19 C
Hanoi
Thứ Năm, Tháng 10 23, 2025

Lững thững… và yêu

C ó những buổi chiều, tôi ngước nhìn...

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...
Trang chủ Blog Trang 13

Lắng nghe mùa thu về

lang-nghe-mua-thu-ve

Đã bao giờ bạn đứng lặng bên đường hay bên góc phố mà ngắm mùa thu nhón gót chân về. Đã bao giờ bạn lắng lòng mình mà chiêm nghiệm vẻ đẹp dịu dàng, bâng khuâng của hương sắc mùa thu. Đã bao giờ bạn trài lòng mình cũng những hình ảnh đẹp như tranh cổ tích, như màu huyền thoại qua các áng văn thơ viết về mùa thu làm say đắm lòng người? Hãy cùng tôi đắm mình trong những hương vị thật ngọt ngào và vô cùng lãng mạn của mùa thu các bạn nhé…!

T ín hiệu thu về trong những ngày cuối hạ thật khó nắm bắt bằng các giác quan thông thường. Nắng vàng nhè nhẹ, đã bớt đi cái oi nồng ngột ngạt. Gió heo may thoang thoảng bay về. Những bông cúc đua nhau khoe sắc vàng rượi. Từng hàng cây ven đường đang ngả dần màu lá. Màn sương sớm mờ ảo đùng đục giăng giăng.

Ông trời lười biếng nhô lên hồng rực ở chân trời phía xa. Thu đem mong nhớ đến. Thu để lại u buồn. Thu xơ xác, thu xào xạc trong màn sương chiều, để ai đó phải thốt lên : “Thêm một chiếc lá rụng /Thế là thành mùa thu”. (Trần Hòa Bình). Thu về lòng người lại bâng khuâng, trời đất bâng khuâng và tình ai đó cũng bâng khuâng. Cảm thu bằng tâm hồn, đón thu bằng tình yêu, ấy là ta đã nắm được hồn thu vào lòng.

Tôi từng ngẩn ngơ ngắm mùa thu đi qua với những nỗi niềm buồn vui lẫn lộn. Những cơn mưa thu dai dẳng khóc sụt sùi. Cho lòng người thêm buồn bã, sầu muộn ai oán. Xa cách và chia ly như mối tình chàng Ngưu lang và nàng Chức nữ.

“Vọng ngân lời tình tự
Theo dấu một tình thu
Phương em trời viễn xứ
Ngần ấy…. Thương lời ru”
(Hoàng Chẩm).

Những ngày này chẳng hiểu sao nắng hanh vàng trải dài khắp các miền quê. Trên Cánh đồng, lúa chín vàng rực, rung tay nhè nhẹ vẫy gọi mùa thu chờ những người nông đến gặt hái. Bầu trời thu cao xanh lồng lộng, không một gợn mây la đà. Tiếng con chim vịt gọi bạn kêu lanh lảnh làm tiếng thu cứ ngân lên xao xác mặt hồ trong vắt. Buổi tối Vầng trăng thu hiền hoà vàng rực treo trên không trung lại có cơ hội tỏa ánh hào quang dịu dàng như lòng mẹ xuống cõi nhân gian. Tiếng sáo diều vi vu trong gió, tiếng côn trùng nỉ non thành điệu nhạc bất tận của màn đêm.

Trong cô liêu, nghe tiếng sóng vỗ chân cầu. Lòng đầy bâng khuâng tiếc nuối. “Em có về không, kịp vàng thu… mắt đỏ/Hương hoàng lan vương tóc rối đợi chờ”. Trong tôi, mùa thu với những bông cúc vàng rực rỡ, có những chùm hoa nắng vô tư đậu trên vai áo cùng tiếng chim hót ríu ran lấp ló trong những lùm cây hai bên đường đưa chân tôi tới trường trong rạo rực niềm vui của buổi khai trường là niềm yêu, niềm phấn khích khó diễn tả thành lời. Ngày khai giảng, cả thầy và trò đều háo hức đón đợi tiếng trống trường vang lên trong tà áo trắng tinh khôi, trong nụ cười tươi mới ngan ngát sắc thu. Ghi mãi nơi tôi là hình ảnh những em bé lần đầu tiên được mẹ dắt tay đến lớp với bao bỡ ngỡ trước ánh mắt vỗ về của mẹ và ánh mắt trìu mến, đong đầy yêu thương của cô.

“Em có về không nắng chiều kêu em đó
Tím hoàng hôn than thở nhớ môi nồng
Về đi em để nghe thành phố thở
Con dế mèn nức nở khóc mùa sang!”
(Nguyễn Thanh Vy)

Yêu mùa thu, tôi yêu khoảng trời cao, trong xanh vời vợi, có sắc nắng hanh hao đến nao lòng, có làn gió mát trong, mơn man đùa nhẹ trên mái tóc mây mềm của người thiếu nữ. Chợt thấy tâm hồn mình xao động trước loài hoa tim tím, dịu dàng nở đầy hai bên vạt đường, cánh hoa mỏng mảnh, rung rinh trong nắng sớm. Gieo vào lòng tôi bao cảm xúc là hình ảnh cánh đồng quê xanh tươi, mỡ màng hòa cùng nắng thu chấp chới. Lá lúa trông xa như những bàn tay nhỏ xíu đong đưa, vẫy chào các bác nông dân ra đồng chăm bón. Vài ba cánh cò chao lượn trên nền trời xanh thẳm soi bóng xuống những con mương có làn nước trong veo gợi khung cảnh thanh bình, yên ả nơi quê nhà.Cuộc chia tay vào mùa thu đầy đau khổ nhưng lãng mạn.

Cuộc đoàn tụ vào mùa thu thì nhiều và tất cả đều mang lại những cảm giác ngọt ngào say đắm. Hơn hai mươi năm đứng trên bục giảng, tôi đã có hơn hai mươi mùa thu hạnh phúc cũng những ngày lễ khai trường tưng bừng long trọng. Cảm xúc mùa thu ùa về cùng bảng đen phấn trắng, cùng khăn quàng đỏ thắm trên vai học trò, cùng những ánh mắt hân hoan ngày tựu trường và những nụ cười cháy bỏng niềm tin của bao đồng nghiệp mến thương đã làm tôi luôn tin rằng: mỗi mùa thu sang là mỗi mùa đoàn viên hạnh phúc trong đời.

Nhắc đến mùa thu là nhắc đến những cảm xúc rộn ràng trong tim mỗi người, ẩn chứa niềm kiêu hãnh tự hào hòa chung với không khí của cả dân tộc trong ngày lễ kỷ niệm chào mừng Cách mạng tháng Tám thành công và ngày Quốc khánh 2/9. Khắp nơi tưng bừng, rộn rã, rợp trời cờ và biểu ngữ tung bay trước gió. Trên khắp các nẻo đường, dòng người tấp nập ngược xuôi, gương mặt ai cũng hân hoan rạng ngời. Dường như trong mỗi người đều dâng lên một niềm xúc động và tưởng nhớ đến công lao của thế hệ cha ông, những người đã viết lên những trang sử hào hùng làm rạng danh non sông, đất nước. Và trong ta lại thầm nhắc lòng mình phải gắng sức hết mình để chung tay xây dựng Tổ quốc đẹp giàu.

Và có bao kẻ như tôi, đứng trước mùa thu, không cầm lòng nổi mà viết ra những lời tâm sự này. Hãy tận hưởng mùa thu khi có thể bạn nhé. Đừng để mùa thu đi qua trong hối tiếc, bùi ngùi. Vì những gì qua đi ko bao giờ trở lại. Hãy yêu mùa thu như yêu những gì đẹp nhất mà thiên nhiên đã ưu ái dành tặng cho chúng ta trong cuộc đời này. Tôi yêu mùa thu, bạn yêu mùa thu và chúng ta…!

Trăng quê

Tác giả Trần Hiền

Đ êm buông. Nền trời đen vợi như huyền tích. Trăng lên cao tròn vành vạnh, toả ánh sáng bạc bao phủ khoảng không gian tĩnh lặng. Sương lóng lánh nạm ánh vàng trở nên long lanh như ngọc, nằm vắt vẻo đu đưa trên những tán lá mềm. Gió mát hiền hoà vẩn vơ bên người, khẽ khàng hát khúc bình yên muôn thuở. Trăng đêm ở thôn quê, lặng yên trong tiếng thì thầm rất khẽ của thiên nhiên, bỗng gợi ra cả một miền an yên cổ tích.

Tôi nằm trên tấm chiếu mỏng trải ra giữa sân gạch, khẽ nhắm mắt lại lim dim để hoà mình vào cây cỏ, lắng nghe hết thảy những thanh âm rất khẽ của ánh sáng trăng quê. Để lòng mình bé lại, hồn nhiên như quá khứ, đôi chân trần đi trên đường đất, đôi tay trần chạm vào cây cỏ. Buồn thì khóc, vui thì cười, tức giận thì la hét, xong hết rồi lại thôi, lại hiền hoà như một khoảng không đầy nắng trong và gió lành.

