22 C
Hanoi
Thứ Bảy, Tháng 10 25, 2025

Lững thững… và yêu

C ó những buổi chiều, tôi ngước nhìn...

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...
Trang chủ Blog Trang 21

Chiều qua phố mưa bay

Tôi là Nguyễn Thắm

Thành viên của Tản Văn Hay từ 11 tháng 5, 2021.

C hiều nay qua phố mưa bay, tôi ghé quán cà phê cũ, nhưng người xưa đã rời xa vòng tay. Từng giọt cà phê rơi tí tách hoà với tiếng mưa rả rích, mưa ào trắng xoá, phố phường buồn tênh, trong tôi lại thổn thức những niềm thương.

Tôi còn nhớ như in những ngày đầu đông ở thành phố nay đã thuộc về miền ký ức xưa cũ này. Khi cơn gió heo may lưu luyến là vàng. Tôi và mối tình đầu thơ ngây tay đan trong tay, chân đạp xuống đám lá vàng khô rải khắp phố phường, cùng nhau đi qua góc phố phủ màu rêu phong phảng phất buồn.

Tôi mỉm cười hạnh phúc, gục đầu vào vai anh. Trên ghế đá, dưới tán bàng lá đã nhuộm màu sang đỏ, kể cho anh nghe những ngày khó nhọc: “em đạp chiếc xe thống nhất cũ mèn, chở từng thúng hoa cúc hoạ mi nhỏ xinh đi bán kiếm thêm thu nhập.

Những đồng tiền ít ỏi, quý giá ấy chính là nguồn thu nhập chính giúp em vượt lên sự nghèo khó, tiếp tục theo đuổi ước mơ trên giảng đường đại học. Chính vì thế em yêu cúc hoạ mi, yêu say đắm loài hoa nhỏ xinh ấy, cánh hoa trắng ngần mỏng manh, nhuỵ vàng nhỏ xinh nhưng mang hương thơm ngan ngát của hương đồng cỏ nội, loài hoa nhỏ bé báo hiệu cho mùa đông lạnh giá đang choàng mình nuốt chửng những vấn vương sót lại của mùa thu”.

Vì thế mà mỗi lần đi ngang phố, thấy bóng dáng hao gầy của người mẹ, người chị, người em tảo tần đang rao tiếng rao ngọt ngào mời gọi mọi người mua hoa, tôi lại bất giác nhớ về những ngày khốn khó ấy. Tôi chạy theo để mua một bó cúc hoạ mi. Loài hoa nhỏ xinh mang cả mùa đông tê tái trở về. Khúc giao mùa luyến lưu, da diết, ru hồn tôi trở về những điều xưa cũ. Biết bao ngổn ngang lại ùa về, những ký ức xanh xao, những ngọt ngào thủa thanh xuân bên người.

Ánh mắt ấy, đôi môi ấy, nụ cười ấy, giọng nói lúc trầm lúc bổng ấy cứ văng vẳng trong tâm trí, khiến lòng tôi cồn cào bao nhung nhớ. Nhớ quay quắt hình ảnh hai đứa đang thu mình, co ro dưới mái hiên xa vắng. Cơn mưa đến bất chợt, mưa rả rích không thôi, dễ khiến người ta xích lại gần nhau hơn.

Tôi đưa tay hứng những giọt mưa rơi tí tách từ hiên nhà,cười nói với anh rằng: yêu phụ nữ là phải kiên trì, phải chấp nhận tính cách sáng nắng, chiều mưa, giữa trưa dông bão”. Anh nắm lấy bàn tay tôi rồi mỉm cười: “Anh chẳng sợ mưa dông bão tố, chỉ sợ đường đời một mai thiếu bóng em.” Ôi những ký ức ngọt ngào, nay tan vào làn mưa bay trắng xoá.

Thế rồi tôi và mối tình đầu cũng chia tay vào ngày mùa đông lạnh giá. Trong cái nghèo khó, một người con gái luôn khát khao đến chân trời mới. Tôi đã quyết tâm rời xa nơi này để vào nam lập nghiệp. Tôi đã buông tay anh vì những ngày tất bật, cuồng quay với công việc, giữa bộn về lo toan của cuộc sống. Vì sự vô tâm, vì những khoảng cách không lời, đã vài lần tôi làm tổn thương bằng dòng tin nhắn ngắn ngủi: chúc anh sớm tìm hạnh phúc mới.

Đến một ngày, lướt facebook thấy hình ảnh anh tay trong tay cùng cô dâu tiến vào lễ đường. Lúc ấy trong tôi ngổn ngang những nỗi niềm. Chẳng phải chính mình đã lựa chọn rời xa nơi ấy, chẳng phải mình đã xác định sẽ có ngày này. Nhưng trong tôi vẫn trào dâng nỗi buồn thăm thẳm.

Góc phố sau mưa - tranh màu nước - Huỳnh Trường Giang

Thời gian qua đi không bao giờ trở lại, có ai nói rằng thời gian sẽ là liều thuốc tốt nhất để làm dịu những nỗi buồn, để xoa dịu và chữa lành những vết thương, để những nỗi đau sẽ phai mờ và chôn vùi dưới lớp bụi của thời gian. Thế mà chỉ cần một chút cắt cớ, yêu thương, nhớ nhung lại ùa về, và bất chợt gợi lại những niềm thương.

Đi ngang con phố cũ ngày xưa, tôi bất giác với ý nghĩ buồn cười rằng “có bao giờ đi ngang lối ấy, có phút giây nào đó anh sẽ nhớ về em không nhỉ?”

Rồi bất giác tôi mỉm cười trước sự ngô nghê của một người đã qua tuổi xuân xanh mộng mơ, đang ở độ trưởng thành chín chắn. Đang miên man trong ký ức ngọt ngào, ông chủ quán cũ mời tôi ly cà phê trứng, mở bản nhạc xưa tôi hay yêu cầu và ngồi kể cho tôi nghe về anh:

“Anh kỹ sư ngày ấy của em hay ghé quán anh lắm, có cô vợ giáo viên xinh lắm, cô con gái như nàng tiểu công chúa. À nó hay nhắc về em, kể cho cô vợ nó nghe những kỷ niệm đẹp thời sinh viên nghèo khó giữa em và nó. Thằng ấy tính ra si tình phết”.

Ông chủ nheo mắt nhìn tôi thăm dò. Tôi cười rạng rỡ. Biết anh hạnh phúc bên gia đình nhỏ và vẫn nhớ về tôi như kỷ niệm đẹp. Bất giác tôi thấy lòng mình dịu nhẹ, bình yên. Tôi thầm cảm ơn cuộc sống, có lẽ cuộc đời này đã có sự sắp đặt sẵn. Người ta gặp nhau là cái duyên, đến với nhau là cái nợ. Thấy anh hạnh phúc, lòng tôi cảm thấy vui lây và ấm áp vô ngần.

Những ngày chớm đông

Tôi là Thanh Nga

Thành viên của Tản Văn Hay từ 24 tháng 8, 2020.

T hu lững thững trôi bồng bềnh theo đám mây trắng về phía cuối chân trời. Vài cánh chim chập chờn cùng ánh nắng cuối thu, khẽ đập cánh nơi hoàng hôn ửng trong đôi mắt say mơ của nàng thiếu nữ. Luống cải chưa kịp trổ hoa ngồng bên con sông mùa nước cạn. Đông đến buông ngọn gió ve vãn, thả rơi cái heo may lành lạnh sang. Tự nhiên tôi lại nhớ những ký ức nồng nàn, nhớ ngày gió lạnh hiu hiu thổi.

Có nỗi nhớ không đầu chẳng cuối, nghiêng nhiêng bên mái ngói phủ rêu. Chiều lành lạnh khi tiếng trẻ trò chuyện với nhau thủ thỉ đều đều, cơn gió Bấc từ đâu thổi tới. Mẹ lên đồng cắt thêm cỏ cho đàn lợn nằm phơi. Tôi nhóm bếp nấu nồi cơm, chắt nước khi cơm sôi vừa đủ. Đứa em gái nhỏ uống từng chút nước màu trắng như sữa, một làn gió lành lạnh thổi qua, nguội thìa nước cơm không còn nóng.

Ông vừa đi họp về, gió vương trên vai ông, chiếc áo sơ mi bạc màu khá mỏng, gió Bấc thổi, ông xoa lạnh đôi tay. Vai ông xo xo như khúc giao mùa lách khẽ. Ngày ấy, mẹ tôi còn trẻ, bố tôi vẫn còn sức trai. Bên tường nhà ai, hương hoa sữa cuối thu vẫn phảng mùi nồng thơm nhè nhẹ. Gió mùa về, lòng tôi bỗng rộn ràng khe khẽ, ấm áp cả buổi chiều quê.

