng ngổ ngáo nhất cũng phải mềm lòng. Nó là tất cả nhưng nhiều khi… chả là gì cả.

Một cô bạn người Hà Nội, luôn có câu trả lời rất nhẹ giọng Hà Nội chuẩn trước tất cả mọi đối tượng: “Dạ vâng ạ” cũng phải thốt lên với tôi: Xứ Huế có tiếng dạ thích thật, nhẹ mà vang, mà mọng mà dịu, thoảng đấy mà sâu, gọn đấy mà sắc. Cái tiếng Vâng tôi hay dùng té ra tưởng lễ phép nhưng nó cứ cứng cứng thế nào, nó đúng nhưng chưa đủ, đầy nhưng chưa tròn, nó là sự phục tùng nhưng đầy hao khuyết…

Một lần tôi về quê, xuống quán đứa cháu gái gọi bằng bác để nhâu. Thấy bốn năm bàn khách trong khi nó lăng xăng dọn bàn cho tôi, vừa dọn vừa dạ liên tục. Quan sát một lúc thì thấy sự việc như sau: mấy người giúp việc đi có việc hết, mình nó vừa chủ quán vừa nhân viên vừa nấu bếp vừa bưng bê. Đông quá, nó bê cho mỗi bàn một thùng bia rồi lúi húi dưới bếp, luôn mồm dạ dạ khi các bàn gọi.

Nhưng cái tiếng dạ của nó như có ma lực đủ khiến cho các bàn khách ngồi uống bia suông trong khi nó đang… vặt lông gà và nói chuyện với tôi. Nó bảo bác có thấy cái ông ngồi bàn ngoài cùng kia không, uống chịu miết, cháu đòi hoài mà không trả tiền, ghét. Cái tiếng ghét kéo dài và miết xuống nghe đủ biết nó… ghét ông kia thế nào đang có cơ dài ra thêm thì chính ông ấy gọi: em ơi, cho đĩa lươn xào xả ớt.

Tưởng nó sẽ sửng cồ lên hoặc mát mẻ thế nào. Nhưng không, một tiếng dạ ngọt đến không ngờ, mềm đến không ngờ lại thốt ra từ miệng nó. Tất nhiên sau đấy cả tiếng đồng hồ không có đĩa lươn nào được bưng lên vì nó vẫn còn loay hoay với… con gà luộc, và vẫn dạ rất ngọt mỗi khi ông kia gọi.

Cái tiếng dạ của con gái Huế ấy nó níu chân níu hồn níu cuộc đời của biết bao gã đàn ông, nó khiến cho người có hầm hố đến mấy cũng phải hiền lành ngoan ngoãn. Có thể gọi nó là đặc sản Huế không nhỉ, bởi cũng có nhiều người con gái phía Nam, không chỉ Huế, dạ rất ngọt, rất hiền, rất ngoan, nhưng cái tiếng dạ xứ Huế vẫn cứ khiến lòng ta nôn nao nhất.

Cái âm của tiếng dạ ở đây nó nhẹ như hơi thở, mà là hơi thở ban mai, thở như không thở, thở như làn sương mỏng quấn hờ trên những vòm liễu la đà ở công viên Lê Lợi. Cái ngữ của tiếng dạ nó cứ luyến láy cứ bâng khuâng, nó khiến người nghe như bị trói trong một sợi dây vô hình. Và nó vang vọng, nó dư ba, nó hun hút khiến có những gã đi xa đến mấy chục năm, vô tình nghe tiếng dạ giữa một nơi xa lạ, rất xa lạ, giật mình thảng thốt như mình đang hiện diện ở quê nhà. Và ký ức quay về…

Những vòng xoay thương nhớ

Một ngày nắng như đổ lửa của đất trời miền Trung, cô chọn cho mình một chỗ ngồi quen thuộc ở góc quán quen và gọi ly cà phê sữa đá như mọi khi vẫn vậy. Đang mơ màng theo lời bài hát của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và lướt facebook, cô bỗng khựng lại khi thấy trên newsfeed hiện lên dòng trạng thái “Sài Gòn mùa hoa bay” kèm theo bên dưới là bức ảnh cô gái đang hứng những trái chò nâu đang xoay tít trong gió. Hình ảnh đó khiến cô nhớ Sài Gòn quay quắt và nhớ cả mối tình đã mười năm xa vắng.

Vậy là cô xa Sài Gòn đã mười năm. Mười năm với biết bao thương nhớ, mong chờ. Cô cũng không nghĩ mình lại yêu mến mảnh đất hoa lệ này nhiều đến vậy cho đến khi cô rời xa đi. Cô nhớ cái ồn ào, náo nhiệt còi xe, nhớ những con hẻm nhỏ ngoằn ngoèo, nhớ những ngã tư ngã năm đèn xanh đèn đỏ. Cô nhớ tiếng hũ tiếu gõ đêm đêm, nhớ tiếng rao thân thuộc “bánh mì Sài Gòn, đặc ruột thơm ngon, năm ngàn một ổ”. Và cô nhớ cả ly cà phê sữa đá Sài Gòn cô vẫn thường hay uống cùng anh. Tất cả những gì nhỏ nhặt nhất, bình dị nhất của Sài Gòn cô đều nhớ rõ. Cảm giác của cô những ngày mới rời xa Sài Gòn có lẽ đúng với câu thơ của Chế Lan Viên “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.

Lần đầu tiên cô đặt chân đến Sài Gòn với bao bỡ ngỡ, lạ xa. Sự náo nhiệt, vội vã của thành phố khiến cô choáng ngợp. Sài Gòn đón cô bằng cơn mưa đầu mùa mát dịu, anh đón cô bằng ánh mắt ấm áp, vòng ôm dịu dàng. Giây phút đó cô biết mình sẽ yêu mảnh đất này dù phía trước còn nhiều khó khăn. Cô và anh đã đi qua bao mùa mưa, bao mùa nắng, bao mùa kèn hồng, bao mùa chò nâu của Sài Gòn. Đi qua bao mùa nhớ, mùa thương, mùa giận hờn, xa cách để rồi khi rời xa đi cô luôn ôm trong lòng nỗi buồn vô hạn.