Chú chó nhỏ bỗng nghếch mõm sủa trăng, tiếng gâu gâu vang lên dưới ánh trăng vằng vặc nghe như có chút gì đó cưng chiều và thân thuộc. Cảm giác cũ bỗng lần hồi thức dậy từ mọi giác quan. Nghe từng thớ thịt da mát mẻ đến lạ kỳ. Trăng chảy ánh vàng xuống tầng không, như sông suối tắm táp từng lá cây ngọn cỏ, như sương giăng giữa cánh đồng bảng lảng lúa ngô non.

Bụi chuối bên hè xào xạc tàu lá khô, tiếng ếch nhái kêu ra rả, tiếng côn trùng rả rích. Lẫn trong đó cả thanh âm của chú dế nhỏ bên bờ ao đầy lá cỏ, đôi cánh bóng mẫy ướt đẫm sương đêm. Tiếng rầm rì chuyện trò đâu đó vọng lại khi xa khi gần. Nghe như có mùi dầu hoả của chiếc đèn dầu hắt sáng một khoảng mòn bức vách bằng phên nứa. Lòng khẽ cười nhớ chiếc quạt mo cứ mỗi đêm về lại phe phẩy nhè nhẹ trong buồng.

Một căn nhà nhỏ, một mái tranh đơn. Chiếc giường tre kẽo kẹt cả khoảng trời thương nhớ. Bát canh mang sang, mắm cà mang lại, ấy mà tròn trịa yêu thương. Khi người ta khổ người ta gần gũi nhau biết mấy. Nắng chan đỉnh đầu, gió bạt đường đất, những đêm trăng sáng trở thành khoảng không dịu ngọt nhất trong ngày. Con người thủy chung cùng cây cỏ, ánh trăng là tri âm. Trên bờ đê những đôi lứa hò hẹn, dưới trăng đơn, cây cỏ cũng rất hiền.

Bây giờ cá thịt đủ đầy lại thèm những tháng ngày vuông vắn chẳng hư hao. Ai ai cũng lo cửa đóng then cài. Trăng chẳng còn thay đèn dầu rọi sáng buồng đêm. Cánh cửa khép hờ ngăn che hương đất, hương trời. Bàn chân bỗng trở nên xa lạ ngay trên chính những đổi thay đẹp đẽ của lối đi. Ánh điện sáng trưng xa hoa lộng lẫy. Ánh trăng mờ dần lạc lõng giữa thênh thang.

Tôi nằm dài trên chiếu mỏng. Đêm về khuya, sân gạch mát lạnh len vào tấm lưng một cảm giác êm đềm như ngày thơ bé. Ngày cả nhà quây quần bên manh chiếu mỏng ngồi giữa sân nhà nhìn trăng rơi sóng sánh, mẹ cùng bà kể chuyện ngày xưa tiếng to nhỏ thầm thì. Nhắc cháu con về cha ông, tổ tiên, hồn cội quê hương thấm đượm nghĩa tình đạo lý. Nhắc cháu con về lẽ sống ở đời, một củ khoai sẻ nữa cũng no dạ ấm lòng. Rằng sống ở đời phải có tình, có nghĩa: nghe con…

Ánh trăng rọi xuống thế gian, ánh trăng soi sáng lòng người. Thứ ánh sáng tự nhiên huyễn hoặc, dung dị giản đơn, hiền lành đôn hậu. Thứ ánh sáng của tất cả những gì bình yên nhất. Miền tuổi thơ ngụp lặn giữa bùn nâu, tiếng cười trong trẻo như cổ tích. Miền nghĩa tình thăm thẳm của người yêu người sống chan hoà cùng gió nắng trời mây. Lòng ta giàu có đến thế. Sao càng trưởng thành, càng thấy nhỏ đi. Càng bé mọn nhiều góc khuất của lòng.

Hôm nay nằm ngắm trăng đêm. Trăng sáng mặt mình, trăng rọi lòng mình. Trăng tan vào ngõ tối của hồn. Trăng nhắc ta về ngày xưa chung thủy. Dù bao vật sáng có đổi thay trên đời, dù đèn dầu, đèn pin hay đèn điện, thì trăng vẫn ở đó, trên nền trời bao năm không đổi. Trăng vẫn toả cho hết khối sáng của mình, tròn vành vạnh, chan hoà soi tỏ cả thế gian. Trăng bền bỉ với đời, với người.
Thì ra thế, người cũng nên bền bỉ với người. Với nghĩa tình trọn vẹn của yêu thương.

Ngày em đến

Cho Mùa thu, tháng Tám và Em!

“Rồi em đến, em đến bên anh cho anh ngỡ ngàng
Tựa như có con suối đi qua trong tim nhẹ nhàng
Và em nghiêng mái tóc mây bồng
Và anh nghe trong gió thơm nồng…”

E m chao tà áo mỏng đến bên đời ta như thế. Khẽ khàng. Để sớm nay bên thềm nhỏ, ta nghe lòng mình thương em, thương em…

Sớm nay mở cửa. Ta thấy gót son của em chạm vào ngõ vắng. Em nhẹ nhàng bước tới dưới hiên mai, ngước nhìn ta xao xuyến đợi chờ. Khoảnh khắc đó tim ta lỗi nhịp. Ta muốn ào ngay tới đặt lên môi em nụ hôn đầu đời dịu ngọt. Thổn thức. Bâng khuâng. Ta toan đưa tay ra chạm vào tà áo tha thướt khẽ bay bay của em, níu lấy ánh mắt, thơm lên nụ cười, ngắm em ngây dại. Nhưng em thuần khiết quá khiến ta không thể. Em trong sáng đến độ ta chỉ dám ước ao thầm. Tay ta chững lại. Run lên…

Em cứ đến bên ta dịu dàng như thế. Một cơn gió heo may ngấp nghé bên thềm. Gió chạm vào da thịt mơn man…Gió gieo vào lòng ta chút sắt se đầu mùa. Gió gửi cho ta hương lúa non xanh, hương thị miên man ngõ vắng, hương ổi ngọt ngào như niêm phong hết thảy tuổi thơ xưa cũ – gửi cho ta. Ôi cái hương ổi găng ngọt dịu mềm như môi em thuở ban đầu…
Và em đến. Đôi sợi nắng non vuốt ve khung cửa sổ. Nắng nhắc ta ngày hè đang khép lại sau lưng. Nắng chạm vào ta thương nhớ bâng khuâng. Thương đôi má em hồng khi ta chạm tay em trong buổi chiều thu ấy.

Và em đến. Tặng ta những đóa hoa say.
Em là đóa sen e ấp, thẹn thùng sau chiếc lá cũ càng. Ta ngẩn ngơ đi tìm. Vụng dại hít căng lồng ngực mình hương đất, hương trời, hương hoa cỏ.
Em là đóa ti gôn thắm hồng như làn môi trinh nữ. Ta xôn xao muốn chạm môi mà rụt rè không dám ngỏ. Đóa hoa mong manh tinh tế, mềm mại như nét cười ai đó làm tim ta xốn xang. Sáng nào thức dậy ta cũng dành cho mình khoảng lặng. Ngơ ngẩn ngắm em, ngắm giàn hoa xanh mướt như nỗi chiêm bao mà thầm thĩ hỏi rằng, có phải em biết ta ngốc nghếch, dại khờ mà đến để thương ta?

Em là đóa ngọc lan thơm ngát vương vào tim ta nỗi khát thèm. Một tối muộn trở về trên phố lắm ồn ào, đèn xe vun vút, ta lạc lõng, mệt nhoài vì bận rộn áo cơm. Bất giác, ta thảng thốt giật mình. Dừng lại. Bối rối. Ta ngượng ngùng gọi tên em. Ngọc lan! Ngọc lan! Phải là em đó không? Ngọc lan thuần khiết. Ngọc lan nhớ. Ngọc lan thương.

Trong tích tắc, ta tìm lại được ta trong hương hoa ngào ngạt ấy. Nồng nàn, dịu dàng, em khiến ta bừng thức. Vỡ òa. Lại thấy cuộc đời không còn thô ráp nữa. Lại thấy lòng mình ướt mềm như cơn mưa đầu thu.

Em biết chăng cuộc đời thật đẹp vì còn có em ở đó, ru ta sau những bụi bặm, gió giông. Em nhắc ta nhớ về những chiều thu cổ tích, ta lang thang ngắt những đóa lan trắng tinh khôi, cài lên mái tóc cô gái mà ta thương kiếp trước, kiếp này và muôn trọn kiếp sau. Hương hoa thầm thì những lời chung thủy, hương như tình em nhắc ta lạc lối hãy quay về…
Và hôm nay em đến. Em đến bên ta dịu dàng không một lời ước hẹn. Ta ngỡ ngàng, lạc giữa chiêm bao. Mơ màng…
Tim ta run lên hai tiếng Thu – Em!