Tôi theo mẹ lên chợ Phủ mua chiếc áo mới cho mùa đông về. Chiếc áo cũ mẹ cất trong ngăn tủ, mùa đông nay đã chật rồi. Bởi tôi còn đang độ tuổi theo thời gian lớn lên. Có chiếc áo len, mẹ đan tạm vết xước cho đứa em mặc lại. Vết rách từ mùa đông trước, ngày tôi cùng em gái ra vườn, chiếc gai tre nhọn xé toạc những sợi len. Bên hiên, mẹ quàng cho tôi chiếc khăn thêm ấm cổ, chiếc khăn màu đỏ, bố tặng mẹ một ngày gió lạnh ùa về mùa đông.

Trên đồng, những thửa ruộng còn trơ gốc rạ, từng làn khói xám bay lã chã, gốc rạ đốt thành tro, đất nâu thêm màu tơi xốp. Mấy luống cải mẹ trồng vươn mình lên xanh tốt, mùa đông nào, cải cũng ngồng ra hoa. Chiều chuyển mùa cái nắng vàng hanh xa, những tia nắng hoe hoe xòe quạt. Lũ học trò chúng tôi nhúm nắng, nhảy nhót trong lòng bàn tay. Trên cánh đồng trâu bò gặm cỏ hây hây, những bờ cỏ nhuốm sương chiều bàng bạc. Bọn chúng tôi ngồi quây quần bên nhau trên bãi đất, co ro trong cái rét lạnh căm. Những ống bơ chất đầy lửa than hồng, khói cuộn vòng tròn xoe cay mắt. Chiếc ống bơ quay lắc, cả bọn ngồi cùng nhau ấm đống lửa đỏ tàn, bên câu chuyện ríu ran.

Những ngày đông lạnh bừng nắng chan, tuổi thơ trôi đi êm như gối ngủ, chú dế trũi rúc vào trong cỏ, tay tôi bắt vân vê, chạng vạng nắng chiều quê, vương trên cây bạch đàn khô rụng lá. Có những điều đã từng qua tưởng như còn lơi lả, những ký ức ngày xưa vọng về. Ngày gió Bấc rít từng hồi bên khe cửa, rì rào bên rặng tre, bên đầu hè nhà ai cuộn tung xoay làn bụi. Gió chuyển mùa trút nốt chiếc lá khô, mùa thu cũ chằng níu giữ nổi mình, cây khẳng khiu trong khu vườn lặng thinh, nhưng trẻ con chúng tôi đều rưng rưng tiếng cười chen hạnh phúc. Có đôi lúc tôi tự hỏi, có khi nào thời gian mãi ngừng trôi?

Ảnh: Tran Xuan Thieu

Ngày mùa đông ấy bà vẫn tắm cho chúng tôi lá hạt mùi, ướp trong chiều đông se lạnh. Lá hạt mùi thơm đượm trong màu sóng sánh, chiếc khăn mỏ quạ của bà, hàm răng rưng rức hạt na, bà thả mái tóc như mây vào chậu nước, hương bồ kết thơm lừng pha cùng lá chanh với lá sả. Ông vẫn ngày ngày bận họp hành vội vã, tối về ông cùng tôi ngồi bên bếp lửa, ông kể chuyện chiến khu, ngày ông là bộ đội mũ cối sao vàng, chuyện dào dạt trong từng bước hành quân. Tiếng máy bay đạp gió trên không, những dấu dày mòn in bước chân người lính trên con đường bom rơi đạn nổ, khói bếp bay lên từ ngôi làng cổ, xa xa vọng tiếng chuông chùa.

Thế rồi, mùa đông ngày đó cũng đi qua, cải hết ngồng ra hoa cúi gục ngọn vương màu vàng như nắng. Ông bà tôi cùng nhau đi về miền xa vắng, nơi cơn gió Bấc chẳng còn rít lạnh những mùa đông. Chỉ có những kỷ niệm vẫn tươi nguyên ấm nồng, vẫn reo lên khi chạm vào mùa xưa không tuổi. Mùa đông nào cũng ghé vội, mang bao ký ức ùa về. Có những nỗi nhớ chống chếnh đến tái tê, là khi chẳng thể chạm vào thời gian nơi hằn in vệt lằn ranh quá khứ. Tôi cũng lớn lên theo vết chân chim khắc ủ, những dại khờ tuổi theo mùa trôi đi.

Trên radio chiều nay thời tiết báo cơn gió Bấc sẽ về, mùa thu đã cài then đóng cửa. Mẹ ngồi bên hiên đếm màu thời gian xưa cũ, vạch lại vết xước từ chiếc áo len. Chiếc áo mùa đông xưa, nay đã cũ mèm, trên đầu mẹ mùa đông thay màu tóc. Bố ngồi buồn vệt khói thuốc cuộn mình vào không trung khó nhọc, cất tiếng ho rạc trời chiều. Thời gian bàng bạc trên mái ngói phủ rêu, cái se lạnh nhắc về câu chuyện cũ. Thời gian ấp ủ, những đứa trẻ- chúng là con tôi, chạy chơi bên ông bà như vòng tuần hoàn xoay cuộc đời vần vũ. Một mùa đông nữa lại sang, gió Bấc về se lành lạnh!

Giao mùa

Tôi là Nguyễn Sỹ Đoàn

Thành viên của Tản Văn Hay từ 13 tháng 5, 2020.

N hững ngày tàn thu bao giờ cũng đẹp. Khi vầng trăng liềm trải mầu trắng sữa xuống trần gian, cũng là lúc hơi lạnh vỗ cánh bay vào từng góc phố căn nhà. Mặt sông mờ ảo. Sương đùn lên giăng giăng. Đêm nằm trong nhà chập chờn nghe tiếng cành lá lao xao. Cái gió lạnh đầu mùa rất nhẹ se sẽ thấm vào da thịt, len lỏi tận thẳm sâu tâm hồn. Khiến người ta tự nhiên muốn xích lại gần nhau, tự nhiên thèm khát yêu đương.

Mùa thu đã đẹp. Nhưng đẹp hơn vẫn là những ngày giao mùa. Ngày thu sắp hết, ngày đông chưa tới. Hai mùa thu – đông tiễn biệt nhau bên bờ sông trắng cỏ bạc đầu. Không gian ấp ủ nét đẹp dịu ngọt. Bâng khuâng. Cái nắng những ngày này vàng như hổ phách . Hanh hao mang mang, hồng hồng phơn phót như thoa nhẹ lên má, lên môi, lên cái cổ kiêu ba ngấn của người con gái. Đất trời đang chuyển. Đẹp như đôi mắt một cô gái đa tình, mơ mộng.

Thời khắc vẫn ngần ấy thôi mà sao thấy ngắn vậy. Chưa làm được gì đã sập tối. Cỏ cây trong vườn bắt đầu rụng lá. Bên cạnh những chiếc lá vàng lác đác rơi là phần còn lại xanh thẫm hơn. Dường như cây đang cố thu nạp chút năng lượng cuối cùng của đất trời, để đủ sức chống chọi với mùa đông lạnh giá.

Và hoa sữa bắt đầu nở rộ một miền trắng bung biêng. Từng chùm hoa rủ xuống phủ kín ngọn cây. Hương bay thoang thoảng. Càng về khuya hương càng nồng nàn da diết. Một loài hoa có mùi hương cám dỗ đến kiệt cùng. Nó đến cả trong giấc mơ. Hoa như vắt kiệt tất cả sức lực của mình đi tìm người bạn tình tri kỷ. Hương hoa sữa rơi phủ trên đầu, trên vai người đi bên dưới. Hương phủ kín luôn cả đường đi lối lại.

Mẹ tôi bảo: “Ngói về, én đi. Mùa đông đã tới”. Hồi nhỏ tôi không biết vì sao cứ tới vụ gặt mùa chim ngói lại về. Chúng ở với người chỉ non tháng thôi. Xong vụ gặt lại đi. Sau này học lên, tôi mới biết đó là loài chim di trú. Chúng từ phương bắc bay về. Mùa rét chúng bay về phương nam tìm nơi ấm áp. Hết mùa đông chúng lại trở về nơi xuất phát.

Ảnh: Tuan Ngo

Ngày ấy tôi đã biết gì đâu. Toàn theo chân cha, theo chân anh đi bẫy chim ngói. Chim ngói bay kín góc trời. Không cần máy móc hiện đại. Không cần cầu kỳ tinh xảo. Cũng chẳng cần công thức toán học cao siêu. Một tấm lưới con con. Một nắm thóc mới. Vài con chim mồi. Thế là đủ. Chim ngói bay trên trời, thấy đồng loại dưới đất nhảy tưng tưng tưởng bầy đang mổ thóc. Sà xuống. Bẫy sập. Ít thì được vài con. Nhiều thì cả chục.

Chim ngói không thuộc về loài chim đẹp, không biết hót. Thân nhỏ hơn bồ câu, lông mầu nâu sẫm, điểm chấm đen, đuôi ngắn hoặc cụt. Lớn lên một chút, theo cách bày của người lớn, cũng hì hụi học cách làm bẫy. Nhưng bàn tay vụng về của những đứa trẻ lên chín, lên mười làm sao lừa được đôi mắt tinh tường và đôi chân dè dặt của lũ chim. Hết đàn này tới đàn khác. Đến rồi đi. Rất ít khi dính bẫy.