Cô nhớ những lần cà phê ở Nhà thờ Đức Bà anh thường bảo với cô rằng: nếu Sài Gòn không có mùa chò nâu bay thì người ta nhắc tới Sài Gòn chỉ nhắc tới những tòa nhà cao tầng, những ngột ngạt khói bụi, những ồn ã còi xe. Mùa chò nâu bay như liều thuốc xoa dịu bớt cái nắng, cái nóng, cái oi nồng của thành phố, làm vơi những vất vả, lo toan trong cô, trong anh và trong cả những con người đang hối hả ngoài kia. Và cũng có lần cô đã hỏi anh rằng: thành phố sẽ thế nào nếu chò nâu không còn xoay tít trong gió nữa. Anh cười trêu cô: sẽ như anh không còn em…

Chắc có lẽ không có loài nào vừa không sắc không hương mà để lại nhiều luyến lưu như chò nâu. Ngay cả cái tên thôi cũng đã gợi lên sự mộc mạc, dung dị vốn có. Cô nhớ lần đầu tiên cô bắt gặp những cánh chò nâu là khi anh dẫn cô đi dạo ở Nhà thờ Đức Bà. Cô lạ lẫm, thích thú khi nhìn những cánh màu nâu xoay tít trong gió. Anh bảo với cô cây chò nâu hay còn gọi là cây sao đen, cây dầu bay hay là cây hoa chong chóng xoay, là một loài cây đặc trưng của Sài Gòn. Khi những cơn mưa giao mùa bắt đầu cũng là khi những trái chò nâu xoay trong gió gợi nhớ, gợi thương. Cô thích đi dưới những hàng chò nâu cổ thụ xanh mướt, ngắm từng cánh nhỏ xoay tít trên không trung rồi la đà đáp xuống mặt đất mà xao xuyến, ngẩn ngơ.

Hàng ngàn trái chò rơi xuống tạo nên một tấm thảm nâu tuyệt đẹp. Chỉ duy nhất chò nâu khi rời cành người ta mới chú ý đến vẻ đẹp của nó, khoảnh khắc trái chò nâu xoay tít trong gió trong cuộc hành trình trở về với đất mẹ là khoảnh khắc đẹp nhất. Chò nâu rực rỡ ngay cả lúc tàn phai cũng như tình yêu của cô và anh tuy dang dở nhưng vẫn là những ký ức đẹp trong nhau.
Suốt mười năm xa Sài Gòn cô vẫn giữ trong lòng những nhớ thương, lưu luyến với vùng đất nặng ân tình. Cô ước một lần được đi trên con đường rợp trái chò nâu bay, uống ly cà phê sữa đá ở Nhà thờ Đức Bà và cùng anh nghe lại bài hát quen thuộc ngày xưa cũ:

“Em còn nhớ hay em đã quên
Nhớ Sài Gòn mưa rồi chợt nắng
Nhớ phố xưa quen biết tên bàn chân
Nhớ đèn đường từng đêm thao thức…”
Và cứ thế nỗi nhớ mỗi ngày một lớn dần lên…

Những cánh hoa mưa

H ơn nửa năm trôi qua chỉ có cái nắng gay gắt khô ráp hòa với khói bụi và tiếng nhộn nhịp còi xe cư trú ở mọi ngõ ngách của phố phường. Bỗng sáng nay, có mùi nước mát lạnh ở đâu đó khẽ tràn về theo cơn gió đong đưa. Sài Gòn đã đón những cánh hoa mưa đầu tiên sau bao tháng ngày mòn mỏi ngóng trông, sau bao tháng ngày khát mưa như bé thơ khát lời ru ầu ơ của mẹ…

Khi mùi oi nồng hăng hắc của nhựa đường len vào mũi, tôi bèn nhận ra ngay trong thành phố đã có mưa rơi, những hạt mưa chưa đủ làm dòng nước nổi trên đường mà chỉ đủ thấm vào mặt trải nhựa nóng bỏng, khiến nó tràn lên một mùi đặc trưng của cơn mưa nhỏ nhẹ đầu mùa.

Tôi đếm thời gian. Tôi chờ đợi… Rồi thì cũng có làn hơi nước mát lạnh ở đâu đó bay tới, đậu trên gò má ửng hồng ráp nắng, len vào tóc, phả vào tận tâm hồn ngàn nốt nhạc mê say. Mưa loanh quanh ở những quận xa xa trung tâm. Mưa trườn tới trắng xóa từng cơn phố nơi tôi đang sinh sống. Mưa nhảy múa trên giàn hoa phượng đỏ. Mưa đậu trên mái tóc ai giữa trời nghiêng mây gió. Mưa rơi trên những bờ môi khô ráp, mềm mịn lòng người sau những chuỗi hanh hao…

Trẻ con, người lớn cùng những chiếc xe bon bon trên phố vội vàng tìm mái hiên khe khẽ nép vào. Những mái hiên từ lâu chỉ phù hợp che nắng, cũng đã lổ đổ chỗ còn nguyên, chỗ ánh sáng dọi vào. Những mái hiên không đủ che cơn mưa đầu mùa tràn về rượt đuổi lao xao. Người trú mưa cũng ướt như thường, nhưng là ướt ngọt ngào, ướt thảnh thơi, ướt nhẹ nhàng như tâm hồn bỗng nhẹ nhàng chậm lại, như đang thoát ra cái guồng quay mê mải, cơm áo gạo tiền bề bộn những bước chân.

Dưới mái hiên xa lạ chẳng ngại ngần, người với người như thân thương từ lâu lắm. Họ trò chuyện, họ mỉm cười, họ nhường nhau từng khoảng ráo khô ít ỏi. Họ như người nhà, nhẹ nhàng, ân cần cùng nhau tận hưởng những giây phút ngọt ngào của bản tình ca cơn mưa đầu hạ khẽ khàng…

Bên kia, quán cà phê vỉa hè một chiếc dù tràn bụi đã kịp bung lên.Có vài vị khách giúp người phụ nữ nhỏ bé để kịp che khô chiếc bàn nhỏ lỉnh kỉnh đồ pha chế. Những chiếc ghế được nhường cho người già, em bé. Người lớn đứng xúm xít dưới tán dù trú tạm. Cô chủ nhoẻn miệng hiền hòa nép vật dụng gọn gàng để mọi người đủ chỗ đứng, dẫu họ không vào uống cà phê.

Xa xa, những cô cậu đôi mươi hí hoáy chiếc smartphone nghiêng ngả đủ góc hình, người chụp ảnh, người quay phim hẳn sẽ có một bài đăng nhiều like nhiều view trên các trang mạng xã hội. Và có tôi cũng với chiếc điện thoại nhỏ trong túi, vội mở ghi âm ghi lại cảm xúc ngay lúc này.