Êm đềm rau muống ao quê

moc-nhien

Tác giả Mộc Nhiên

K hông phải loài rau muống cạn xanh mướt trên khoảng đất tơi mềm mà chính là những ngọn rau muống tía được hái từ ao về khi nấu lên thảng vị chát nhưng dần dà ngọt hậu. Thật lạ khi loài rau trú ngụ sinh sôi nơi “nước lã ao bèo” lại đằm thắm và mặn mòi trong kí ức tôi như thế.

Ao nhà tôi nằm khiêm nhường phía bờ rào gần cổng, nơi có đám cỏ tranh rậm rạp và cây dâm bụt hiền hoà mọc xen kẽ. Ban đầu chỉ là đoạn dây muống già gầy guộc với mấy mầm nhỏ mà bố xin của người cùng làng đem về thả xuống vậy mà thấm thoắt chúng đã lan tới quá nửa mặt ao và trở thành món rau thân thuộc trong bữa cơm nhà tôi. Lời mẹ dặn anh tôi trước lúc đi làm ngày ấy: “Hai anh em trông nhà cẩn thận. Nếu thấy muộn mà bố mẹ chưa về, con chất bếp nấu cơm và hái nắm rau muống ao luộc trước nhé!”. Tôi thường ngồi trên bờ ngoe nguẩy bím tóc rối mà tha thẩn hát rồi nhìn anh trai hái tới khi xong là tung tăng bê lưng rổ rau muống theo sau anh về nấu cơm chờ bố mẹ.

Những ngọn rau muống ao được mệnh danh là “ngọn chìa vôi” đặc biệt non như bún, nhọn hoắt bám là là mặt nước mà vươn dài tới độ lá chưa kịp bung xoè. Chúng giống như những đứa trẻ con kháu khỉnh bụ bẫm, tập lẫy, tập bò, nhoài mình lên phía trước mỗi ngày, mỗi mùa để khám phá mọi điều hay đẹp trong nhân gian. Và bè rau muống cũng từ ấy mà thêm chắc thêm dày, thêm rộng, xanh miên man.

Rau muống ao thường khoác lên mình chiếc áo màu xanh lá, màu nâu xám, màu đỏ tía, dù chẳng nổi biệt nhưng bền bỉ như một phần dáng vóc trường tồn của làng quê là màu đất trầm, màu nước biếc, màu khuôn mặt chú gà trống gáy vang trời…Những chiếc lá to như hình mũi tên bản rộng thật mạnh mẽ lấp loáng dưới ánh mặt trời, hay như hình trái tim dài mềm mại khi chiều về sâu thẳm cùng hứng đựng những linh khí của nắng, của mưa, của gió… của trời để truyền cho rễ cây nguồn oxy thở. Các chùm rễ to nhỏ mọc ra từ các đốt thân thả mình bung biêng dưới làn nước mát hít hà bao dưỡng chất nuôi nấng cho cây…như đôi chân trần an nhiên và bản lĩnh những bước đi mang ý nghĩa từ dấu ấn giữa dòng đời dù trong, dù đục.

Rễ rau muống cũng có điểm giống rễ bèo, chúng thu hút bám dính các vi sinh vật rồi phân hủy, sàng lọc các chất hữu cơ trong nước, giảm độ trôi nổi tự do của bụi nước giúp nước ao được thoáng đãng và thanh sạch. Tôi đã nhận ra thứ tình cảm như tình thân máu mủ khăng khít từ tự nhiên khi thấy bè rau muống êm đềm xanh tươi bên nguồn nước ao bình dị. Và nguồn nước ao ấy cứ trong xanh khắp bốn bờ, trong tới độ có thể nhìn thấy sự êm ả của mây trời, cử động của cây lá, sắc ấm vàng từ nắng và cơn gió ngọt theo chân đàn gọng vó nô đùa. Làn nước ao se sẽ vui cười, dưới đáy sâu như còn chứa chan niềm hạnh phúc.

Rau muống chung sống yên bình với các loài khác nữa trong ao. Bụi cỏ tranh với bề ngoài sắc lẹm để tự vệ chứ chẳng đụng tới ai bao giờ. Cây dâm bụt đỏ hoa nghiêng mình soi bóng. Mấy khóm nhọ nồi vẫn được mẹ hái về đắp hạ sốt hễ ai trong nhà bị ốm đau. Con chão chuộc làm tổ bọt trắng trên cây dâm bụt, chúng kêu to nhưng ít, chẳng đủ làm phiền tới ai. Loài ếch nhái lặng lẽ tới độ thỉnh thoảng mới nghe thấy tiếng nhảy bõm xuống mặt nước. Đàn cá ẩn mình trong bè muống, rồi rủ nhau bơi ra những khoảng nước trống, ngoi lên quẫy khẽ và bơi lượn thong dong. Những cụm trứng ốc bươu vàng màu hồng rực bám chắc trên ngọn cỏ ven bờ, bám đỏ mấy nhành rau muống, những con ốc vặn cũng bám đầy vào rễ vào thân, vào lá. Những con chuồn chuồn cũng đậu từng hồi lâu vừa nghỉ ngơi vừa soi mình xuống chiếc gương ao mà ngắm nghía yêu đời và thêm niềm hân hoan sải cánh. Đến cả vầng trăng đêm cũng sà xuống vắt vẻo nằm dài trên bè rau muống rồi lấp lánh ánh vàng quanh ao.

Vậy mà người ta cứ bảo “nhạt như nước lã ao bèo”. Có lẽ chỉ những con vật và cây cối ăn đời ở kiếp với ao mới cảm nhận được tận cùng mùi vị nồng ấm, ngọt ngào thân thương của làn nước mặn mòi tình nghĩa ấy. Ao nhà tôi ôm trọn bè rau muống vào lòng, như người cha người mẹ vỗ về nâng niu từng miếng ăn giấc ngủ, từng bước chân đi, từng điểm chân dừng của con cái. Và bên nguồn nước bình yên ấy, những dây muống chẳng chịt đan bện vào nhau, ngọn rau muống cứ tua tủa nô nức sinh sôi như tuổi thơ anh em tôi nên người từ làng quê mộc mạc nhỏ bé.

Anh em tôi yêu những sợi rau muống bình dị ấy như yêu chính quê hương và bố mẹ của mình. Trùng hợp có lần bác tôi gửi quà từ miền Nam ra cho tôi một chiếc áo in toàn hình hoa rau muống có màu tím nhẹ xen trắng khẽ, cứ giặt khô lại mặc mỗi ngày. Anh trai tôi bảo những bông hoa trên chiếc áo ấy giống hệt hoa rau muống trong ao nhà. Thân thương, nhẹ nhàng và đáng yêu quá đỗi. Anh hái cho tôi rất nhiều hoa khi mùa hoa muống nở để tôi ngắm nghía hoa, cười nói theo hoa, ngoan như hoa mỗi lần hai anh em chơi quanh nhà. Cũng có lần tôi mải đuổi theo con cào cào nhỏ mà trượt chân ngã nhào xuống ao, bè rau muống êm mềm đã đỡ lấy tôi khỏi bị chìm sâu xuống nước. Đó là lần anh tôi lom khom mải hái không xuể những ngọn muống xanh rờn sau trận mưa hôm trước, bờ ao trơn trượt và nước dâng to.

Và mùi rau muống lại nghi ngút bốc hơi mỗi lần mẹ xào tỏi thơm lừng gian bếp, mỗi lần anh trai tôi luộc và lấy nước chan võng cả bát cơm trắng hôi hổi ngọt thanh. Bát tương thơm lừng cạnh bên, và đôi khi là bát thịt kho hoặc đĩa cá rán…Rau thảng vị chát nhưng đậm đà tới ngọt hậu. Bữa cơm quê đạm bạc ấm cúng từ kí ức vẫn luôn là nỗi thèm khát tìm về của hiện tại ăm ắp nhớ nhung bởi đó là khoảnh khắc cả nhà bên nhau thiêng liêng đầm ấm.

Ao xưa nhà tôi đã phải lấp đi khi đường làng mở rộng. Dẫu vậy, mỗi lần tôi trở về lại bồi hồi nhìn ra phía ấy mà nhớ bè rau muống đỏ tía cùng tuổi thơ êm đềm. Bố mẹ ra đón tôi, hai khuôn mặt hiền từ như mặt nước ao trong xanh ngày ấy, vài nếp nhăn điểm khẽ trên hai vầng trán như thể sóng nước lăn tăn mà bình yên thuở nào. Anh trai tôi đang bồng bế cháu nhỏ trên tay mà vẫn chạy ra cầm hành lý cho cô em gái. Tôi ngỡ mình như ngọn rau muống đỏ hạnh phúc năm nào…êm đềm, mộc mạc bên nghĩa tình ao xưa.