Chim ngói bắt được mang về làm thịt. Nấu một chõ xôi gạo nếp cái hoa vàng. Úp vài con chim ngói lên trên. Đun chín. Không biết có phải ngày đó vì đói khổ không. Hay bởi tiết trời hiu hiu, mang mang của những ngày giao mùa thu – đông mà ăn thấy ngon dội lên. Đến giờ vẫn còn cảm giác như hương vị quanh đây. Những gia đình khá giả quê tôi sau vụ gặt thường sửa một cái lễ gạo mới chim ngói tạ ơn trời đất, tạ ơn tổ tiên phù hộ cho lúa khoai đầy nhà, mọi người khỏe mạnh.

Nhớ như thế là nhớ tất cả. Không quên một li lai nào hết. Trong cái gờn gợn của gió, cái hanh hao của nắng, tôi nhớ hồi cha mẹ còn song toàn. Ngày trời nắng, mẹ tôi lôi ra áo quần chống rét từ năm ngoái. Bà giặt rũ cẩn thận. Phơi khô. Chập tối sau bữa cơm, bố tôi ngồi chiêu ngụm nước chè hái từ vườn nhà. Gia đình quây quần trò chuyện. Quên luôn cả lo âu công nợ. Những lúc ấy mẹ tôi lần từng cái áo, cái quần, kiểm tra từng cái khuy, đường chỉ. “Sắp rét rồi”. Mẹ tôi thầm thì như chỉ nói cho mình nghe. Nửa như than thở, nửa như câu hỏi.

Người ở phố đâu biết rằng, chính vào lúc giao mùa này, người dân quê vất vả vô cùng. Vụ mầu liền kề đang phả hơi nóng vào lưng. Không kịp thở. Nhiều đêm “canh ba chưa nằm, canh năm đã dậy”. Lúa sắp gặt, các loài chim, châu chấu, sâu bệnh phá hoại. Thiên tai rình rập. Lo lắng đến mất ăn mất ngủ. Sợ mưa nguồn chớp bể. Sợ lũ lụt trắng đồng. Sợ vầng trăng tán, sợ ráng mỡ trời. Nếu có bề nào thì bao nhiêu công sức trôi tuột ra sông.

Những ngày giao mùa cũng lạ lắm. Đang nắng hanh hao, mây bỗng chuyển mầu vần vũ. Thế là rào rào mưa. Mưa nhanh. Hết mưa lại nắng. Nắng rồi lại mưa. Người xưa gọi đó là mưa bóng mây, hay mưa gọi rươi. Mưa mùa này không độc. Chỉ khổ người nông dân tranh thủ phơi thóc cứ phải hót vào, đổ ra liên tục. Chỉ sang tháng thôi, khi ngày giao mùa đã hết, mùa đông tới, trời lại đổ mưa. Tuy vậy, cái mưa đầu đông cũng có cái hay cái tốt. Cây cối tỉnh lại. Lá xanh hơn, thẫm hơn.

Cái dịu dàng thanh thoát của thời gian giao mùa bao giờ cũng khiến lòng người nhẹ nhõm, dịu đằm. Để vượt qua những nóng nảy, giận hờn thường nhật, tránh đi những lỗi lầm sai trái. Để nuôi dưỡng tâm hồn ta bằng tình yêu của mẹ, bằng nghị lực của cha.

Một kỷ niệm buồn

Tôi là Trịnh Thu Tuyết

Chuyên gia của Tản Văn Hay từ 30 tháng 12, 2020.

C àng nhiều tuổi, con người càng hay quên cái hiện tại và càng nhớ quá khứ… Hình như đó là cách để giảm tốc dần con tàu đã chạy mấy chục năm, tới lúc chậm dần, trước khi dừng lại! Và kí ức chính là những hành trang con người muốn mang theo, trước hết là muốn nhớ, như để đối sánh và chiêm nghiệm, như để dọn mình, thật nhẹ, thật lành…!

Ví như trong những ngày này của tháng 11, tôi hay nhớ tới những kỉ niệm về thầy, về trò, về những con người đã tới và đi qua cuộc đời tôi, có khi vô tăm tích, có khi vẫn đâu đó trong tiềm thức, thảng hoặc xuất hiện, như tăm cá mơ hồ trên sóng…

Và tôi hay nhớ về thầy, người thầy tôi từng quý trọng, từng thất vọng, và từng quên… Thầy là giáo viên chủ nhiệm, đồng thời dạy văn lớp tôi ngày ấy. Thật ra, tôi không có ấn tượng nhiều lắm về những giờ văn của thầy, ngoại trừ cảm giác đều đều diễn ra trong các tiết học. Tôi nhớ có lần chuẩn bị học bài thơ Thề non nước của Tản Đà, tôi soạn bài với tâm thế xúc động, háo hức vô cùng để chờ nghe thầy giảng – hình tượng “non” và “nước” quấn quít, đan xen, những từ ngữ trùng điệp tha thiết, yêu thương, sự mỏi mòn, khắc khoải của chờ đợi, cái lãng tử nhẹ nhõm tới vô tâm của hẹn thề, những tầng nghĩa miên man…, tôi đọc, viết, trả lời các câu hỏi, và chờ đón…, để rồi giờ học tới và qua, nhẹ như gió thoảng! Sau lần ấy, tôi không còn tâm thế hồi hộp nữa, dù vẫn dành sự quý mến cho thầy chủ nhiệm, có lẽ do thầy rất yêu quý cô học trò gầy guộc, lòng khòng, xấu xí, nhưng rất hay phát biểu trong các giờ văn của thầy.

Một thời gian sau, thầy phải từ biệt lớp chủ nhiệm, đi công tác biệt phái trong miền Nam, tôi thực sự rất buồn và nhớ thầy. Và tôi đã xúc động phát khóc khi một lần văn phòng nhà trường báo lên nhận thư, tôi không tin nổi khi đó chính là lá thư thầy gửi cho tôi từ ngôi trường xa xôi trong đó. Tôi đọc thuộc lòng từng câu, từng đoạn, khoe cả với mấy đứa cùng lớp, và cất giữ như vật báu.

Đến giờ, khi tự cắt nghĩa cái nghịch lý trẻ thơ ấy, tôi hiểu: có lẽ, do tôi quá yêu những tác phẩm trong chương trình năm đó, nên dù nhiều giờ giảng văn không như mong đợi, nhưng sự quý mến của thầy với cô học trò cưng (như mấy đứa bạn cùng lớp hay trêu) khiến tôi chấp nhận tự tìm sự giải đáp hoặc cảm thụ tác phẩm theo những cách khác – có phải vì khi con người yêu dòng sông và sóng nước thì họ vẫn luôn trân quý người lái đò đưa họ tới với dòng sông, dù không phải tay chèo nào cũng thuần thục.
Sau thời gian công tác biệt phái, thầy trở ra Bắc, nhưng không đứng lớp nữa mà làm công tác quản lý, khi các cấp quản lý của thầy tăng cao dần, thầy cũng xa dần với lớp chủ nhiệm cũ, xa cô học trò cưng ngày xưa, và xa cả với tình cảm thuần hậu của chính thầy, một thời – phải chăng đó cũng là một nét nghĩa của từ ghép “cao – xa”?

Trường xưa - sơn dầu của Nguyễn Lê Anh

Mấy chục năm trôi qua, chúng tôi trưởng thành, mỗi đứa có một cuộc sống riêng, đôi khi tụ tập vẫn hỏi nhau về thầy, và đứa nào cũng buồn vì theo thời gian và chức vụ, thầy đã hoàn toàn thay đổi, không còn mảy may hình ảnh ông giáo văn mảnh khảnh, hiền hậu ngày xưa nữa. Hi hữu gặp thầy trong một vài lần họp lớp, tôi buồn khi chỉ nhìn thấy một vị quan chức bệ vệ, mặt đỏ và giọng lạc vì bia rượu, viên mãn và thỏa mãn! Chào thầy mà tôi cứ nhớ tiếc vô cùng hình ảnh thầy chủ nhiệm của tôi ngày trước, giá thầy chỉ đứng lớp, dù nhiều bài giảng của thầy chưa tới được với kì vọng của trò, văn chương vẫn có thể neo giữ thầy ở bờ bên này, lành, sạch trong kí ức của tôi.