Tôi sợ nếu lát nữa thôi, khi bài ca mưa đầu mùa khép lại, tôi sẽ quên mất từng câu từng chữ, từng nhịp đập bồi hồi không thể đặt tên. Tôi ghi âm lại, về nhà viết ra sẽ vẹn nguyên cảm xúc lúc đón nhận cơn mưa đầu mùa. Có lẽ sau nửa năm nắng vàng rụm khô khan hòa khói xe bụi bặm, thì người dân trông chờ mùa mưa như mong ngóng người thân yêu về nhà sau những tháng ngày biền biệt khơi xa, biền biệt đất khách quê người. Bởi vậy lòng người cũng nhẹ nhàng hơn, trái tim ấm áp hơn, bao dung hơn, tính cách cũng ôn hòa hơn, gần gũi hơn với những người xa lạ.

Người ta đón nhận những khoảnh khắc nhẹ nhàng của đất trời, của lòng người, để sống chậm lại, yêu nhiều hơn. Và dường như, ai cũng muốn chia sẻ, ai cũng muốn trải lòng, ai cũng tình thân…
Nhưng cơn mưa đầu mùa không kéo dài thật lâu. Có lẽ mưa cũng hiểu ý chăng vì người dân còn bộn bề công việc, những dở dang cần sớm được hoàn thành. Và thật nhanh, nắng tràn về rực rỡ, cùng với những bánh xe lăn thổi khô cả con đường rộng lớn thênh thang.

Thời tiết Sài Gòn cũng lạ lắm, bất chợt mưa, bất chợt nắng, y như cá tính của thiếu nữ chớm dậy thì, giận đấy, thương đấy, hiền dịu đấy, lại quá đỗi kiêu kỳ… Dẫu nắng có trở về chiếm hữu các ngõ ngách thân thương. Thì may quá, những cánh hoa mưa đầu mùa đã giúp nhiệt độ giảm hơn rất nhiều, phố phường gột rửa trong veo, đàn chim sẻ nhỏ tắm táp rũ cánh trong veo, từng hàng cây mướt xanh reo vui. Dãy phượng vẫn thắm, vẫn giấu được vài giọt mát lành tận sâu trong kẽ lá, trong nhụy hoa long lanh…

Chỉ ít ngày nữa thôi, mùa mưa sẽ về với Sài Gòn. Có thể sẽ có những cơn mưa xối xả rồi qua nhanh. Có thể là những cơn mưa dai dẳng một buổi, một ngày. Có thể là những cơn mưa ngập phố xá, tràn vào mấy ngôi nhà cấp bốn chưa kịp nâng nền khi đường xá đã khang trang.

Rồi có người sẽ thích mùa mưa, có người không thích, vì điều kiện, vì mưu sinh. Nhưng dù muốn hay không thì mùa mưa cũng đang sắm sửa trở về, kéo dài tận nửa năm. Và chúng tôi cũng sẽ thấy bình thường với những cơn mưa bất chợt đến, bất chợt đi như bao tháng năm qua vẫn vậy.
Guồng quay cuộc sống cứ thế lại tiếp diễn mỗi ngày giữa thành phố nhộn nhịp bán buôn, nhộn nhịp người xe, nhộn nhịp ánh đèn lấp lánh giữa các cao ốc chọc trời. Những nhà hàng sang trọng rộn rã, những quán cà phê thơm ngon gọi mời, những con đường tan tầm chen chúc người xe, những tiếng rao của các cô hàng rong, tiếng bọn trẻ con những chiều tan trường học, cứ thế xôn xao…

Nhưng cơn mưa đầu mùa luôn mang đến cho con người cảm xúc đặc biệt. Luôn mang đến cho thành phố tôi yêu những màu sắc đặc biệt.Sự giao thoa nhẹ nhàng của phố thị, của lòng người khiến Sài Gòn nên thơ hơn bao giờ hết. Đôi lúc tôi cảm giác đằng sau một Sài Gòn quyết liệt vững chãi, lại là một nàng thơ. Một nàng thơ quá đỗi xinh đẹp và dịu dàng đang dang đôi tay mềm mại giữa đất trời, đang dập dìu những bước khiêu vũ ngọt ngào quyến rũ dưới những cánh hoa mưa….

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Sáng nay Quảng Trị trở gió, Hà thành có lạnh lắm không? Từng làn gió lùa vào lòng ta lành lạnh, làm thức dậy nỗi nhớ về miền thương dấu cũ. Ta nhớ Hà Nội của mùa Thu hơn mười năm về trước, nơi ta đã từng đi thực tế trong chuyến tham quan của học sinh cuối cấp. Nơi dừng chân thoáng qua trên hành trình cuộc sống, lại trở thành niềm yêu dấu mãi giữa bộn bề quên nhớ của thời gian. Mà có lẽ những ai đã từng đến Hà Nội, nhất là độ Thu về, cũng sẽ thương mãi trong da diết tim mềm, thương hoài thương mãi mà thôi.

Ta đi trong Thu hôm nay bỗng nhớ da diết sắc vàng của mùa Thu nơi hoàng thành đất Bắc những năm nào đó. Một sớm Thu về đón lạnh đầu mùa giữa những dải phố dài xao xác hơi may. Một sớm Thu về bâng khuâng nắng cuối mùa hanh hao hờn dỗi. Ta nghe nôn nao hương Thu trong gió chớm mùa, thổn thức đưa tay gầy ôm tròn bao mùa gió di chân qua phố. Phố như rộng hơn ra và dòng người trên phố bỗng chậm hơn giữa muôn lối. Ta nhớ những con đường ngạt ngào hương hoa sữa, hương sữa như quấn quýt trên từng bước chân người.

Mặt nước Hồ Gươm lá vàng in bóng nước, đan những sợi thương sóng sánh buồn trôi dạt giữa dòng mơ, để mỗi khi có một cơn gió ngang qua mặt nước hồ thu lại ngập ngừng lay động. Ta nghiêng tay đón lấy vài chiếc lá thu phai, ngắm say sưa hàng lộc vừng đang đổi màu trên lá. Tiếng chuông chiều vọng từ nơi nào xa thẳm. Thấp thoáng trong sương mờ cầu Thê Húc mênh mang, mây trời bàng bạc cũng dịu dàng quá đỗi, nhè nhẹ ôm vào lòng cặn kẽ từng chứng tích của một thời huyền sử thiêng liêng. Vài cành liễu rũ bóng bên bờ lan can sát gần bóng nước, như cố soi mình vào tấm gương thu hiền lành ấy, bỗng thấy thấp thoáng thương những chiếc lá vàng vì thu mà rụng rơi lặng thầm trên bậc thềm ghế đá.