Cô đơn đá ngẫm nghĩ…

Từ khi được bà ngoại ru dạy bằng ca dao, cổ tích, cô bé còn “mong manh như một nhành lan” đã biết xót thương những ghềnh đá, bờ đá, núi đá… gặp đâu đó ven bờ sông suối bởi ý nghĩ trẻ thơ: biết đâu mỗi tảng đá kia cũng là một phận người vì oan uổng đắng cay mà hoá đá như người em trong câu chuyện Sự tích trầu cau, hay hóa đá vì buồn đau đợi chờ như bao người vợ mang tên chung với nàng Tô Thị!

T ôi đã nghĩ nhiều về sự uyên thâm, sâu sắc của trí tuệ dân gian trong văn học dân gian, ví như cách sắp xếp đầy ý nghĩa những sự hóa thân trong Sự tích trầu cau. Tình huống nhầm lẫn điển hình của motif dân gian hiện ra éo le, bẽ bàng khi người chị dâu không phân biệt được người em song sinh của chồng với chồng; sự hiểu nhầm đau đớn, cay đắng hơn khi người anh không thể tỉnh táo để xóa bỏ nghi ngờ còn người em không thể thuyết phục để anh trai tin mình.

Tác giả dân gian đã thật tinh tế khi cho người anh hoá thân thành cây cau, thân cau cứ gắng cao lên từng đốt, từng đốt như hiện hữu nỗi ân hận khắc khoải bồn chồn của anh muốn thật nhanh nhìn thấy em, tìm thấy em; còn nhân vật người vợ hoá thành dây trầu không mềm mại quấn quít quanh thân cau nương tựa, đó là những sự hoá thân dẫu đau buồn vẫn gợi cái linh diệu của vận động, cái ấm áp của lứa đôi, cái an ủi dịu dàng của giao cảm…

Chỉ riêng người em, đau đớn, tủi hổ mà hóa đá! Thông thường, khi tuyệt vọng, cùng đường vì đau khổ bất hạnh không được chia sẻ, vì những oan uổng uất ức không thể giãi bày, người ta sẽ tìm về với gia đình, người thân, những người cuối cùng trên trái đất mênh mông này luôn hiểu và tin họ, chở che, an ủi yêu thương họ. Nhưng người em đã không còn cha mẹ, nay cũng không còn anh chị, không còn gia đình, nhà cửa, người thân, một mình giữa trời đất cùng nỗi oan khuất không thể trần tình với bất kì ai trên đời, nhục nhã uất hận tới rắn đanh thành đá khối, âm thầm, cao ngạo, lạnh lùng, vạn triệu năm “trơ gan cùng tuế nguyệt”…

Nghĩ về những sự hóa thân này, nhiều khi tôi cứ băn khoăn tự hỏi: không biết thực chất đây là sự hóa thân của cứng cỏi hay yếu mềm? Theo cốt truyện, tiền thân của cây cau hay dây trầu là những nỗi niềm ân hận, đau buồn, tuy nhiên, sau khi hóa thân, chúng vẫn quấn quýt trong màu xanh của sự sống, vẫn rời rợi sức sống – nghĩ theo cách tích cực thì đó là biểu hiện của sức mạnh giúp con người vượt qua nghịch cảnh, kể cả những nỗi đau đớn hay niềm ân hận tưởng không thể vượt qua. Nhưng trong tiềm thức âm thầm, tôi vẫn thật buồn về cái “vượt qua” hồn nhiên, nhẹ nhõm ấy, nó như một dạng thái của sự lãng quên trong trôi chảy, như khi tôi nghe những câu an ủi hoặc tự an ủi trong phim, trong truyện: “Mọi chuyện đã an bài, không thể thay đổi, mình vẫn phải tiếp tục mà sống chứ!” – dù biết câu nói ấy tuyệt đối đúng!

Bởi lòng tôi luôn canh cánh nghĩ về những nỗi đau hóa đá, nó không chỉ vĩnh viễn lặng câm mà còn như vĩnh viễn vô tri, nó là dạng tồn tại không sự sống, nó là cái mềm yếu đông kết, rắn đanh, là sự cô độc cao ngạo của lòng người; nó là biểu hiện rõ nhất của sự vĩnh hằng cho niềm yêu hoặc nỗi đau, vĩnh viễn không thay đổi! Có lẽ đó chính là những nghịch lí quen thuộc của cuộc đời khi sự mạnh mẽ mang hình mềm mại, còn khối rắn chắc cứng cỏi lại gói bọc yếu mềm.

Và hình như cũng chỉ có người Việt với quá nhiều những cuộc chia ly dù màu đỏ hay xanh, quá nhiều những lời hứa dù đá vàng hay mây gió, quá nhiều những chi phối của nghịch cảnh hoặc những phai nhạt của lòng người, để những mỏi mòn đau khổ “không hoá thạch kẻ ra đi mà hoá thạch kẻ đợi chờ” (lời thơ Chế Lan Viên); cũng có quá nhiều u uất đắng cay không thể hóa giải, không đặng trần tình, khiến “hoá đá” trở thành motif dân gian quen thuộc… Trong những chuyến đi, tôi nhận thấy một điều không hẳn là ngẫu nhiên: trải dọc từ Bắc vào Nam, tỉnh thành, huyện xã nào cũng có nghĩa trang liệt sĩ, và nơi nào có núi trông ra biển thì hầu như đều có những mỏm đá được đặt tên Vọng phu. Trong truyện ngắn Cỏ lau, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tạc hình những người đàn bà bằng đá trầm mặc, u buồn giữa thung lũng vùng núi Đợi, nơi bạt ngàn cỏ lau hiu hắt xác xao giữa gió Lào bập bùng, nơi qui tụ đặc quánh đợi chờ và nước mắt cặn khô sắc đá, nơi những mảnh đời dang dở chỉ biết nương lòng mình bên đá cô đơn!

Câm lặng trong khối rắn chắc kết tụ ức triệu năm, đá không đơn thuần là hiện hữu của thân phận hay nỗi niềm, tính cách, đá đã trở thành biểu tượng cho trí tuệ trong sự im lặng thâm trầm mang màu triết học! Lẩn thẩn dông dài, lại nhớ tới tâm nguyện thanh sạch u buồn của Ức Trai xưa:
Hà thì kết ốc vân phong hạ?
Cấp giản phanh trà chẫm thạch miên
(Bao giờ làm được nhà dưới ngọn núi mây,
Để múc nước khe pha trà và gối đầu lên đá ngủ)!
Và cũng chỉ có Ức Trai tiên sinh mới cảm nhận kì lạ như thế khi “Côn Sơn hữu thạch/ Vũ tẩy đài phô bích/ Ngô dĩ vi đạm tịch” ( Côn Sơn có đá/ Mưa xối rêu xanh đậm/ Ta lấy làm chiếu êm) – có lẽ Người ghê sợ thế gian với “Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn/ Lòng người quanh tựa nước non quanh” nên tới với đá tìm êm, tới với suối sông miên man trôi chảy đặng tìm bất biến thủy chung, tri kỉ chân tình! Mấy ngàn năm trước, Aesop của Hy Lạp cổ đại vì hiểu con người mà yêu con thú rừng; có khác gì Ức Trai của nước Việt thế kỉ XV sợ lòng người cứng lạnh mà tìm tới đá êm mềm để an nhiên thanh thản!

Tôi luôn bị ấn tượng bởi những ngọn núi đá lặng thầm và cô độc, trầm mặc và vô tri – sự tồn tại lặng lẽ ấy như nằm ngoài thời gian, ngoài trôi chảy, bất chấp sự nước chảy đá mòn…Những chênh vênh vững chãi, những cứng cỏi yếu mềm, những an nhiên đau khổ – chất triết học thâm trầm như được chiết ra từ những nghịch lí của đá. Để ta nhìn vào đá mà sống, mà hiểu những lẽ có thể và không thể của cuộc đời; để ta bình thản hóa thạch mọi nỗi đau hay sự yếu mềm vào tầng bậc điệp trùng, cứng rắn và lạnh lẽo.

Đi trên con đường quanh co, trập trùng đèo núi, chợt nhớ tới câu ngạn ngữ quen thuộc:“If the mountain will not come to Mohammed, Mohammed must go to the mountain.” (Nếu núi không đến với Mohammed thì Mohammed phải đến với núi)! Vẫn biết câu ngạn ngữ chỉ là một cách ví von cho muôn vàn tình huống xử thế cõi đời, nhưng không biết sao vẫn ngậm ngùi buồn. Bởi đâu phải nhân gian luôn có những Mohammed vứt bỏ tất cả để tìm tới tri âm; bởi đá núi lặng thầm và bất động vạn triệu năm chỉ có thể đợi chờ; và bởi trên đường tới với sự câm lặng lớn lao là muôn vàn líu lo nhỏ bé, quyến rũ, mê hoặc, cho người quên lãng. Nên ghềnh đá trong bài thơ Lermontov mới cô đơn đến thế sau những giao cảm dịu mềm:

“Đêm mây vàng ngủ lại.
Trên ngực đá khổng lồ.
Sớm lên đường bay vội.
Trên trời xanh nhởn nhơ.
Nhưng trán nhăn ghềnh đá.
Một vết ướt còn ghi.
Cô đơn đá ngẫm nghĩ.
Khóc thầm giữa hoang vu”

Mùa heo may ngang ngõ

Một ngày nào đó, ta thức dậy thật sớm chỉ để nghe tiếng gà gáy xa xa, chỉ để nhớ tiếng chổi của bà xao xác hàng tre, chỉ để pha ấm trà chờ bình minh ló dạng. Ta không còn thích những nơi ồn ào huyên náo, mà chỉ thích trầm mặc một mình nghe gió heo may về ngang ngõ nhỏ. Mùa đã thật hiền rơi trên mái ngói. Mùa đã đến tự bao giờ và ta cũng heo may.