Rồi mấy chục năm nữa lại trôi qua, những đứa trẻ ngày xưa đã già, chúng tôi lại gặp thầy trong một dịp Hội trường. Không còn là “cao xa” như ngày nào, bây giờ giữa thầy và những đứa học trò tóc bạc chỉ còn là sự là “xa cách”! Thầy già nua, cô đơn, ngồi lặng lẽ ở bàn giáo viên, hầu như không nhìn lại phía lớp cũ. Tôi nhìn thầy từ xa, thấm thía buồn, cứ day dứt không yên giữa sự ngại ngùng khi tiếp chuyện và cảm giác bất nhẫn nếu cứ để thầy xa cách như thế. Chia sẻ cảm giác ấy với một người bạn, nhận được tin nhắn trả lời: Hội trường là để gặp lại, đâu phải để cách xa? Và sau khi các bạn đồng ý, cô học trò cưng của thầy ngày xưa là tôi quả quyết đứng lên, tiến lại phía bàn các thầy. Khỏi nói thầy vui như thế nào khi nhìn thấy tôi, chào hỏi, chuyện trò, và sau đó tôi xin phép các thầy cô cho tôi được mời “Thầy chủ nhiệm của chúng em” về với lớp!

Thầy xúc động, lúng túng, hơi ngượng ngập khi trò chuyện với chúng tôi, ít phút sau, cảm giác gượng gạo giữa thầy giáo và học trò tan dần, chúng tôi gần như quên hết những kí ức buồn, gần như trở lại với lớp D ngày xưa, bên thầy giáo chủ nhiệm. Hóa ra thầy vẫn chưa hề quên chúng tôi và những kỉ niệm ngày ấy, thầy cũng chưa hề quên cô học trò nhỏ bé gầy gò của thầy ngày xưa, nay là một bà giáo về hưu tóc bạc – vậy mà, thiếu chút nữa, chúng tôi đã để thầy ngồi đấy, cô độc với kí ức của thầy. Nghe thầy nhắc lại những kỉ niệm, cảm giác vừa hạnh phúc, vừa xót xa, ân hận cứ tràn ngập trong lòng tôi. Và bây gờ nhớ lại, tôi vẫn hài lòng vì mình đã làm đúng khi đứng lên, tiến về phía thầy…

Xét cho cùng, cuộc đời con người có mấy ai tránh được những đổi thay, dù theo hướng nào, nhưng khi đã gặp nhau trong một đoạn đời nào đó, ấy là có duyên giữa bát ngát thiên địa rộng dài vô biên vô tận – và đã có duyên, sao nỡ để thành vô tăm tích khi có thể hạnh ngộ, dẫu hi hữu.
Và tôi chợt nghĩ, tôi đã khiến bao nhiêu trò thất vọng và rời xa trong cuộc đời làm nghề rất khó tránh những sai lầm, khiếm khuyết, những vô tâm vô tình?

Có một màu yêu trên cát biển xôn xao

Tôi là Thùy Vinh

Quản trị Tản Văn Hay từ ngày 31 tháng 8, 2019.

P hải rồi, những mơ mộng viển vông, những chờ mong thấp thỏm… đều đang bay cùng một trái tim đang yêu! Như muống biển – là màu yêu trên cát xôn xao.

Loài cây ấy, hoa đã tím đến tận cùng mong mỏi, lá đã xanh đến cùng tận ước ao. Lan trên triền cát bỏng những tháng mùa hè gắt nắng và gió Lào thiêu đốt, một dải biển Quỳnh, từ Quỳnh Thọ, Quỳnh Bảng, Quỳnh Phương… của huyện Quỳnh Lưu, mà xanh, mà tím.

Cái loài hoa đến lạ, mọc được trên cát mặn. Người con trai ấy bảo với tôi rằng, hạt hoa đến từ những dòng nước biển xô dạt. Hạt tự vùi mình trên cát, để đợi tháng Năm – tháng bắt đầu gắt nắng – dâng tặng con người ta một món quà bất ngờ. Vậy thì có điều chi khiến tôi còn nghi ngờ ở những màu nhiệm của tự nhiên, nghi ngờ ở những màu nhiệm của cuộc sống vốn có bao nhiêu thử thách và gian khó?

Người ta đã vì yêu hoa, vì biết ơn sự màu nhiệm ấy, mà sáng tạo cho hoa một câu chuyện tình diễm lệ. Có một chàng trai tên Biển, yêu cô gái tên Muống. Để có đủ sính lễ cưới được người con gái mình yêu, chàng trai đã đi tìm luồng cá trong một ngày giông bão. Để rồi, chàng đã mãi mãi không về sau một con sóng dữ cuốn chàng ra với thăm thẳm đại dương. Cô gái ngồi trên bờ biển đợi người yêu trở về, mòn mỏi sau những con sóng trắng, để rồi cô cùng gục xuống với nỗi buồn đau, hóa thân làm loài cây, thân mềm mại như muốn vươn chạm xuống mép sóng, và hoa nở bừng một niềm mong mỏi, nhớ nhung…

Chuyện tình cổ tích nào mà chẳng được khoác lên vẻ đẹp đến khắc khoải? Nhưng, có đứng chân trên cát, có sống cuộc sống, dẫu chỉ một ngày với ngư dân, mới biết có bao nhiêu câu chuyện đời, đã nở trên cát, đẹp đẽ hơn, dữ dội hơn, khốc liệt hơn cả huyền thoại…

Ám ảnh trong tôi là câu chuyện về những người đàn bà làng chài nhỏ Thành Công bên biển Quỳnh Long. Những người từ thuở nhỏ đã theo chân mẹ ra biển đón cha về hàng đêm, rồi lớn lên lại ra bãi cát đón chồng. Có người đàn bà đã chứng kiến mẹ mình chạy dọc theo bãi biển gào khóc gọi tên cha, rồi đến lượt mình lại chạy cùng vành khăn trắng gào gọi tên chồng. Những bước chân bấm vào cát. Những tiếng gọi chỉ có sóng trắng đáp lời… Thế mà họ vẫn gạt nước mắt đứng lên, vẫn tin ở biển. Biển cả dữ dằn và tai ương, nhưng cũng đầy phóng khoáng rộng lượng. Để rồi, hàng đêm, những người đàn bà làng biển ấy, lại đứng trên cát với ngọn đèn cháy trên tay chờ đón người đàn ông của gia đình họ trở về trong hơi thở phập phồng vị mặn.

Những người đàn bà hát ru con, hát ru thân phận mình, rằng: “Lấy chồng nghề biển hồn treo cột buồm”, thế nhưng vì đã yêu, vì đã thuộc về biển, thì làm sao họ có thể chối từ? Cũng như người con trai ấy, đã nói với tôi rằng: Loài muống biển nhìn mong manh thế, nhưng lại mạnh mẽ đến vô cùng. Điều gì, nếu không phải vì yêu, có thể giúp nó có được sự mạnh mẽ đến khôn cùng ấy?

Phải rồi, hoa muống cũng như những người đàn bà “lấy chồng nghề biển” quê anh, đã lựa chọn cát mặn, đã lựa chọn gió Lào, là nương trên những nhọc nhằn, mặn chát ấy mà sinh sôi, mà kiêu hãnh bung nở. Tin rằng sau con sóng kia, người đàn ông mà họ yêu thương sẽ trở về.

Những đóa hoa giản dị, khiêm nhường. Đến sắc màu cũng chỉ muốn làm dịu mát ánh mắt ai đó chạm vào. Nhưng lại cháy bỏng, bền bỉ, chung thủy một niềm tin. Hoa đã dạy tôi bao điều mà nếu không yêu thương, sao tôi có thể hiểu?

Và tôi, những ngày này, lại tìm về trên những trảng cát quê hương. Những trảng cát đã quen thuộc với từng ngư dân, sao sáng nay bỗng lạ. Chỉ bởi, màu trắng cát, sáng nay bỗng tím rực sắc hoa. Bước chân người đi biển chừng như cũng chậm lại, sợ giẫm lên những đóa mỏng rung rinh. Có cô gái nào đi lang thang trên bãi biển ban mai, nhặt một dây hoa, cài lên thành một chiếc vương miện trên mái tóc. Cô gái ơi, có phải cô đang mơ giấc mơ thơ ấu? Hay cô đang hát bài ca của hiện tại này? Có hoàng tử nào sẽ rẽ ngọn sóng trắng cập bến bờ này cùng những cánh buồm thắm đỏ?
Phải rồi, những mơ mộng viển vông, những chờ mong thấp thỏm…đều đang bay cùng một trái tim đang yêu! Như muống biển – là màu yêu trên cát xôn xao.

Nội ơi

Tôi là Bùi Duy Phong

Quản trị viên Tản Văn Hay từ 20/10/2022.

V iết những dòng này khi bà tôi đã là người thiên cổ. Chiều đầu đông đang rả rích những cơn mưa dầm, ướt át và se lạnh làm cho tôi chợt nhớ sắp đến ngày giỗ bà rồi. Bà xa anh em chúng tôi trong một chiều đông nên cứ thấy tiết trời như thế này, những đứa cháu lại nhớ bà mình.

Người đã về miền mây trắng tự bao giờ nhưng sợi dây ký ức cứ còn quyến luyến mãi nơi thế gian làm ray rứt lòng người ở lại. Tôi leo lên góc vườn tĩnh lặng trên cao ngó khoảng trời xám xịt bao la ngút ngàn tận trên xa kia mà thả nỗi nhớ bà tan ra hòa cùng gió mưa. Cái khoảng không vời vợi có thể làm ta tìm được chút thanh thản lắng đọng, giúp mình giải nén bao cảm xúc mỗi khi nỗi nhớ bao người xưa cũ tìm về.