Ta yêu Hồ Gươm không chỉ vì những áng vàng thu lung linh đáy nước, ta thương Hồ Gươm bởi những chậm rãi hoài cổ rất riêng nơi mảnh đất này. Ta nhìn trong tơ trời nhàn nhạt có cụ già chậm rãi đi bộ dọc lối đi ven bờ hồ, chiếc áo thanh thiên mỏng nhẹ lay động trong gió, dáng cụ thong dong ngắm mây trời như gợi khắc cả một đời sóng bước cùng đổi thay. Ta ngồi lặng ven hồ ngắm ghế đá chiều nay, ngắm mây trôi giữa tầng không như đang những ngày thu cũ. Nghe trong gió khúc Trịnh ca trầm lắng, cúi xuống lưng chừng nhặt hòn đá đang lăn tròn giữa hai lối cỏ hoa. Lại thấy ta tan hoà giữa trời thu Hà Nội, lắng chìm hồn phách trong khoảng khắc thu vàng nơi mảnh đất bốn phương hội tụ của văn hiến nghìn năm. Ta thấy ta thương những kiếp người chầm chậm giữa lòng thu. Ta thương Hà Nội già, Hà Nội cổ kính, Hà Nội đẹp bởi những quắc thước phong trần hằn in trên những mái tóc muối pha sương của những người đã cũ.

Ta thương những cụ già vẫn quấn tóc đỉnh đầu, chiếc áo khoác mỏng không màu mè sặc sỡ và chiếc khăn voan mỏng quấn quanh cổ che gió che sương. Đôi vai gầy và dáng hình khoan thai đi bộ trên con đường ngập đầy lá vàng rụng là nét riêng của trời thu Hà Nội mà không có nơi đâu có được. Hà Nội không vội được đâu. Hà Nội kín đáo, e ấp, chậm rãi. Hà Nội từ từ giữa mùa sấu rụng, mùa của cốm Làng Vòng rong ruổi khắp đường lớn, ngõ hẻm. Sắc xanh của cốm gói trong lá sen như toả thu khắp từng cung đường của phố. Và sắc trắng dịu dàng của cúc hoạ mi phía sau ba gác của chiếc xe đạp giàng như nhắc ta nhớ cả một thời mùa Thu xa vắng. Lại tưởng như lắng chìm trong câu hát rất Hà Nội : ” ngõ nhỏ, phố nhỏ, nhà tôi ở đó”, để thương, để nhớ, để tìm, và đôi chân bất giác đi theo những con ngõ nhỏ giữa lòng thủ đô.

Ta thương từng gánh hàng rong trên đường phố Thủ đô, đó là quá khứ những ngày xưa rất cũ, đó là hồn quê của làng Việt thương mến, chân chất êm đềm cả một thời yêu dấu xa xôi. Hàng rong trên phố, trên đôi quang gánh cô thôn nữ, trên yên sau chiếc xe đạp mi ni, như gợi dậy cả hồn thu cũ, hồn xưa của một thời dung dị như sống dậy trong từng nốt thu mộc mạc. Thu hoạ sắc trên từng cánh hoa nhỏ, gom ngọc trời trong từng hạt cốm giòn. Thu phả trong gió hương sen, hương sấu. Thu se sẽ cho lá vàng rơi nghiêng thật nhẹ, để những hạt nắng vàng khe khẽ hát miên man. Phố cho ta những dịu nhẹ tha thiết nhất của lòng.

Hà Nội vào thu, miên man sắc vàng trên từng con phố. Người đi đường cũng chậm hơn để bất giác đón mùa Thu yêu dấu vào lòng. Những giàn hoa giấy đã bớt đi cái nóng giòn của nắng hạ nên bỗng hiền hoà dịu dàng hơn giữa phố thu, bên những góc ban công già và khung cửa sổ màu xanh thiên thanh cũ. Nơi có những bộ tràng kỷ cổ kính như là quá khứ, trong sắc thu mùa cũ cứ bâng khuâng thức dậy trong hồn. Nơi người ta không muốn vội khi đi qua những con đường ngập tràn hương hoa sữa, sắc trắng sữa tinh khôi chẳng đủ chói chang mà cứ theo gió quấn riết trong tim người.

Nếu một lần nào nữa lại có dịp thả chân đi giữa trời thu Hà Nội, ta chỉ muốn ngồi vào một quán cóc nào đó bên vỉa hè, có gốc cây hoa sữa ngào ngạt toả hương để hít hà cho thoả thuê sắc thu ngọt chốn Hà thành. Ta sẽ đi thật chậm trên những con đường ngập lá vàng rơi, để lắng nghe tiếng xào xạc rất riêng của đường lá, để nắn nót những bước chân thật chậm kẻo làm đau những chia cắt của cành. Để cảm nhận tất thảy những xao động của gió mùa Đông Bắc. Để thêm yêu đất kinh đô ngàn năm văn hiến.Hà Nội miền thương.

Hoa dành dành

N hững ai từng lớn lên ở miền quê, không thể không lưu giữ trong ký ức mình loài hoa có màu trắng tinh khiết ấy. Loài hoa hồn nhiên như tuổi thơ, hoang dại như ngọn gió, hiền lành như tiếng chim buổi sáng. Hoa có những cái tên rất đẹp như bạch thiên hương, chi tử, thủy hoàng chi… Còn quê tôi thường gọi là hoa dành dành.

Hoa dành được tạo hóa ban tặng cho một vẻ đẹp duyên dáng, tựa như một đóa hồng trắng tinh khôi với hương thơm nồng nàn mê đắm. Bao mùa hoa dành đi qua, chị em tôi trưởng thành rồi xa quê. Nhưng những mùa hoa dành vẫn mãi là những kỉ niệm chẳng mờ phai…Hoa dành bình dị lặng thầm nở giữa muôn sắc hoa trong vườn mẹ. Dịu dàng tỏa hương như tình yêu mộc mạc mà sâu lắng của mẹ dành cho những đứa con xa…

Hoa dành có hai loại cánh đơn và cánh kép. Cánh đơn chỉ có một, cánh kép là hai cánh xếp chồng lên nhau. Hoa cũng có hai màu, màu trắng và màu vàng nhạt, thường nở vào cuối xuân đầu hè từ tháng 3 cho đến tháng 5. Hoa có cái tên hiền như củ khoai hạt lúa quê nhà, nhưng lại có vẻ đẹp tinh tế và hương thơm quý phái. Dành dành không chỉ là một bông hoa đẹp, mà nó còn mang trong mình nhiều ý nghĩa đặc biệt. Hoa dành thường được xem là biểu tượng của tình yêu trong trắng và tình bạn chân thành.