Một ngày nào đó

Và ta cũng heo may

Mùa đã thu hay là ta đã thu mà trên mái tóc xanh đã vương vài sợi bạc. Ta luống cuống che đi dấu ấn của thời gian. Ta ngỡ ngàng nhận ra khóe mắt đã có nhiều nếp nhăn hơn. Ta cũng không còn dễ khóc, dễ cười, dường như cảm xúc cũng rêu phong như những khúc gỗ mục ngoài vườn, như chiếc vách cũ đi qua bao mưa nắng. Thời gian làm rong rêu bám đầy cây, bám đầy trong tâm trí ta. Rong rêu luôn cả những lời nói. Ta không còn thích nói quá nhiều, dù là chứng tỏ bản thân hay giải thích, biện minh. Ta ngày càng kiệm lời ngay với chính bản thân ta. Có phải khi gió heo may về làm lòng ta se thắt?

Những ngọn gió đìu hiu của buổi heo may nó lạ lắm. Vừa cho ta cảm giác dịu dàng để cảm thấy hài lòng mà an trú trong hiện tại, lại vừa khiến ta bồi hồi hoài niệm những ký ức xưa.

Chắc có lẽ là ta đã già nên đổ thừa heo may, chứ gió thì làm gì biết tiếc thương những ngày tháng cũ. Gió chỉ vô tình đi ngang qua nỗi nhớ, gió chỉ vô tình làm cho chiếc lá vàng rơi. Gió chỉ vô tình làm cho những khuôn mặt người trầm tư hơn sau lớp sương của thời gian. Ta thì cứ mặc nhiên để cho gió thổi qua thời thanh xuân tươi đẹp.

Ta bỗng muốn dọn dẹp căn phòng cũ, dọn dẹp lại tâm trí với mớ ngỗn ngang, phế tích của thời gian. Đã lâu lắm rồi ta không còn thói quen đọc sách, những cuốn sách bị bỏ quên bám đầy bụi, nằm co ro trên giá buồn tênh. Ta lau từng cuốn sách như làm sạch tận ngõ ngách tâm hồn. Cơn gió đi qua làm cho chiếc rèm cửa đong đưa.

Phải rồi, ta sẽ pha một ly cà phê hay một ấm trà, ta sẽ cắt hoa ngoài vườn vào cắm vào chiếc lọ nhỏ. Ta muốn đọc lại những cuốn sách chiêm nghiệm về cuộc đời. Cuộc đời đã đi qua hay cuộc đời còn lại, không biết cuộc đời nào là dài hơn?

Phần cuộc đời đã đi qua, phải chăng ta chưa từng nghĩ suy ta đã có nhiều thời gian đến thế? Ta đã đi qua rất nhiều sự đãi ngộ của tuổi trẻ, vuột mất rất nhiều cơ hội trong tầm tay. Giật mình nhìn lại thì gió đã heo may, nếu nói là không tiếc nuối thì có lẽ là không đúng. Cuộc đời mà ta đã bỏ lại phía sau cũng cho ta nhiều thứ, cho ta những nghịch cảnh để ta trưởng thành. Cho ta những mùa nắng, mùa mưa, cho ta những cuộc tình, từng cuộc tình thoảng qua như gió.

Ta bâng khuâng nghĩ về cuộc đời còn lại, cuộc đời sau này, cuộc đời chắc chắn sẽ không thể nào như trước kia, đầy vội vàng và sốc nổi. Ta muốn lui về một nơi không quá ồn ào, sống tỉnh thức trong từng phút, từng giờ, cho bản thân mình và cho những người thân. Khi gió tần ngần trên khóm hoa thạch thảo chở mùa sang, giàn tigon cũng rực hồng những cánh hoa tim vỡ, ta ngẩn ngơ như người bao năm rong ruổi, bỗng một ngày được an nhiên bên hiên nhà có mây bay. Tiếc nuối ư, ảo tưởng ư? Chưa bao giờ ta thấy điều đó vô nghĩa như lúc này. Chi bằng cứ buông bỏ hết những nghi kỵ trong lòng, buông bỏ sân si và chấp niệm, chỉ giữ những niềm tin và đích đến.

Ta muốn sống nhẹ nhàng như cơn gió ngoài kia, dịu dàng mà sâu lắng, đủ làm mát dịu lòng người nhưng không quá lạnh. Đủ cho ta thấy ta không còn trẻ nữa nhưng cũng chưa quá muộn cho những bắt đầu.

Gió vẫn thổi và mây trời vẫn cứ bay, sau bao nhiêu tổn thương ta lại về khâu vết thương lòng với trái tim thổn thức. Bỗng dưng ta muốn tự do trong khoảng trời của riêng mình để một sớm mùa thu, ta lại bâng khuâng nghe heo may đang về ngang qua ngõ.

Người đàn bà tắm cùng ánh trăng

Tác giả Trần Thị Hồng Anh

Đ êm rung lên bởi tiếng ri ri gọi bạn của lũ dế trong góc bồn hoa mười giờ đẫm sương. Ai đang trong đêm lắng nghe cung đàn thiên nhiên để mà nhớ mà thương? Ai đang lắng nghe âm thanh của đêm vọng dài theo ánh trăng mờ ảo? Là tiếng cu gù gọi bạn mé đầu con đường vào làng hay khắc khoải bởi con chim cuốc lẩn mình trong bụi duối bên bờ ao vắng? Ừ thì là nhớ đấy, là thương đấy!!!

Có sao đâu khi con người đang ở trong một đêm trăng tròn của mùa thu. Có sao đâu khi lòng người ngập tràn ánh trăng mơ màng rắc bụi lên cảnh vật. Trăng nhả từng dòng sáng vàng ươm xuống cây lá trong vườn. Trăng soi sáng tiếng nước chảy tí tách ở cái máng sau nhà. Trăng chiếu lên từng gáo nước vục vào thùng.

Mát đến tê người. Rười rượi trăng. Nõn nà trăng. Trăng lơi lả trên da thịt trắng ngần. Trăng chảy tràn lên suối tóc đang dập dềnh trong nước. Trăng tự hỏi mình, phiêu du bao lâu mà chưa chịu dừng bước? Đa tình độ nào mà còn ngẩn ngơ, đợi chờ một mùa hoan lạc trong mộng tưởng. Hạ để mặc ánh trăng trôi trên cơ thể mình.

Lập thu rồi đấy! Sao vẫn nóng như lửa thế? Ngày nắng dồn sang đêm, trăng như khát những cơn mưa mà háo hức với những giọt nước vỡ òa. Hình như trăng thổn thức. Hình như cánh hoa quế đang rơi. Hình như tiếng cá quẫy bên bờ khe.

Hạ không nghe thấy gì, chỉ vọng lại tiếng của trăng, của gió. Bàn tay Hạ khỏa nước, ánh trăng vỡ vụn, loang loáng, ướt đẫm. Trăng chơi vơi trong miền nhớ của cô. Một bờ vai, một khuôn ngực và mùi mồ hôi đượm nắng … đã lâu rồi, chưa trở lại cùng trăng.

Mảnh trăng mỏng manh như cánh lúa lửng lơ trên màn trời xám đen lốm đốm hồng của bình minh sắp rạng. Vành trăng đầu tháng lẻ loi phảng phất niềm thương cảm, gợi sự cô đơn và cảm giác bâng khuâng xao xuyến về một nỗi nhớ nhà. Ngôi sao Hôm nhấp nháy phía xa như ngọn đèn chỉ lối của một hòn đảo xa xôi nào đó trên biển cả mênh mông. Vành trăng thanh tân như đang vin vào đỉnh núi mờ mờ ở cuối tầm mắt mà dỗi hờn, mà nũng nịu. Trăng như nàng thiếu nữ mềm mại và yêu kiều khiến khung trời mùa thu bừng lên ngời sáng. Hạ đứng bên cửa sổ, choáng ngợp với vầng trăng nghiêng trước mặt. Dịu dàng như mây nước, trong trẻo và vàng óng như tơ mảnh nổi lên trên nền trời. Không gian đẹp và mát mẻ lúc rạng đông của một ngày đầu thu thật dễ chịu. Hạ để lòng mình trôi dạt trong một miền trăng thượng huyền ảo diệu như cổ tích.