Bóng bà cứ lòa nhòa giữa tầng mây, giữa những màn mưa tuôn ràn rạt nước. Vẫn nụ cười với hàm răng đen tuyền ấy, vẫn chiếc khăn xéo trên mái đầu bạc trắng mà ngàn trùng xa cách. Nhớ bà giờ cháu chỉ còn biết thốt lên hai tiếng … bà ơi!

Chúng tôi bắt đầu lớn lên trong tiếng ru hời của bà. Từ thuở lọt lòng ấu thơ, tôi đã cảm nhận được những âm thanh ấy. Những âm thanh êm dịu từ lời ru của bà theo tôi cho đến tận bây giờ và có lẽ trong suốt cuộc đời này. Giọng bà ngọt lịm như những khúc hát ru trên cánh võng kẽo cà kẽo kẹt. Những câu hát như thôi miên đưa cháu mình vào giấc ngủ. Tiếng bà dặt dìu trong xao xác nắng trưa của những ngày hè, hòa vào âm thanh của nhịp mưa rơi lộp bộp trên những tàu lá chuối đầu hè nhà trong những ngày rét mướt.

Bà đi xa đã bao mùa đông rồi nhưng câu hát bà ru năm xưa vẫn còn vọng lại và cứ mỗi lần nghe ai đó đẩy đưa đôi câu, tôi lại nhớ bà. Nỗi nhớ như nằm đâu đó trong những tiếng à ơi, ru hời mà có dịp lại chực trào, thổn thức. Đời bà và khúc hát ru cứ song hành cho đến lúc dòng máu nóng kia ngừng chảy. Bao tâm hồn con trẻ được tưới tắm những âm điệu ngọt ngào ấy. Những ấp ôm từ vồng ngực hao gầy và từ hơi thở ấm nồng mùi trầu của bà để cho đàn cháu lớn khôn. Bà nở nụ cười hạnh phúc khi chúng tôi xa dần vòng tay già nua mà bay xa khắp nẻo. Hành trang chúng tôi mang theo có những khúc hát ru quấn quýt trái tim mình.

Nhớ bà nhớ miếng trầu hôi, miếng cau bà bổ chút vôi bà dùng. Chẳng biết bà ăn trầu tự bao giờ mà chỉ biết khi chúng tôi có mặt trên đời đã thấy răng bà đen nhánh. Mùi cay nồng của nó cháu bà cảm nhận qua làn hơi thở lúc được ẵm bồng khi còn bé, lúc trở về sà vào lòng bà để cảm nhận những ngón tay chỉ còn da bọc lấy xương đan vào mái tóc cháu đã điểm bạc. Mùi nồng của trầu, mùi chát của cau, mùi cay cay của vôi hòa quyện vào nhau tạo nên một thứ hương đặc trưng mà chúng tôi gọi là mùi của bà. Bà đi đâu cũng mang theo thứ mùi nhung nhớ ấy để giờ thi thoảng tôi ra vườn xưa nơi dây trầu bà trồng còn sót lại ngắt một vài lá để hít hà mà nghe mắt mình cay cay một nỗi.

Nhớ khi đã về già, bà ngồi nơi hiên nhà miệng nhai trầu bỏm bẻm trông đám cháu giờ đã định cư xa tự phương trời nào mà bà chẳng hề biết được. Đôi mắt đã mờ và thính giác cũng không còn nguyên vẹn để cảm nhận những đổi thay của đất trời nhưng chỉ nghe giọng nói thì thầm bên tai bà đã cười thật tươi mà xướng tên từng đứa cháu. Năm tháng dần trôi, những người ăn trầu như bà tôi ngày một ít lại khi những bạn trầu của bà cứ lần lần rời xa thế giới phồn thực này. Ở cái xóm nhỏ ấy, bà là người ăn trầu cuối cùng. Những năm cuối đời, bà không còn ăn nhiều như xưa vì lúc này không còn răng nữa mà chỉ nhai trầu theo thói quen. Dây trầu xanh quấn quanh những thân cau như cũng buồn theo khi không còn thấy bóng bà cụ đầu đội khăn xéo, túi bọc bị đựng trầu hàng ngày vẫn thường xuyên chăm cây, tỉa lá nên cũng dần hồi héo úa chết mòn. Hàng cau một thời đơm trái cho bà tôi ăn trầu vẫn còn đứng lặng lẽ nơi vườn xưa. Những tàu lá ủ rũ lung lay trong gió chiều quê như nhớ người bạn già một thuở. Buồng quả cũng úa vàng rồi khô rụng vì đã bao mùa rồi chẳng còn bà sai cháu hái cau.

Bà đi xa bỏ lại gian bếp vắng vì mỗi sáng thức dậy không còn ai vào nhóm lửa đun ấm nước chè. Thứ thức uống gắn liền với đời bà giờ chỉ còn trong ký ức. Bà đun nước bằng chiếc ấm ám mùi khói củi, thứ mùi “nhà quê” mà căn bếp hiện đại của chúng ta không có được. Chiếc mo cau bà cắt chằm làm ly rất khéo sóng sánh thứ nước màu vàng óng sực nức mùi thơm của lá dứa với gừng. Ngày xưa mỗi khi về thăm, tôi thấy bà tất tả ra sau đồi cắt những đọt chè xanh về nấu cho cháu uống vì bà nghĩ các cháu cũng nghiện nước chè như bà vậy. Vườn chè bà trồng trên ngọn đồi nhỏ sau nhà vẫn còn xanh mơn mởn, mùa này từng cánh lá lại hứng những sợi mưa mềm mại để tích tụ bao tinh túy của đất trời mà xuân sang bung ra những lộc biếc. Tôi đứng bên những gốc chè mà nghe gió lướt thênh thang, mà nghe như tiếng bà gọi tôi văng vẳng đâu đó vọng lại.

Chiếc ấm cũ nhớ những đọt chè xanh buồn treo nơi góc bếp khi bóng bà đã khuất xa. Với tôi, nước chè xanh không chỉ là thức uống mà là hương vị quê nhà, là ký ức nằm đâu đó trong lòng mình để mỗi khi nghe mùi thơm của nó, tôi lại rưng rưng nhớ bà nội của mình.

Trời đang rã rích những cơn mưa mùa đông, dầm dề, rét buốt. Khói bếp nhà ai len lỏi yếu ớt qua những khóm cây trong vườn làm cho ký ức tuổi thơ tôi cứ dội về. Đã lâu lắm rồi tôi mới bắt gặp cái không khí và hình ảnh như thế này vì bây giờ người ta nấu bằng gas, bằng điện và giữa phố xá đông người làm gì có khói. Khói bếp, chiều đông, trời lạnh, chút không khí làm cho những người tha hương lại da diết nhớ quê. Tôi nhớ bếp lửa bà nhóm lên đỏ rực để nướng những con cá mà anh em tôi bắt được vào mùa lũ. Xòe đôi bàn tay móp méo vì lạnh tìm hơi ấm nghe mùi cá nướng thơm lừng làm bụng ta cứ réo ùng ục. Nhớ nồi cá kho rim cay xè làm vị giác của ta phải lên tiếng. Nhớ món bánh bà làm có đám cháu ngồi chầu chực vây quanh. Bao nỗi nhớ cứ chen chúc cuộn trào. Tôi ngồi mà nghe những vương vấn miên man trong chiều đầu đông giá buốt, thả nỗi nhớ nội mình cho những đám mây trên cao mang đi về với bà ở một miền xa lắc lơ nào đó .

Thời gian cứ dần trôi. Các cháu của bà đã trưởng thành tứ tản khắp nơi. Ngôi nhà đầy ắp tiếng cười năm xưa giờ vắng lặng. Những hôm về thăm nhà cháu lại ngẩn ngơ nhìn hàng cau, luống chè mà cứ ngỡ như bà còn đâu đó. Bà ra đi rời miền tục lụy vì vòng sanh-lão-bệnh- tử không ai tránh được để giờ về lại căn nhà xưa nhìn di ảnh nhớ bà nước mắt cháu lưng tròng.

Đông về lại nhớ rét quê

moc-nhien

Tôi là Mộc Nhiên

Thành viên của Tản Văn Hay từ 9 tháng 4, 2021.