Trong muôn loài hoa quê, hoa dành dành là một trong những loại hoa thơm nhất. Những đêm trăng tháng 5 đầu hạ, hoa nở trắng cả hai bên bờ giếng làng, lũ trẻ con chúng tôi tụ bạ ở sân kho chơi trò quân xanh quân đỏ, hái hoa dành làm vòng đeo tay đeo cổ. Có đứa còn lấy dây chuối xỏ vào hoa đeo lên tai. Áo cởi trùm lên đầu, trông cứ như lũ trẻ của một tộc người nào đấy. Nhưng mà thơm, mùi mồ hôi quện với mùi hoa thành một thứ mùi rất đặc biệt. Đó là mùi quê. Lũ trẻ lớn thêm đến tuổi dậy thì, hoa dành cũng vì thế mà thơm hơn dễ thương hơn. Hoa được kết thành vòng cô dâu đội lên đầu ngày em mười sáu. Hoa trắng thơm ngần giấc mơ thiếu nữ…

Nếu bạn hỏi tôi hoa dành thơm nhất vào thời điểm nào trong ngày. Vậy thì bạn hãy dậy sớm nhé, khi mặt trời thức dậy là lúc hoa dành nở và thơm cho đến lửng chiều.

Có lần tôi đọc sách phong thủy viết cây dành dành có ý nghĩa là đem đến nhiều điều may mắn tốt đẹp. Cây dành hoa trắng hoa vàng phù hợp với những người mệnh thổ, kim và thủy. Ở quê tôi chả cần biết phong thủy là gì, nhưng nhà nào cũng có một bụi dành dành trồng ở góc vườn, trái nhà hay cạnh bờ ao, đôi khi chẳng cần trồng mà do hoa phát tán tự mọc lên.

Mẹ tôi trồng một cây ở ngay chính giữa cửa nhà, mùa nào cũng ra hoa và rất nhiều quả. Cây bắt đầu cho ra quả từ khoảng tháng 6 đến tháng 10. Quả dành dành có hình bầu dục với nhiều góc cạnh, bên trong có khía từng ngăn. Khi chín quả có màu vàng cam bên trong nhiều hạt nhỏ. Cuối Thu dành dành chín cũng là mùa cưới. Trong mâm cỗ cưới, dĩa xôi dành vàng tươi nổi bật trông thật đẹp mắt.

Mùa quả chín nhiều mẹ bảo tôi hái đem phơi khô để vào hộp dùng dần. Xôi dành dành mang hương vị đặc biệt bởi sự kết hợp hoàn hảo giữa mùi thơm dẻo của nếp, vị ngọt của nước cốt dừa. Khi xôi sắp chín tôi thường cho thêm một thìa mỡ gà làm cho hạt xôi bóng và căng mọng. Màu sắc của xôi phụ thuộc vào số lượng dành dành sử dụng. Nhiều quá xôi sẽ có màu vàng đậm, ít quá xôi có màu vàng nhạt, không đẹp. Thường thì 1kg gạo chỉ nên dùng 1 quả dành xôi sẽ vàng tươi hấp dẫn.

Cũng vì vẻ đẹp thanh khiết của hoa dành dành mà cây thường được trồng ở một số nơi trang nghiêm thoát tục như đình chùa.Chùa làng tôi mỗi năm mở hội một lần vào tháng ba. Trong mâm cỗ chay thì điểm nhấn đẹp nhất vẫn là đĩa xôi dành. Những người con xa quê về dự lễ hội say mê tạo dáng bên những bụi hoa dành. Còn tôi ngồi nhớ mình từng viết về một giấc mơ hoa cỏ:

“Thương thầm từ thuở hoa mua
hoa dành dành kép còn chưa kịp vàng
trăng sao lạc giữa mây ngàn
nụ hôn cỏ dại đăng đàn tìm nhau…”

Cây dành dành thân thương với người quê, thân lá và rễ cây chú tôi thường phơi khô để kết hợp với một số vị khác chữa các bệnh về thận. Bây giờ khoa học tiên tiến còn dùng hương hoa dành để chiết xuất ra các loại nước hoa có hương thơm sang trọng và quý phái.

Cây dành dành ở quê giờ đã vắng đi nhiều, duy chỉ có cây bên cống Ngòi là còn nay lên tuổi cụ. Hoa dành vẫn thơm, xôi dành vẫn dẻo. Nhưng giấc mơ dẫu có đăng đàn thì mãi chỉ là mơ. Để mỗi khi về làng, tôi lại thấy lòng dịu lại, nao nao nhớ mùa hoa thương nhớ năm nào:

” Trăng còn thổn thức sang canh
cho em tìm nụ dành dành trổ đêm”?

Mong manh một loài hoa

M

ột bông hoa không nghĩ đến việc cạnh tranh với bông hoa khác. Nó chỉ nở hoa thôi. Tôi cứ nhớ đến câu nói ấy, mỗi khi nhìn hoa giấy nở.

        Trong thế giới ngàn vạn loài hoa, hoa giấy là cái tên rất… mong manh! Mong manh bởi nó nằm đâu đó trong danh sách rất dài những loài hoa người ta có thể nhớ, có thể quên, có thể trầm trồ, có thể hờ hững. Vì hoa giấy hữu sắc vô hương, làm sao đua chen nổi với sen, hồng, lan, huệ, đào, mai, ly, cúc và bao loài hoa khác khi không đậm đà, thanh cao, nồng nàn, quý phái hoặc thoang thoảng hay dìu dịu…? Nhưng cái đẹp sinh ra trên đời đâu phải để tranh đua! Huống hồ sự hiện diện nào của cái đẹp cũng mang ý nghĩa điểm tô, bù đắp những thiếu hụt cằn cỗi, làm dịu bớt cái xù xì, thô nhám của đời sống. Không mặc cảm rằng mình thua thiệt, hoa giấy cứ tự tin mà nở, cứ khiêm nhường mà khoe sắc, giữa thế giới muôn màu, bất kể nắng mưa.

Gọi là hoa giấy cũng phải, bởi cánh hoa mỏng manh, mềm như lụa, khi tàn khô và rơi xuống nhẹ bẫng, vẫn thắm sắc như lúc trên cành. Cái đẹp của hoa giấy nằm ở sự phong phú sắc màu và đông đảo về số lượng. Thoạt tiên là vài cánh đơn lẻ lấp ló sau lá cành, rồi những ngọn hoa, nhành hoa vươn dài từng chùm rủ xuống, khi tận độ là cả giàn hoa, vòm hoa, thành suối hoa, thác hoa bừng trổ. Tím, đỏ, vàng, cam, hồng, trắng, khi đơn sắc, khi đan xen, pha trộn mà không hỗn độn, ngọt ngào mà không sến súa, không sang trọng nhưng cũng không bình dân, lạ làm sao hoa giấy luôn khiến người ta ngỡ ngàng và mê mải.