Trăng dãi dề trên đồng cỏ xanh tươi. Những ngày lập thu sương bồng bềnh như một chiếc khăn màu trắng sữa quàng vào các ngọn núi lô nhô bao quanh thung lũng. Ánh trăng nhòe trong sương khiến con đường mòn bên bờ cỏ lúc mờ lúc tỏ. Ngày còn nhỏ, Hạ vẫn thường cùng đám bạn chơi đùa ở đây vào những đêm trăng sáng. Hạ nhớ khi so bóng cùng bạn, dù có cố gắng bao nhiêu thì cái bóng của Hạ cũng ngắn tủn hơn mọi người, tròn xoe và không bao giờ đứng yên. Bởi cô phải nhón chân, khuỳnh hai tay cho lớn như mọi người. Cái tên “Hạ hột mít” có từ những lần chơi đùa như thế. Cái tên ấy đi theo cô suốt năm tháng học trò và những lúc cô trở lại với đồi cỏ, trở lại với những đêm trăng quê hương.

Không hiểu sao trong cuộc mưu sinh mải miết lâu lâu gặp một người làng gọi cái tên này, lòng cô chợt có cảm giác thật bình an.
Hạ nhớ, không phải trăng tròn nào cũng giống nhau, không phải trăng khuyết cứ là trăng khuyết. Hạ thích nhất là trăng khi thu về. Bởi mỗi lần ngửa mặt lên ngắm trăng vào mùa đông cô chỉ có cảm giác lạnh lẽo, ánh trăng làm không gian rộng lớn hơn. Những lúc ấy, cô thấy mình thật bé nhỏ và trống trải. Mùa hè thì nóng ơi là nóng vì gió Lào quạt suốt ngày đêm nên nhìn ánh vàng của trăng cũng bỏng rát. Mùa thu, cây thị cao ngất cuối đồng cỏ thoảng mùi hương quả chín đến tận đầu làng.

Mỗi đêm trăng sáng Hạ hay có cảm giác mùi thơm ấy tỏa ra từ trái vàng đang chơi vơi trên bầu trời. Hạ hít hà mùi hương ngòn ngọt đang trùm lên đồng cỏ. Đêm dần về khuya, sương càng đậm, mùi thị chín càng nồng nàn. Nhưng chưa bao giờ cô đến gần gốc thị vào đêm, cô sợ con ma trốn trong đó. Mẹ bảo không được trèo cây hái quả vì con ma đó thích ăn canh giữ. Sau này lớn lên Hạ mới biết mẹ sợ đám trẻ trèo cây sẽ ngã nên nói vậy. Lớn lên cô cũng hay ngắm nhìn cây thị từ xa như lúc còn nhỏ. Nhưng chỉ cần nhìn thấy cây thị qua cửa kính xe ca là cô biết mình đã trở về nhà. Cây thị và trăng mùa thu là nỗi nhớ của Hạ về quê nhà, về những ngày thơ ấu êm đềm bên cha mẹ.

Cũng trên đồng cỏ này, dưới ánh trăng mùa thu, lần đầu tiên Hạ nói lời yêu thương với anh – người con trai đến từ triền núi phía bên kia, nơi có những dải sương trắng uốn lượn mềm mại như lụa. Anh mang đến cho Hạ những bông cúc dại hái trong vạt rừng thưa nồng nồng mùi của nắng tháng tám. Anh kể cho cô nghe chuyện về chú sóc nâu tinh nghịch cắn vỡ hạt dẻ lách cách trên bãi cỏ, về tiếng chim bắt cô trói cột xót xa trong chiều mưa buồn của những ngày giông núi giữa mùa thu.

Con đường đem anh đến với cô chạy xuyên qua đồng cỏ lên đến tận đỉnh núi chập chờn bởi mưa và sương se lạnh. Ánh trăng cũng không thể làm cho con đường sáng hơn trong sương. Đôi khi Hạ nghĩ nếu cô và anh đừng rời xa đồng cỏ, đừng rời xa ngọn núi đầy sương kia thì ánh trăng mùa thu sẽ mãi mãi sáng trên triền núi ấy cùng với tình yêu của cô. Và cô sẽ không phải khắc khoải bao đêm nhớ về hương thị xen trong mùi cỏ mới, cũng không phải nhớ về những đêm trăng tãi vàng trên máng nước sau nhà. Anh và cô cùng ra đi nhưng không trở về cùng nhau như những người đã rời xa đồng cỏ. Hạ không đợi anh để cùng trở về ngắm ánh trăng thu. Ai rồi cũng lớn lên và ai rồi cũng sẽ khác. Chỉ có vầng trăng nghiêng trên đỉnh núi vẫn đợi chờ cô trở lại.

Chiều nay trên chuyến xe trở về nhà, bầu trời đã đầy sao, không thể nhìn thấy ngọn cây thị đang chìm lấp trong bóng đêm. Nhưng Hạ biết nó bận bịu với cơ man nào là quả đang lơ mơ vàng để chuẩn bị đón một mùa thu chín nẫu thơm nồng. Và triền núi ấy vẫn quấn vành khăn bạc màu sương gió. Đêm nay trăng vẫn rười rượi chảy trên máng nước. Rười rượi trên cánh tay trần thơm mùi cỏ dại. Và xôn xao trong mùi hương chín bói của vành trăng cong mùa thu. Tiếng chim khách thánh thót vọng đến từ nơi nào khiến cho Hạ bỗng dưng hồi hộp. Hình như mẹ cha đang bàn chuyện xem ngày sang bên kia núi, hình như có ai đó đã trở về trước mùa thu …

Rót vào những mùa trăng

Tác giả Vĩnh Hoài

T ôi hay nghĩ về giọt nước mắt của miệt bưng biền. Thấy nó trong ngần, đơn thuần và thân thương quá đỗi. Câu chuyện nằm mãi trong lòng không bao giờ kể được. Nào phải chuyện tôi không tin người đời không hiểu, mà thật tình là có nói ra liệu mấy ai hiểu hết nỗi xót xa của cố hương, mỗi bận có vài đứa con chọn xa xứ, chọn gieo đời mình vào dòng mênh mông của nỗi cơ cầu thăm thẳm chốn lạ quê người.

Đã bao mùa trăng tròn, gầy trên nền trời vời vợi. Trăng trên đồng thấy vậy chớ không giống trăng nơi phố thị. Tôi đổi cơn khát gió khuya còn vương mùi ngái nồng của đám cỏ non xanh mọc đầy trên bờ ruộng. Đổi cả một tuổi thơ chưa trọn vẹn nụ cười bên mái hiên nhà liêu xiêu mà chan chứa nghĩa tình. Đôi chân tôi chạy. Chạy nhanh trong cơn tất tả ngày tháng. Chạy để quên luôn mùa trăng này mình đã rót được gì vào đó.

Nửa tháng trước, tôi có chuyến công tác về mấy tòa án ở miệt cùng quê mình. Tranh thủ thời gian tôi ghé nhà thăm nội, thăm má và mấy em. Từ dạo ra trường rồi công tác ở tòa tỉnh, tôi ít khi được về nhà. Mỗi lần về là mỗi lần vội vã. Bộ vạc tre ngồi chưa ấm hơi, cái ôm nội chưa đủ lâu để lau khô đi giọt nước mắt. Má nhìn theo mãi làn khói xe tôi chạy vội khi có án mới, rồi nén lại tiếng thở dài thườn thượt.

15 năm rồi tía không quay về. Tía mãi nằm đó, sâu thật sâu chỗ mấy gốc mãng cầu sau vườn nhà. Trong mớ ký ức chấp vá của đứa con quen mùi khói bụi sặc nồng xa hoa thành phố, tôi mơ về dáng hình tía của những ngày tôi lên 9, lên 10. Tía rót vào mùa trăng là nỗi nhọc nhằn của đời nhà nông, của từng đêm băng đồng đi soi ếch, cắm câu. Giàu có chi đâu mà không phải làm lụng. Cái nghèo trong mắt tía không phải là kẻ thù. Tía từ lâu đã xem cái nghèo như phận số mình phải chấp nhận rồi đi qua.

     Tía nói nghèo cũng làm, mà giàu cũng phải làm. Đôi mắt thơ dại của tôi tròn xoe nhìn tía gỡ mấy con cá lóc đồng ú quay. Rồi làm đến khi nào hả tía, tôi bất giác hỏi. Tay tía vẫn không ngừng việc móc mồi mới vào lưỡi câu. Làm đến khi nào trăng không còn mùa nữa thì thôi. Quan trọng là còn sống thì con người ta còn làm, không cần biết ít nhiều, miễn sao lòng mình thật sự thấy đủ. Cơn gió đồng giữa đêm mát rượi. Mạ non tía cấy hồi mấy tháng trước, giờ đã thành lúa cong oằn hình trái me. May mà đêm nay tôi xách được về nhà một bao cá nặng, chớ không thì má lại la vì cái tội trốn ngủ theo tía ra đồng. Tôi bỏ lại sau lưng là đám lúa chờ ngày được gặt, nặng đầy nỗi hồn nhiên không hiểu cho chữ đủ tía rót vào dòng trăng chảy trên đồng.