R ét lại về trong heo may, mưa phùn và gió bấc. Rét đuổi theo ngày, rét bắt cả đêm. Trời trăng trắng, dần sạm thêm. Bao chênh vênh, nỗi nhớ rền. Có gì như xoắn bện la đà. Có gì như thấp thỏm vương say. Tôi hứng rét bên tay. Nhưng chẳng rõ vơi đầy. Rét quê xưa lại tìm về. Miên man nặng trĩu. Đôi luồng hối hả, rét quấn vào nhau, lạnh nồng, ấm khởi. Trời đan nghìn sợi. Nỗi nhớ mùa pha. Rét thuở quê nhà. Ai từng cóng đợi…

Cái rét ở quê không ồn ào. Nó từ từ đến độ bình tĩnh thản nhiên. Khi lũ trẻ vẫn cười nói bung biêng phong phanh quần áo. Những đôi má, đôi môi nứt nẻ khô giòn rớm cả màu máu con con mà vẫn tươi tắn hân hoan mải chơi khi về nhà mới nhận ra trời đang rét. Tiếng rao của vợ chồng người bật chăn bông chở đi khắp xóm. Nhà bật chăn năm cân, nhà thì bảy cân. Chiếc chăn bông mới bật trắng phau chắc nịch được bố mẹ tôi lồng vào chiếc vỏ nhung đỏ rực in hình hoa cúc, con công duyên dáng. Cứ thế mà ấm êm cho tôi ngủ xuyên đêm quên cả bao lần trời vời vợi sáng. Có những ngày, quê rét đến độ thấu thịt thấu xương.

Sương mù giăng kín cả bình minh lẫn chiều tà. Nương bãi ruộng vườn hanh khan rộp rời uể oải. Trận mưa phùn đi qua ghé lại, lá hẩy lá rung cành. Gió vờn xoáy chậm nhanh. Rét mài trơn cán cuốc. Bố quần quật từng thước. Đòn gánh mẹ bưng ròng. Việc nhà nông nào xong. Rét đến cáy còng. Quê tôi vẫn tảo tần giữa bốn bề đầy rét.

Rét nhuộm ngõ về, rét phủ bờ ao. Những bụi cỏ gianh chạm nhau vào bật lên thanh âm bằng gió cứa. Bè rau muống điểm hoa. Mấy quả cà chua xanh vàng chín ửng. Cải ngồng lững thững, nở vàng nhành hoa. Gà con lân la, rúc trèo cánh mẹ.

Chao ôi là thú vị. Cái rét làm tay tôi cứng quèo nguệch ngoạc bên sách vở. Cái rét cũng làm cho tôi được ấm áp bên bếp lửa cháy đượm than hồng. Rét về cơm nóng mỏi mong. Nồi cá rô đồng kho tương đậm bùi, thơm ngọt. Bát canh hôi hổi chan lẫn tiếng cười. Nhà luôn đủ người bên nhau quần tụ. Rét có là chi, rét có sá gì. Quê tôi quanh năm miền bắc. Quanh năm xen mùa rét. Nếu rét không về, đất trời lòng người quay quắt lê thê. Tự bao giờ rét chẳng còn là quy luật của tự nhiên mà còn là sự tuần hoàn khắc khoải trong lòng mỗi người như thế.

Người ta thường sợ rét, lo rét nhưng chưa từng ác cảm, xa rời hay xoá bỏ lãng quên. Cây cối vạn vật có thể đâm chồi nảy lộc sinh sôi vào mùa xuân, nhộn nhịp phương trưởng bên mùa hạ. Thổn thức, nồng nàn vào mùa thu thì mùa đông sẽ là cơ hội cho tất cả rèn giũa, nghỉ ngơi, trau chuốt tuyệt vời. Giữa lạnh mùa khắc nghiệt. Bản năng chống chọi, ý chí kiên cường hay cả khát vọng sống mãnh liệt yêu thương.. tất cả sẽ được thay da đổi thịt. Mùa rét, mùa đông đâu đó nghiêm khắc lạnh lùng như người đàn ông trung niên mà thẳm sâu bên trong đầy ấm áp. Rét chẳng tự nhiên sinh ra và cũng chẳng tự nhiên mà mất hẳn. Rét vẫn hẹn ta theo vòng quay bốn mùa không hề lỗi nhịp. Rét nơi nào mà chẳng ít nhiều giống với nhau. Chỉ là những mùa rét trước, tuổi thơ đã qua mau. Mùa rét sau ai rồi cũng lớn. Ai rồi cũng phải xa quê, nghẹn ngào nỗi niềm thương thương nhớ nhớ. Nỗi nhớ ấy, rét nào đông cứng lại như tuyết như sương mà tan chảy vấn vương suốt chặng đường quê ngày ấy.

Mùa rét nữa lại tràn về. Ai loang lòng một nỗi nhớ quê. Ngoài kia nhộn nhịp. Ấm áp trong phòng. Tôi cuộn mình vào chiếc chăn lông đủ xua đi cái giá lạnh. Vậy mà lòng tôi hay lòng của bao người lại gieo neo niềm thiếu thốn. Thiếu đi những cảm giác nồng nàn của vị rét quê xưa. Tôi tìm bếp củi, tôi ước than hồng, lửa ơi được không. Trộm thèm rồi ngơ ngác…Đâu còn rét của ngày quê, gió bấc mưa phùn tái tê. Nơi cha mẹ vẫn chờ ngóng các con về. Con nhớ quê giữa mùa đang ngập rét.

Minh họa: Lê Hương

Mùa gió lạnh

hoang-lan

Tôi là Hoàng Lan

Thành viên của Tản Văn Hay.

M

ùa đông rồi cũng trở về như một lời hẹn. Phố bàng bạc trong sương, phố ngập tràn gió bấc. Những cây bàng mới hôm qua lá vàng suộm nay đã ào ạt đỏ để rồi nhẹ nhàng rơi về cội. Mùa đông Hà Nội phải cảm nhận trong từng giác quan, phải nghe… phải nếm…. phải thao thức trong từng nhịp đập của thời gian.

“ Hà Nội của tôi những mùa Đông yêu dấu.
Mùa bao nhiêu kí ức cho mình nhớ thương..”

Đâu đó trong một ngõ hẹp nằm nghiêng nghiêng nhuốm màu thời gian, lời ca da diết vọng ngân…. Tháng Chạp năm nào đó của một mùa đông rất xa, hoa sữa thơm dài con phố nhỏ. Lần đầu tiên trong đời, trái tim tôi rung lên từng nhịp khi bắt gặp cái nhìn chan chứa từ anh.

Tôi biết mùa đông sẽ không còn lạnh lẽo bởi cái nắm tay thật chặt, bởi hơi ấm từ chiếc khăn len anh quàng lên cổ cho tôi. Hoa sữa căng tròn vòng ngực, hương thơm như gửi lên từng ngôi sao xanh biếc.Tiếng dương cầm chơi trên một gác hai nào đó bên hồ Thuyền Quang thả từng giọt âm thanh trong gió. Tôi khe khẽ reo: ” Xô- nát ánh trăng!” Mùa đông năm ấy, mùa đông của tuổi thanh xuân tôi vừa tròn 19 tuổi. Hoa sữa trong gió lạnh nhắc tôi nhớ về mối tình đầu trong trẻo, vụng dại và vô cùng trong sáng. Nhớ đấy mà đã xa. Nhớ đấy mà không còn gặp lại. Vẫn biết mùa hoa là hữu hạn nhưng hương hoa sữa là vô hạn trong trí nhớ của tôi mỗi khi gió heo may tràn về trên phố.

Mùa đông Hà Nội rét mấy cũng phải ra đường, ngồi đâu đó trong một quán ăn cũ kĩ gọi cho mình tô phở nóng bốc khói nghi ngút hay dậy sớm hít thở mùi sương sớm bên Hồ Tây và cảm nhận rét nhưng thật thú vị! Rét vẫn rủ nhau ăn kem Tràng Tiền để cảm nhận cái rét từ trong lòng rét ra… Nếu chỉ nhắc đến mùa Thu e sẽ không đầy đủ. Mỗi mùa đi qua trên một con đường, một góc phố thân thương ta đều thấy một vẻ đẹp rất riêng và lòng muốn ngân nga một khúc ca về Hà Nội.

Nếu ai đó nói mùa đông Hà Nội cũng như mọi thành phố khác ở miền Bắc thì xin hãy thả bộ chầm chậm dưới hàng cây cổ thụ, hãy đứng thật lâu trước sóng nước Tây Hồ nhìn nắng đông trườn dài trên thảm cỏ, nghe bầy sẻ nâu ríu ran kể chuyện phố ngày nắng đẹp và nghe chuông nhà thờ Cửa Bắc ngân nga, ngân nga….

Đôi khi tôi thích lang thang trên phố mùa đông ngắm những ngôi nhà cũ kĩ, tường vôi vàng bền bỉ đi qua mưa nắng và lòng tự hỏi phố nhớ chân ai mà dậy hương lá sấu? Phố đợi chờ ai mà thăm thẳm mắt đèn?

Minh họa của Đào Hải Phong

Hương phố mùa đông lạ lắm không ai có thể tả được cụ thể đó là hương gì. Mùi của gió bấc từ sông Hồng phả vào hay mùi của sương đang tan trên cánh đồng hoa Nhật Tân? Phố nào thơm mùi thuốc Bắc? Phố nào nức mùi cà phê rang xay? Phố nào dìu dịu hương mộc, hương trầm? Để rồi còn đang ngơ ngác lại nghe ngân nga tiếng chuông vang trong tiếng kinh cầu.
Mùa đông nơi khác vội vã, hối hả. Mùa đông Hà Nội chậm rãi, thong dong.