Có lẽ vì vẻ đẹp mang tính lưỡng cực ấy mà hoa giấy được trồng khắp mọi nơi. Khi ở bờ rào, khi nơi đường vắng, khi trong sân nhà hay sảnh cơ quan, nơi dinh thự cao sang lẫn nơi nhà tranh ngõ nhỏ, nơi công viên xanh mát hay trên đường phố mưa chan nắng gội, khi mọc sum suê thành hàng thành rặng, khi được tỉa tót thành dáng bonsai trồng chậu để bàn… Ở đâu hoa giấy cũng đẹp bởi sự tự nhiên và dễ thích nghi của nó, không ai khen sang nhưng cũng chẳng ai chê hèn. Hoa không làm mình làm mẩy mà đỏng đảnh héo sầu đòi người phải quan tâm chăm sóc, cây cứ xanh tốt quanh năm, đến mùa thì bung lụa.

Ngôi nhà nhỏ của tôi ở ngoại ô cũng có một giàn hoa giấy, loại hai màu trắng hồng. Ban đầu chỉ là một ngọn dây leo tôi trồng sát mé tường, rồi ngọn cây ấy nhanh chóng bò lên vòm cổng, lan vào mái sân, bao trùm và toả rộng, che mát cả hiên nhà. Mùa hoa nở là mùa vũ hội của chim chóc. Sáng tinh mơ đã nghe tiếng chíp chiu, lích rích, líu ríu của bầy chim sẻ, chim sâu bay tìm gọi nhau xôn xao cả vòm hoa lá. Giàn hoa rực một góc đường, sáng bừng ngõ nhỏ những trưa hồng, những chiều tím. Bao người qua lại đã dừng chân chụp ảnh với bờ hoa giấy dạt dào lay động như suối chảy, như thác đổ. Nếu hoa giấy biết toả hương hẳn ngôi nhà nhỏ của tôi đã rất nồng nàn.

Mỗi người trong chúng ta yêu thích một loài hoa nào đó đôi khi không chỉ vì nó đẹp hay thơm mà còn vì gắn với kỉ niệm. Chẳng phải những đồi hoa sim của Hữu Loan cứ tím mãi những “chiều hoang biền biệt”, tím cả đời người bởi kỉ niệm tình lứa đôi mãi xót xa khắc khoải trong lòng, hay loài hoa ti gôn “tựa trái tim tan vỡ/ và đỏ như màu máu thắm pha” của TT.KH cũng trở nên đẹp buồn hơn khi gắn với hồi ức vui buồn, hạnh phúc và đau khổ trong tình yêu của con người đó sao? Nhờ in dấu trong kí ức tình đời mà vẻ đẹp, hương thơm của nhiều loài hoa đã vượt khỏi sự hữu hạn của đời sống tự nhiên, thành hương sắc bất tử trong nỗi nhớ niềm yêu của biết bao tâm hồn say mê cái đẹp. Những bông hoa cứ nở rồi tàn theo quy luật tự nhiên nhưng kỉ niệm trong ta thì thắm tươi cùng những sắc hoa và còn mãi với thời gian.

Tôi không nhớ chính xác mình yêu hoa giấy từ khi nào, nhưng nhớ rất rõ, hình ảnh giàn hoa giấy đổ dài như một trái tim lớn màu hồng trong khuôn viên trường ĐHSP Quy Nhơn thưở trước, nơi tuổi trẻ nhiều mơ mộng của tôi đã trôi qua ở đó với bao kỉ niệm êm đềm dưới giàn hoa giấy nở. Nhớ con đường miên man sắc hoa giấy ở Bà Rịa – Vũng Tàu, nơi lần đầu tôi nhận ra loài hoa ấy đẹp một cách lạ thường khi được trồng ở dải phân cách. Tôi nhớ Đà Lạt với những ngôi biệt thự thấp thoáng sau giàn hoa giấy tím hồng nơi dốc núi. Giữa thành phố ngàn hoa, hoa giấy vẫn đem đến cho những ngôi nhà cổ kính nơi đây vẻ đẹp êm đềm, trang nhã. Tôi nhớ Quy Hoà, nơi có rặng hoa giấy hồng tươi chạy dài theo lối nhỏ dẫn vào khu di tích Hàn Mặc Tử, những cánh hoa màu xác pháo ướt nhẹp sau trận mưa giông, nhắc ta nghĩ về sự mong manh của cái đẹp, về sự thuỷ chung của sắc hoa và cả sự vô tình của những bước chân người…

Thành phố cao nguyên, nơi tôi ở, bây giờ cũng đang vào mùa mưa. Giàn hoa giấy trước ngõ đã tàn từ tháng trước, chỉ còn lại vòm lá xanh thẫm lặng thầm trong mưa. Mấy rặng hoa nở muộn ở các con đường chỉ còn lác đác mấy cành, cánh rụng tả tơi, rã rượi. Người người dường như đã quên sắc hoa giấy mong manh họ từng tấm tắc, mê mải, để đắm đuối với bằng lăng tím, phượng hồng, phượng đỏ và bắt đầu ngóng đợi một mùa sen tháng sáu sắp về…!

Thì có sao đâu! Khi một bông hoa chẳng bao giờ nghĩ đến việc cạnh tranh với bông hoa khác. Nó chỉ nở hoa thôi.

Bậc thềm này còn in dấu chân

T rong hành trình cuộc đời, không biết đã bao nhiêu bậc thềm gót chân mình đã bước qua. Thật tình chẳng ai nhớ và chẳng ai nghĩ về điều này làm gì cả. Rõ ràng thật là vô nghĩa khi ngồi đếm chân mình lưu dấu vì chẳng để làm gì. Nhưng chỉ mới đêm qua thôi, quá khuya mới nhớ ra quên chưa đóng cửa. Khi cúi xuống thả thanh ray, mắt vô tình chạm phải bậc thềm mới chợt nghĩ đến những bậc thềm đã ghi những thước phim đời mình.