Trăng đã lên quá ngọn tre đầu làng, đêm nay má lại không ngủ được. Bên khung cửa tre, má ngồi vá mấy cái áo đi đồng bung chỉ của thằng Ba. Ngần ấy mùa tía bỏ đồng, cũng là ngần ấy tháng ngày má rót từng giọt nhớ chồng má vào trăng. Tôi với thằng Ba hỏi má sao không đi thêm bước nữa đi, tụi con hổng có buồn phiền gì đâu. Đi cho tuổi già đỡ cô liêu. Má cười cười, tụi bây ăn đã đời mấy miếng cá má gỡ xương nên giờ muốn bay đi chớ gì. Má ngoài ngũ tuần, mày hoa da phấn năm nào giờ đổi bằng từng vết đồi mồi, chân chim. Tay má giờ khác hẳn. Đôi tay ấy chai sần, đen đúa một màu cằn cỗi của phận người khô khốc.

Từng nỗi niềm của má được ủ xuống đất quê. Mùa nắng về làm cho cánh đồng nứt toạc ra, tiếng thương lời nhớ cho tía cứ vậy rồi thi nhau dâng trào, lan ra khắp ruộng, kéo dài đến tận cuối miền chân mây. Cơn lũ phù sa bồi đắp trái tim bưng biền, có khi còn không đủ phì nhiêu bằng những đêm má nhớ về tía. Ngày đưa tía về chỗ mấy gốc mãng cầu như di nguyện của tía, má khấn xin lại của tía một tấm áo sơ mi bạc màu, chỉ may bung ra, dính đầy mủ chuối. Má không tẩy lại chiếc áo. Má nói tẩy làm chi, có tẩy hết được cơ cực của tía tụi bây còn dính đầy trên áo đâu mà tẩy. Hơn mười năm má vẫn giữ chiếc áo duy nhất còn lại trong nhà của tía. Thi thoảng má có đem ra giặt rồi đem phơi cho đẫm nắng, đẫm trăng và sương trong vườn. Tôi nói má sao hông đem xả lại bằng nước xả vải cho thơm. Má lắc đầu, tay má đang ôm cái áo của tía vô cất tủ. Có mùi gì thơm hơn mùi đất, mùi của dân quê dầm sương dãi nắng đâu con. Nhiều cái hào nhoáng, tiện nghi thấy dị mà hổng mang nhiều hạnh phúc bằng mưa nắng, con nước xứ mình đâu. Cuộc đời này bản chất nó hông có buồn, là do con người sống mà chưa bao giờ biết đủ nên mới thấy đời hông vui, rồi quay sang trách đời. Tôi gặp lại chữ đủ của tía trong lời má. Mất gần hai chục năm cho một câu trả lời từ câu hỏi thuở thiếu thời. Lúc nhận ra mùa trăng ở quê vẫn đẹp dù có những đồi mồi, chân chim má rót vào, tôi cũng hiểu ra được lời tía dạy.

Tôi nợ thằng Ba là bao mùa trăng nó rót cơ hội học hành đời mình vào đó. Nó đổi cho tôi bước chân thẳng tắp trên con đường công danh. Đường học của thằng Ba cắt ngang vào giữa năm lớp 9. Thấy má thân sáo một mình phải lo trong ngoài sau ngày tía thác, nó xót rồi cũng nghỉ ngang chuyện chữ nghĩa. Ngày tiễn tôi lên xe khách ra sân bay Cần Thơ, thằng Ba vỗ vai tôi thủ thỉ, Hai ráng mà học đi nghen, đời em lớp 9 cũng coi như sài được chút đỉnh rồi, Hai đậu đại học mà bắt Hai bỏ dở thì còn tiếc hơn em nữa. Nước mắt tôi chảy dài suốt chuyến xe khách lần đó. Tôi thấy mình ích kỷ làm sao, hẹp hòi làm sao. Đáng ra người nên đi tiếp trong xấp anh em phải là thằng Ba. Tôi là anh lớn vậy mà không nhịn nhường, phải để em tôi chuốc khổ thay mình.

Thằng Ba tập thương đồng, thương mớ cần câu rồi đống lưới giăng cá. Sáng sớm đến khi mặt trời chín đỏ rụng xuống sau chỗ mấy ngọn núi xa xa, nó đều ở ngoài đồng, ngoài vườn. Mùa nắng thì đi thăm đồng, làm cỏ vườn sẵn kiếm mấy mớ rau. Mưa về thì nó đi cắm câu, đặt lờ hay soi nhái. Ai cũng nói tôi nhìn giống tía y như đúc. Vậy mà ít ai hiểu, trong đám anh em thì người giống tía nhất phải là thằng Ba. Nó giống tía từ nét trầm mặc kiệm lời, tới cái sự lam lũ chịu thương chịu khó cho gia đình cũng không xê dịch đi đâu được. Tôi hỏi thằng Ba có giận hờn gì tôi không mỗi lần tôi bay từ Hà Nội về thăm nhà thời còn sinh viên. Dù là ngày đại học, hay cho tới lúc tôi ra trường thì câu trả lời của nó vẫn cứ vậy, gọn lẹ và dứt khoát trong chữ không. Nó cầm ly rượu đế rồi nốc cái chóc. Xong nó khà ra một hơi dài kiểu sung sướng lắm. Có gì đâu mà giận Hai ơi, giờ cũng quen, cũng thương nhánh mạ, hòn đất rồi. Ai cũng có cái số hết mà, như tía hết nợ trần thì tía đi, như em thương Hai, thương nhà thì em chọn gắn đời mình bên ruộng đồng. Quan trọng là gì Hai biết hông? Là mình đi sâu vô cái số đó, mình làm cho nó đẹp theo cách lòng mình muốn, chớ chuyện người ta chê khen có là khỉ gì đâu mà, thấy đủ là được. Tôi thấy lòng mình được giải thoát khỏi nỗi ân hận phần nào. Hóa ra trường đời mang cho thằng Ba nhiều cái mà giảng đường năm đó không cho tôi được. Như chuyện thằng Ba rót luôn cả sự khiêm nhường, sự bao dung và yêu thương vào dòng trăng đang trôi theo con nước ròng gần sáng này vậy.

Con Út sắp sửa gả chồng. Tôi đang thu xếp mớ công việc trên cơ quan để cuối tuần về làm lễ xuất giá cho nó. Mồ côi tía từ buổi lên 4, con nhỏ dại khờ có hiểu gì về khoảng cách âm dương đâu. Hỏi tía đâu thì nó nói nhẹ bẫng, tía chết rồi còn đâu. Hỏi biết nào tía dìa hông, nó cũng nhẹ bẫng đáp chết rồi sao dìa cha nội. Con nít thấy vậy mà hiểu chuyện lắm chớ hổng có giỡn chơi. Chỉ là cách tụi nó biểu hiện ra bên ngoài cũng đơn giản như chuyện con Út buồn thì khóc, vui thì cười. Nó không dằn vặt nhiều như má, không hoài thương nhiều như nội, càng không thắt lòng nhiều như tôi với thằng Ba.

Thơ ấu con nhỏ vắng đi tía, coi là chuyện buồn, nhưng cũng là điều may mắn. Đời con nhỏ nên rót vào mùa trăng là những mộng mơ ngọt mềm, thay vì là từng bận tất tả chạy ngược thời gian kiếm tìm hình bóng của tía. Không nhớ nhiều thì sẽ chẳng đau khổ nhiều. Mong bến đỗ của con Út sẽ ngọt lành một lần và mãi mãi. Chú rể cũng có đâu xa lạ gì, là cấp dưới của tôi đó thôi. Tôi vỗ vai thằng em đồng nghiệp cũng sắp sửa làm em rể tôi, trông con nhỏ dùm anh. Thằng nhỏ cười hiền, anh yên tâm em sẽ rót vào đời vợ em là sự thấu cảm, sự yêu thương để đắp bù những mùa trăng thơ ấu kém trọn vẹn tình cảm gia đình của vợ em. Thằng nhỏ thư ký mới vào cơ quan ba năm mà hiểu chuyện cực kì. Quan trọng là nó cũng biết và thương những mùa trăng quê hương.
Tôi nhẹ lòng phần nào, lúc nhìn con Út lên xe hoa của một người đàn ông cũng biết lời thì thầm của những mùa trăng đời nó.