Người ta ngồi sát bên nhau xuýt xoa vị ngọt của bát bánh trôi Tàu dậy thơm mùi gừng hay chia nhau bắp ngô nếp nướng lách tách mùi củi than.
Mặc kệ gió hun hút, mặc kệ những lo toan thường nhật cứ phải vui, phải cười phải thật đẹp trong áo choàng, khăn san đủ sắc, đủ màu. Mỗi năm chỉ có một mùa đông và đời người còn được biết bao mùa đông nữa. Người xa xứ đi đâu cũng nhớ da diết cái rét đầu đông, nhớ tiếng còi tầu ngân dài mỗi khi vào ga Hàng Cỏ. Nhớ tiếng chổi tre xào xạc trên những khúc quanh vỉa hè liêu xiêu. Từng cơn mưa lây rây đọng trên má em hồng. Mùa đông có gì xốn xang mà nhiều đêm trằn trọc một nỗi nhớ không gọi được thành tên.

Hà Nội là vậy, mùa đông Hà Nội là vậy. Lắng nghe hơi thở của phố trong sương. Tiếng chân ai tìm về lối cũ. Lòng chợt ngân lên câu hát về một mùa đông đã xa.

Minh họa của Đào Hải Phong

“… Ơi đêm mùa đông Hà Nội thức trong mưa.
Anh đi tìm em như tìm về hạnh phúc
Ơi đêm mùa đông Hà Nội buông hơi thở
Ơi đêm mùa đông Hà Nội thức trong mơ … “

Giàn trầu của bà

Bà tôi năm nay đã hơn 90 tuổi, cái tuổi mà người ta vẫn bảo là xưa nay hiếm. Ở tuổi bà mà vẫn minh mẫn và không hay đau ốm gì thì thật là đáng mừng. Hàng ngày bà ngồi trên chiếc ghế trên thềm nhìn ra khu vườn râm mát, thì thầm lời của lá. Bà vẫn quen ăn trầu như bao năm nay vẫn thế, mặc dù hàm răng đen không còn nhiều.

Bà có giàn trầu ở gần giếng nước. Giàn trầu vẫn ở đó từ khi tôi còn nhỏ. Giàn trầu quanh năm xanh mỡ màng một màu xanh hiền lành khiến cho mỗi lần tôi nhìn lại thấy lòng bình yên. Nhớ hồi còn nhỏ, tôi thường theo bà đi hái lá trầu. Bà bảo, trầu không là loài dây leo bền bỉ và dễ sống nhất, bà nói mà miệng thơm nồng mùi lá trầu không. Tôi như cảm được hơi ấm từ mùi vị ấy qua từng hơi thở và câu nói của bà qua những ngày đông.

Giàn trầu của bà chỉ kém xanh và nhiều lá vàng khi có sương muối, chứ hầu như không bị sâu bệnh bao giờ. Tôi nhớ, bà thường hái những lá vàng ấy ăn và bảo cũng ngon không kém lá xanh. Bà bảo, không muốn bỏ phí những lá ấy vì quý giàn trầu. Giàn trầu đã có thừ thời bà còn con gái, khi bà mới về làm dâu. Nó như là người bạn, người ân nhân thân thiết, gần giũi và đáng quý. Nếu như ta chê bai, không quý trọng nó thì nó sẽ héo úa mà dần chết đi, bà sẽ tiếc và xót lắm.

Hồi tôi còn nhỏ, bên thềm nhà luôn đầy ắp tiếng nói cười, đó là các bà hàng xóm đến chơi. Đĩa trầu được bưng ra. Những lá trầu xếp ngay ngắn trên đĩa, những miếng cau nằm cạnh đợi những bàn tay già nua nhận về, cái bình vôi đặt một bên, trên miệng bình trắng xóa vệt vôi cũ. Những câu chuyện làng trên xóm dưới cứ thể nảy ra từ những miệng đỏ vì ăn trầu. Những hàng răng đen lánh làm tôi mê mẩn rồi tự hỏi sao mà răng các bà lại đen đến thế? Bà kể cho tôi về cách nhuộm răng đen như thế nào, phải kiêng kỵ những gì để răng có màu đen bền đẹp. Cái tập tục cổ xưa ấy có lẽ chỉ đến thời của bà tôi là thất truyền vì bây giờ làm gì còn ai ăn trầu và nhuộm răng đen.

Tôi vẫn còn nhớ cái mùi nước đun lá trầu ngày thơ bé khi được tắm thứ nước ấy để chống ngứa lở. Bà bảo, lá trầu lành lắm, nó giúp kháng khuẩn, trị ngứa lở và sát trùng, tắm nước lá trầu không rất tốt. Trẻ con thôn quê thường được tắm gội bằng những thứ nước đun từ cây lá quanh nhà theo kinh nghiệm dân gian. Và một trong những thứ mùi đó là mùi lá trầu không vẫn lưu lại vẹn nguyên trong ký ức với hình ảnh của mẹ của bà hiền hậu yêu thương.

Thời gian trôi đi, những bà già năm nào đã về nơi miền sương khói, chỉ còn bà tôi ngồi đó nhai trầu mà suy tưởng miên man. Có những lúc rảnh rỗi hiếm hoi, tôi giật mình nhìn bà mà thấy trùm lên thân hình già nua cả một nỗi cô đơn. Rồi tôi tự trách mình vì cũng vô tâm không dành chút thời gian với bà. Những cuộc sống cơm áo với bao lo toan bộn bề khiến tôi không có thời gian để giành cho chính mình, tôi buồn. Bà vẫn ngồi đó, những miếng trầu bà nhai vẫn thắm đỏ một miền cổ tích, thơm nỗi niềm quê. Thấy răng bà đã rụng, tôi mua cho bà cái cối giã trầu bằng đồng. Bà cười, miệng móm mém làm lòng tôi thắt nghẹn, chẳng mấy nữa mà bà sẽ xa tôi, cái linh cảm cũng là quy luật nghiệt ngã khiến tôi suy nghĩ.

Mấy hôm trước, khi đi làm về, thấy bà nói như liên miên, bà có dấu hiệu bị lẫn. Bà toàn nói về quá khứ, những câu nói như tỉnh như mơ làm tôi nghẹn ngào… Suốt đêm hôm ấy bà nói một mình. Thật may sao, khi bố gọi bác sĩ tiêm và uống thuốc thì bà dần trở lại bình thường. Nhớ lúc bà nói mê man, bà bảo: “Bây giờ tao thấy yếu rồi, chân tay lẩy bẩy, chắc tao bỏ ăn trầu”. Tôi bật khóc vì sợ bà sắp ra đi. Chợt nhìn ra giàn trầu xanh mươn mướt thì lại bình tâm được.

Bà vẫn ngồi đó, nhìn ra giàn trầu như vin vào một điều gì vững trãi và yên ổn ở nhân gian. Giàn trầu vẫn xanh, một màu xanh bình yên làm lòng tôi ấm lại.

Thương nhau cau sáu bổ ba

Tôi là Phạm Thùy Ngân

Thành viên của Tản Văn Hay từ 19 tháng 6, 2021.

T

hương nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.

Trước đây mỗi lần têm trầu bà tôi thường ngâm nga câu ca dao ấy, tôi thuộc làu và cũng thường ru em bằng câu ca dao này.

Thật lạ, chỉ mỗi miếng cau thôi cũng dạy cho con người ta nhiều thứ. Khi yêu thương, quý mến nhau thì luôn muốn dành cho nhau những gì tròn đầy, tốt đẹp nhất “cau sáu bổ ba”. Nhưng khi tình cảm đã sứt mẻ rồi thì người ta đi đến cả giới hạn cuối cùng “cau sáu bổ ra làm mười”.

Có lẽ cũng vì thế mà mỗi khi gặp nhau người xưa luôn coi “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Cả gia chủ và khách đều dùng miếng trầu, nhìn vào miếng trầu, cách têm trầu và bổ cau để thể hiện thái độ, tình cảm và cả sự khéo léo dành cho nhau. Tế nhị, thâm thúy và khôn khéo đến thế là cùng.

Rằm tháng bảy, ở quê tôi nhà nào cũng chuẩn bị mâm cúng chu đáo lắm. Cúng mặn cho ông bà tổ tiên, cúng chay bố thí cho cô hồn. Tôi lại được dịp thể hiện vai trò nàng dâu trưởng “anh đầu chị cả”. Nấu nướng xong xuôi tôi xếp bằng lên chiếu và bắt đầu công việc têm trầu. Cau bổ ba, trầu têm cánh phượng, những việc này tôi học theo bà nội từ thời mới tập làm người lớn. Bàn tay thoăn thoắt “róc” cau, trái cau xoay tròn trên ba ngón tay và chỉ một loáng đã trắng nõn.