Đường phố về khuya im lìm dưới ánh đèn vàng hiu hắt, thoảng hoặc mới thấy đôi ba ánh đèn xe máy lướt qua vội vã, dường như họ đang muốn thật nhanh để trở về ngôi nhà ấm áp sau một ngày dài. Chớm đông, tiết trời se lạnh. Cái lạnh dễ chịu khiến con người so vai khi một vài làn gió thổi bạt qua. Cữ này của năm đó, cũng tiết se lạnh này mình và người từng thương đã ngồi đó suốt một đêm dài nơi bậc thềm này để nói với nhau lần cuối quyết định quan trọng của cuộc đời. Chẳng quán sá với nhạc dìu dặt lâm ly. Chẳng phải là căn phòng ấm áp từng ghi dấu bao tháng ngày hạnh phúc. Không là phòng khách với những khoảng trống đến vô cùng. Mình ngồi bệt thu lu bó gối trên nền sàn lạnh. Khoảng cách không gần cũng chẳng xa, đủ để có thể nói với nhau những lời nhẹ nhàng nhất cuối cùng. Những sợi khói từ điếu thuốc lập lòe trong đêm lạnh liệu có làm lòng người khởi lên chút gì ấm áp. Hay có xua đi được những rối bời tiếc nuối đắng cay? Bậc thềm vô tình làm nhân chứng cho một cuộc chia ly.

         Cũng nơi bậc thềm đó của năm tháng thanh xuân, có chàng trai đã ngồi mỗi ngày chờ đợi bóng dáng của người con gái mình thương đi học về ngang qua lối đó. Chỉ để đôi mắt giao nhau khi cô gái ngước mắt tìm kiếm dáng ngồi quen, vậy thôi mà ấm áp suốt cả tuổi mới lớn với những rung động đầu đời. Để rồi nắm tay cùng nhau đi một đoạn đường dài thật dài. Kỷ niệm nào cũng rưng rưng cảm xúc ngọt ngào xen lẫn xót xa. Chớp mắt đã hai mươi lăm năm. Thời gian đem đến cho chúng ta nhiều thứ, và cũng lấy đi quá nhiều thứ. Cũng may thời gian lại chữa lành cho những vết thương sâu hoắm tưởng chừng chẳng thể nào vượt qua. Thời gian biến nụ cười vô tư trong trẻo một thời thiếu nữ thành cái mỉm cười đã qua nhiều giông bão đủ để điềm nhiên trước mọi biến cố dữ lành.

         Ngày thơ, cũng nơi bậc thềm, đứa trẻ lên năm nằm sõng soài chờ ngoại đi chợ về để tìm đồng quà tấm bánh được đặt trong cái thúng nhỏ ngoại đội trên đầu. Kỷ niệm đó không nhiều, chỉ có khi mỗi lần được về quê thăm ông bà. Mà xưa, thoảng hoặc vài năm mới được về một lần bởi đường sá xe cộ không thuận lợi như bây giờ. Lúc còn bé, khi ý thức được sự chờ đợi ngóng trông cũng là lúc mẹ đã đi học xa nhà. Không được cảm nhận nỗi chờ mẹ đi đâu đó trở về trong ngày, nên bậc thềm nhà lại không ẩn chứa nỗi chờ trông. Bậc thềm ngày ấy chỉ để những đêm quỳnh nở, mấy đứa trẻ trong xóm tụ tập lại đem đèn ra xem quỳnh. Mỗi lần thấy những chiếc cánh mỏng manh trắng muốt rung rinh lay động khe khẽ chuyển mình cả đám lại ồ lên thích thú. Khi quỳnh đạt đến độ bung xòe, mấy đứa con nít lại đưa mũi đến hít hà mùi thơm thanh khiết dịu dàng. Giấc ngủ thường kéo đến ngay sau đó với những giấc mơ hoa hẳn là rất nhẹ nhàng. Nhưng đến sáng mai, khi tỉnh dậy, nhìn những bông hoa héo rũ như chưa từng có sự bung tỏa hết mình đêm qua, mình đã cảm thấy xót xa cho một loài hoa chỉ ngào ngạt, rực rỡ trong một đêm ngắn ngủi. Thuở ấy mà đã biết thương hoa.

Quãng đời sinh viên chẳng được ở kí túc bởi khoảng cách giữa trường và kí túc xá khá xa, sức khỏe mình không tốt lắm nên đã chọn ở trọ gần trường. Nhưng bù lại, một tháng học quân sự tập trung đã cho mình được trải nghiệm những cảm giác được sống giữa tình thân bè bạn. Lại nhớ những bậc thềm mỗi đêm bập bùng tiếng guitar và tiếng hát của những cô cậu tân sinh viên vừa mới xa nhà. Từng gương mặt thân quen chợt nhòa chợt hiện, hai mươi năm, đủ để xóa nhòa đi nhiều thứ, nhưng có những phút giây kỷ niệm có lẽ cả cuộc đời không dễ phai mờ. Hình như cũng những đêm bập bùng đầy thân thương ấy, có những rung động vừa kịp nảy nở để sưởi ấm những trái tim non vừa biết ngân những nhịp điệu khác thường.

      Hôm trước, vừa nói chuyện với một người bạn. Bạn ấy xăm trổ đầy tay. Thoạt đầu, mình khá cẩn trọng khi giao tiếp. Bởi cứ có những định kiến trong đầu. Bạn kể những lo lắng bất an của bạn về việc con gái đi sinh nhật 9g đêm chưa thấy về, bạn đã đi ra đi vào trông ngóng. Bạn nhớ lại chính mình những đêm theo bạn theo bè đi chơi thâu đêm, trở về khi gần sáng thấy mẹ vẫn còn ngồi nơi bậc thềm đợi con. Chính hình ảnh mẹ ngồi đợi cửa đã thức tỉnh bạn, kịp níu bạn trở lại với cuộc sống bình thường trước khi trượt dài vào những đam mê nhất thời của tuổi trẻ bồng bột.

Mỗi đứa trẻ lớn lên đều lưu dấu trong mình những bậc thềm tuổi thơ. Nơi quây quần cùng bạn bè, cùng gia đình trong những đêm sum vầy ấm áp. Bậc thềm chứng kiến sự trở về và cả những rời gót chia xa không bao giờ trở lại. Nơi ngăn cách giữa thế giới xô bồ và bình yên ấm áp sau cánh cửa. Nơi những đôi dép được sắp xếp nằm cạnh nhau lặng lẽ bình dị gợi sự đủ đầy, hiện diện của chủ nhân trong ngôi nhà. Bậc thềm đôi khi còn thể hiện khí phách của người quân tử. Nghe thì có vẻ vô lý, thì đây “Những phường bất nghĩa xin đừng đến/ để mặc thềm ta xanh sắc rêu” ( Nguyễn Bính). Bỏ qua những giai thoại, chỉ tìm hồn cốt bên trong để hiểu nghĩa khí của một nhà thơ với tấm lòng trọng nghĩa, trọng tình.