Gặp nhau ăn một miếng trầu
Không ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng

Ăn trầu không chỉ là tục lệ, nét đẹp truyền thống của người dân Việt Nam mà trầu cau còn là biểu tượng của sự hoà hợp, gắn kết, son sắt thủy chung. Miếng cau đầy, lá trầu xanh và vệt vôi trắng khi quyện vào nhau sẽ tạo ra màu đỏ thắm, vị cay nồng. Muốn có miếng trầu ngon thì cau phải vừa đủ độ già, hạt vừa đến độ đặc, không điếc, không cứng, bổ vừa ăn, trầu lá dày, giòn, tươi xanh và quệt vôi vừa đủ. Ngoài ra còn cách têm trầu sao cho gọn, đẹp nữa. Ngày xưa là phụ nữ mà không biết bổ cau, têm trầu thì bị coi là đoảng sẽ bị chê cười.

Đàn ông phải biết khiển trâu
Đàn bà phải biết bổ cau têm trầu.

Có thế mới thấy sự khéo léo luôn được quan sát đánh giá một cách tinh tế trong từng việc làm nhỏ nhặt nhất. Phụ nữ mà không khéo thì khó bề vun vén cuộc sống gia đình. Bà tôi vẫn thường nhắc nhở và luôn nghiêm khắc dạy dỗ chúng tôi như thế.

Không chỉ có mặt như một phần không thể thiếu trong cuộc sống thường ngày của người dân, cau trầu còn là tín vật trong những sự kiện trọng đại của đời người. Đôi lứa yêu nhau khi tính chuyện trăm năm nhà trai phải làm công việc quan trọng đầu tiên là đi “bỏ trầu” cho con. Sính lễ đơn giản chỉ 5 miếng cau, 5 miếng trầu và chai rượu trắng. Hai gia đình gặp gỡ đồng ý cho đôi trẻ “qua lại” tìm hiểu nhau. Thế là xong việc “rào đường” để tránh sự dòm ngó của người khác. “Lục lệ thành hôn” sau việc rào đường thì còn nhiều thủ tục khác để đôi trẻ nên vợ thành chồng nhưng bất cứ sự kiện nào cũng không thể thiếu được cau trầu.

Sự gắn kết ấy không chỉ là sự hoà hợp trong tình yêu đôi lứa mà còn là sự gắn kết tâm linh. Những ngày giỗ chạp, tết, lễ… trên ban thờ tổ tiên luôn luôn có dĩa cau trầu. Giữa đủ đầy sơn hào hải vị được bày ra cúng bái, dĩa cau trầu như là sự kết nối duy nhất giữa hiện đại và truyền thống, giữa thực tại và quá khứ giữa người sống và người đã khuất. Nó tồn tại đầy quyền lực trong không gian linh thiêng và trang trọng.

Nhưng rồi sau tất cả những nguyện cầu, khấn vái, người ta say sưa thọ lộc còn dĩa cau trầu nằm đó, cong queo, héo úa và cuối cùng bị bỏ quên như một sự thừa thãi, vô dụng. Bởi đơn giản con người thời đại mới có ai biết ăn trầu đâu, mà ăn để làm gì? cay xè, đắng nghét lại bẩn cả răng, bỏng cả miệng. Người nay gặp nhau thì kéo nhau ra quán nhậu hết tăng này đến tăng khác đâu như người xưa lấy miếng trầu làm món đãi khách. Tôi ngậm ngùi nhìn những miếng trầu bị vứt đi mà xót xa. Lại nao lòng nhớ đến hương cau tháng 3 thoang thoảng trước thềm. Mùi thơm lạ lắm, nửa như xa tít trên cao nửa như sà xuống trước mũi. Nhớ những hạt cau non rụng đầy vườn sau đêm sương muối mà mỗi sáng chị em tôi vẫn thường nhặt về đánh óc ô (trò ô ăn quan).

Nhớ những ngày cuối hè mẹ bảo “Mai con Bé ra coi buồng cau nào to thì mẹ cho trèo lên xé đi chợ bán mà mua áo quần, sách vở”. Vậy là mừng rơn, buộc dây chuối làm nài, tay ôm chặt thân cau, hai bàn chân xỏ vào nài rồi thoăn thoắt trèo lên tận ngọn cau cao hơn nóc nhà. Cây cau gầy, cao quá, ngọn cau lắc lư, lũ kiến hôi thấy động liền túa ra chui khắp người, kệ, tôi bặm môi nghiến răng cố chịu nhột, một tay ôm chặt thân cau, tay kia cầm lấy buồng cau cố xé ra rồi nhắm chỗ nào có bụi cỏ rậm rạp mà vứt. Xong xuôi, nới lỏng tay chân tuột một mạch từ trên cao xuống đất, bụng, chân trầy cả da rát buốt. Tôi là đứa hay leo trèo nhất nhà nên cả vườn cau mấy chục cây đều một mình tôi hái.

Trước đây nhiều người ăn trầu nên cau đắt giá lắm. Tầm tháng 9 tháng 10 là cau đến độ ngon. Lúc ấy cả nhà tập trung làm cau khô. Sau khi hái cau xuống công đoạn đầu tiên là róc vỏ cau. Róc vỏ cũng phải có kỹ thuật hẳn hoi nhé, dùng 3 ngón tay trái (ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa) để giữ quả cau theo chiều chụm cau lên trên, cuống xuống dưới. Tay phải cầm dao dùng ngón trỏ giữ phần sống dao thật chặt và nhanh nhẹn khứa phần mỏng vỏ xanh của quả cau tước xuống. Công việc này phải nhanh, đều tay thì quả cau mới trơn tru sạch vỏ. Xong công đoạn róc vỏ là phần tiện chụm cau. Ba thường chế một loại dao như dao cắt thuốc bắc rồi đặt ngang quả cau cho lưỡi dao vừa phần chụm cần cắt rồi dập mạnh xuống. Quả cau được cắt đầu cắt đuôi gọn gàng nằm lăn lóc trong chiếc nôống tre như những chiếc trống thu nhỏ. Công đoạn tiếp theo là bửa (bổ) cau. Thường thì mẹ tôi bổ tư cho nhanh, những quả to thì bổ năm bởi vì sau khi khô miếng cau sẽ teo lại nên phải căn sao cho đều, đẹp.

Muốn có miếng cau đẹp thì điều không thể thiếu đó là dao phải thật sắc. Bởi vậy mới có câu “sắc như dao cau”. Trước khi làm cau ba phải ngồi cả buổi để mài dao trên những hòn đá nhám lấy từ ngoài sông về. Dao sắc bén nên cứ sau mỗi mùa cau là bàn tay tôi lại thêm một vết sẹo. Việc cuối cùng đó là hầm cau. Để có miếng cau khô thơm, trắng thì phải hầm thật khéo. Hầm cau là cách gọi khác của sấy khô bằng than. Mẹ tôi vây tròn tấm cót gọi là nôống hầm, trong nôống hầm bỏ vài chậu than đỏ rồi đặt sịa lên trên, dàn cau thật đều mặt sịa rồi sấy cho đến khô. Lâu lâu phải lật từng miếng cau cho khô đều hai mặt. Hầm như thế tầm 2 ngày là được.

Cau hầm đúng kỹ thuật thì thơm lừng, trắng phau, cong lại mà không bị rời hạt. Còn hầm không đủ nhiệt hoặc quá nhiệt sẽ bị bầm đỏ, tách hạt ra bán chẳng ai mua. Cau sau khi khô sẽ được cất vào chum sành phủ lá chuối lên trên đợi đến gần tết đem ra chợ bán. Có năm được giá mẹ bán hết chum cau là chị em tôi có đủ quần áo mới mặc tết.

Bây giờ kinh tế phát triển, cuộc sống cũng thay đổi nhiều nên những nét đẹp truyền thống phần không còn phù hợp, phần mai một dần. Người già cũng chẳng còn mấy ai giữ thói quen ăn trầu, cau chín vàng rụng đầy cội, trầu sum suê lá không ai thèm hái. Dần dà người ta cũng chặt bớt cau cho rộng vườn. Bóng cau lẫn trong khói bếp chiều tà cứ thưa dần, thưa dần.

Mỗi lần về quê thèm được ngắm trăng treo trên lá cau trước hiên nhà. Thèm nghe tiếng chào mào con lích rích đòi mớm mồi trên ngọn cau còi. Thương cái giật mình giữa đêm khi mo cau rớt xuống để rồi sáng ra mẹ nhặt cắt thành quạt, thành mo đùm cơm cho ba đi rừng hoặc lũ em giành nhau lấy làm xe kéo chạy quanh xóm. Nhớ tiếng mo cau của mấy đứa mục đồng đập xuống đường thay tiếng pháo trong đêm giao thừa…

Tôi ngồi đó, ngẩn ngơ cầm miếng trầu cánh phượng đang têm dở, chợt lẩm bẩm đọc hai câu thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương:

Có phải duyên nhau thì thắm lại. Đừng xanh như lá bạc như vôi.