Bậc thềm như là ngõ đợi. Một ngõ để về với sâu thẳm chính mình. Ai đợi ai đều cũng chất chứa những tình. Cái tình đó làm lưu luyến bước chân người đi xa. Mình cũng từng đợi và còn đợi những đến đi trong cuộc đời. Buồn vui gì cũng là những cảm xúc đẹp, neo lại lòng người. Nên đêm qua khi đóng cửa, mình đã nhớ “bậc thềm này còn in dấu chân” để nhắc nhở về những điều đã từng rất đẹp đẽ trong đời…

Nhớ thương mùa gặt

B ao nhiêu năm xa quê, nhưng rồi, chỉ cần lướt nhẹ qua cánh đồng vào mùa gặt, bất giác nghe mùi thơm nồng của hương lúa, nỗi nhớ nhà, nhớ quê trong tôi lại trở nên da diết, bâng khuâng…

Trong ký ức của tôi về làng quê năm ấy, là triền đê lộng gió cùng với cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay, là những nương ngô chạy dài tít tắp. Thấp thoảng đâu đó dáng mẹ liêu xiêu giữa trưa hè bỏng rát, hay con đường đất được phủ đầy rơm rạ thơm nồng, là tiếng cười giòn tan của lũ trẻ nghèo đang nô đùa trên cánh đồng vừa gặt…

Tôi lớn lên bên những cánh đồng quanh năm lộng gió nên ký ức tuổi thơ đẹp đẽ là những ngày theo chân mẹ ra đồng gặt lúa, mò cua hay bắt con tôm, con cá…

Khi cái nắng oi nồng, ngột ngạt của những ngày tháng 5, tháng 6 dội xuống, cũng là lúc cả cánh đồng lúa chín đều, vàng ruộm. Trời chưa sáng hẳn, tiếng í ới gọi nhau vang vọng cả cánh đồng. Những tia nắng đầu ngày cũng đã xuyên thủng mấy tầng mây, đổ lên những tấm lưng gầy ướt đẫm mồ hôi của các bà, các mẹ…

Mùa gặt đến, từng thước phim của một thời xa vắng cứ chầm chậm quay về. Là tiếng cười nói rôm rả sau những ngày lao động vất vả của những người nông dân hiền lành, chất phác. Là niềm phấn khởi của bà con khi mùa vàng bội thu. Là bát nước chè xanh mà họ sẻ chia cho nhau trong giờ giải lao dưới gốc cây gạo giữa đồng…

Mùa gặt về, làng tôi vui như mở hội. Ngày đến, họ cùng nhau ra đồng gặt lúa, đêm về lại đập lúa, giũ rơm. Mùi thơm của lúa mới, mùi rơm rạ vừa gặt xong, mùi trâu bò ngai ngái… hòa quyện vào nhau tạo nên “hương vị quê nhà”. Để rồi, những ai rời làng quê đi xa đã bao lần khắc khoải, chạnh lòng mỗi khi bắt gặp hình ảnh thân quen đó. Còn với lũ trẻ chúng tôi ngày ấy, mùa gặt cũng chính là mùa vui.

Mùa gặt về, lũ trẻ chúng tôi được vùi mình trong rơm, hít hà chút hương đồng gió nội vấn vương đâu đây còn chưa tan vội. Rơm dịu dàng trải tràn từ trong sân nhà ra ngõ. Con đường làng phút chốc đã được dát một lớp áo mới diệu kỳ, óng ả. Bọn trẻ thích thú thả mình lăn tròn trên những đụn rơm để được vỗ về, nâng niu trong cảm giác êm ái, dịu dàng. Trong trí óc bé con của chúng, những đống rơm ấy chính là những cây nấm khổng lồ mà lúc nào chúng cũng có thể vô tư nhào lộn, chơi trốn tìm, làm hang trong ấy rồi ngủ thiếp đi một cách ngon lành.

Đó là những đêm trăng sáng cùng nhau gối đầu lên đống rơm êm dịu, ngắm những đám mây trôi lững lờ, cùng kể cho nhau nghe sự tích về các vì sao… Chỉ những thứ giản đơn như mây trời, sông nước, cỏ cây, rơm vàng trĩu trịt mà với những đứa trẻ của làng đã thấy đủ đầy hạnh phúc, niềm vui…

Có lẽ, lũ trẻ chúng tôi thích mùa gặt bởi còn một nhẽ, là được thưởng thức vị cốm thơm nồng. Trong ký ức năm nào, tiếng chày, tiếng cối của bà, của mẹ lại hiện về, phảng mùi hương lúa nếp cùng những mẻ cốm xanh mượt, nõn nà.

Trong miền ký ức ngày ấy, hình ảnh những ngày bão về đúng vào vụ gặt vẫn luôn thấp thoáng trong tôi. Những giọt mưa cứ nối đuôi nhau rơi không ngớt, những bông lúa trĩu hạt đổ rạp xuống mặt đất, cả cánh đồng trắng xóa nước một màu, những người dân quê tôi lòng lại như lửa đốt… Chẳng biết, tôi đã phải chứng kiến bao nhiêu lần cảnh mẹ cùng bà con chèo thuyền ra đồng nhặt nhạnh những gì còn sót lại sau trận lụt mà lòng lại thấy xót xa.

Mỗi lần về quê đúng mùa gặt, tôi hít lấy một hơi thật dài như muốn nuốt trọn cái không khí ấy, để nhớ về khi mình còn là đứa trẻ của những tháng năm xưa. Hương thơm giản dị, mộc mạc của đồng quê hoà vào trong gió. Mùi của đất đai, ruộng đồng. Mùi của chân chất, nồng nàn. Mùi của yêu thương, tình nghĩa… cứ mãi vấn vương.

Bao dung dị, yên bình là thế! Rồi những đứa trẻ ấy cũng rời làng bước chân vào giảng đường đại học. Chúng bỏ lại sau lưng cả gốc tre, bờ ruộng, cả dòng sông tuổi thơ để được rong ruổi trên những cung đường mới mẻ, mang theo những khát khao, những mơ ước hoài bão của riêng mình. Nhưng rồi, chỉ cần lướt nhẹ qua cánh đồng vào mùa gặt, bất giác nghe mùi thơm nồng của hương lúa, nỗi nhớ nhà, nhớ quê lại trở nên da diết, bâng khuâng…