Dân xứ tôi ai cũng miệt mài rót đời mình vào trăng. Từng mảnh đời dẫu có muôn màu, muôn kiểu nhưng đều chung câu nói giản dị chân phương của tấm lòng. Tôi nhớ nội, nhớ tía, nhớ má rồi mấy em ở nhà. Ai cũng đều rót một điều gì đó vào mùa trăng rồi. Rót cho trăng thêm say câu hò điệu lý tình quê. Rót cho kẻ đi xa như tôi biết say vị men tình của miền cố thổ. Tôi choàng tỉnh khỏi đống ngang ngổn trong lòng. Phát hiện mình cũng đã từng rót điều gì đó vào những mùa trăng, trong những ngày chân không trên đồng nhưng tim sớm đã nằm sâu trong đất.

Phải lòng gánh cá biển ngang

thanh-tuan
Tác giả Thanh Tuân

T ự nhiên thèm quê chi lạ. Thèm quê từ cái giọng mô, tê, răng, rứa đặc sệt; thèm đến cái tô mì với sợi mì trắng ngần, cắn cái phụp nhai nghe rạu rạu trái ớt xiêm giòn tan cay xè; thèm hung bữa trưa mô đó tô mắm xổi có thơm chín trộn mắm cái cay thơm phức mũi….

Đứa bạn từ Nhật gọi về nghe cái giọng thống thiết quá. Bạn hỏi nay vào mùa cá kình chưa mi. Tau thèm cá kình kho khế quá. Mà ưng con cá biển ngang tươi rói nứ. Cá nứ nấu mới ngọt. Lời nhắc của bạn lại làm mình thấy như lòng mình khô hạn quá chừng. Lâu rồi chưa bắt gặp lại gánh cá biển ngang ngày nào.

Con gió nằm ngang đong đưa sóng biển. Sóng biển lại rì rầm hát ru bờ cát. Lưng buổi khi trời trong mướt, nắng còn dìu dịu, mấy dì quảy gánh từ biển rảo bước lên khắp các ngả đường quê. Ai…cá hông…??? Tiếng rao kéo dài như mệt nhoài theo từng bước mà vẫn còn nghe trong lanh lảnh. Đó là tiếng rao của những gánh cá biển ngang.

Chẳng phải là những xe bán tải nhỏ kiểu xe chở đầy các mặt hàng từ hàng khô đến rau xanh, cá, thịt… Cũng chẳng phải những chiếc xe máy có đèo hai thùng to hai bên vừa chạy vừa kéo còi toe…toe… Lặng lẽ rảo từng bước trên những con đường quê, tấm áo bà ba thiệt sờn vai và cái nón cũng cời đi bạc phết, các dì, các mẹ Tam Hòa, Tam Tiến, Tam Quang, Tam Thanh… lần lữa với cái đòn gánh oằn đi trên vai bước từng bước dẻo dai qua các cung đường quen thuộc. Sợi dây nhợ đen gấp thành bốn tô gióng thay cho chiếc gióng mây ngày xưa, phía dưới là một chồng các cái mẹt nhỏ. Mỗi mẹt được sắp đều một lớp cá.

Cá rựa, cá sơn, cá liệt, cá kình… Những con cá mới bắt được còn tươi dong phô lớp vảy, lớp da sáng bóng óng ánh dưới nắng. Không có các loại cá to như cá ngừ, cá sòng… Đây là những loại cá nhỏ ngư dân đánh bắt gần bờ bằng giã. Cứ lưng đêm, những ngư dân chèo ghe ra biển ven bờ. Đó là những gia đình nghèo không sắm nổi thuyền lớn vươn khơi. Từ những con ghe nhỏ, giã lưới được thả xuống rồi hai hoặc ba ghe vây quanh kéo giã. Tờ mờ sáng, những ghe nhỏ đã qua một đêm lao động trở về. Cá được các mẹ, các dì gom lại, phân loại và sắp vào các mẹt. Cái đôi quang gánh lại kẽo kịt trên vai được các mẹ đưa đi qua hết các ngã đường quanh co tận xóm cát, xóm đồng dù nhỏ và xa tít.

Cá giã các dì không bán kí, không cân, cũng không đếm chục. Cái mẹt được đan bằng tre như chiếc tràng nhỏ mặc định là đơn vị đong. Cá lớn thì ít con lại, cá nhỏ nhiều con hơn. Một mẹt tùy loại cá mà giá tiền khác nhau. Cá sơn bảy nghìn, cá liệt bảy nghìn, cá kình mười nghìn, mười hai nghìn… Đặt gánh cá, các mẹt được bày ra la liệt xung quanh để người mua lựa chọn. Không có chuyện trả giá hơn thua vì người bán mặc nhiên chẳng bao giờ nói thách. Có chăng một hôm nào đó biển động, giá có nhỉnh lên đôi ngàn thì người mua chậc lưỡi, người bán cũng hiền từ khuyến mãi một nụ cười hiền lành trên gương mặt lấm tấm giọt mồ hôi.

Cái mẹt cá được sớt vào trong cái tô nhựa, cái rổ tre con con, cái thau nhôm bưng từ trong nhà ra, có đôi khi là miếng lá chuối xé vội bên bờ mương. Người bán vội chồng lại các mẹt không khi đã trao cá. Đôi đồng tiền lẻ được vuốt phẳng phiu từ đôi tay dè xẻn tảo tần trao đi một cách trân trọng. Đôi bàn tay người nhận cũng đen đúa, gầy guộc đưa ra đón một cách hàm ơn. Một đôi lần mẹt cá trao đi đổi về nải chuối, bị khoai lang được xắt mỏng phơi khô, có đôi khi là vài ký đậu phộng… miễn là thuận bán vừa mua. Xong đâu đấy cái quang gánh lại được mắc lên hai đầu của chiếc đòn gánh cũ màu cháo lòng và cong oằn như cái mạn thuyền rồng. Tiếng rao lại cất lên trong trẻo…Ai… cá hông….????

Gánh cá biển ngang trở thành nỗi thắt the nhớ của những người con ven biển miền Trung đầy cát, nắng và gió. Con cá biển ngang nhỏ bé, tươi roi rói phô những vảy bạc sáng lấp lánh đem vào nấu canh khế, kho nghệ vàng dẻo quánh đã đi cùng những người dân nơi đây qua bao mùa cơ khổ. Có mấy ai biết rằng những bước chân trên vạn trùng tổ quốc, có khi vươn khắp năm châu đều được nâng đỡ từ những bước chân khấp khểnh trên mọi cung đường quanh co của từng xóm làng nhỏ bé, đều được lớn lên từ những đôi tay tảo tần, từ đôi vai gầy guộc với đôi gánh cong oằn đi vì gánh cá biển ngang mỗi sớm mai trên miền đất thùy dương đầy thương và nhớ. Phải lòng gánh cá biển ngang…

Có gì nơi túi áo của mẹ

Mộc-Nhiên-_2_

Nơi túi áo ngày xưa của mẹ có những món quà vô giá, chẳng thể nào đặt tên, phải đánh đổi bằng bao cơ cực muộn phiền, bao mùa nắng mưa hối hả. Tôi hiểu vì sao khi chiếc áo mẹ bạc tới độ chẳng nhận ra mầu mà bên trong chiếc túi vẫn còn như mới…

C hỉ tới khi những cạnh túi trên ngực áo mẹ bị bục quá nửa đường chỉ may rồi tơi tả lật xuống mới lộ ra màu sắc thật ban đầu của chiếc áo bảo hộ lao động mẹ vẫn thường mặc. Đó là khoảng vải được vuông túi bao bọc quanh năm vẫn còn như mới nổi bật trên nền áo đang dãi dầu bạc thếch…

Tôi thấy mình như được bé lại mà chạy lăng xăng ngoài ngõ, ngoài vườn chờ mẹ cùng những món quà nho nhỏ thân thương nằm trong hai chiếc túi áo hôm nào…

Cứ ngỡ dòng thời gian chảy trôi sẽ vô tình cuốn nhẹm đi bao kí ức vụn vặt của ấu thơ đời người thì hoá ra càng lớn thêm, tôi càng mồn một nhớ về những điều xa cũ. Nhớ cây ngái dại mọc tốt um nơi góc bờ rào, có tổ chim sâu đính vào đôi ba chiếc lá. Những con chim non chưa mở mắt nhưng quen hơi, rõ tiếng của chim mẹ, mỗi lần chim mẹ bay đi kiếm ăn rồi trở về là chúng rướn cổ lên, xoè mỏ ra như một phản xạ rằng: “Mẹ ơi, con đói… “. Lúc ấy tôi chợt nghĩ: “ Giá mà chim mẹ cũng có chiếc túi áo như túi của mẹ mình để đựng được thật nhiều mồi cho chim con thì tốt biết mấy!” Có rất nhiều câu hỏi “nghiêm trọng” của tuổi lên 6, lên 7 bị ngắt quãng rồi có lúc bị quên biệt đi khi tiếng mẹ gọi thì ngày nào cũng đợi chờ háo hức.

Mỗi lần đi làm vườn bãi về, mẹ bỏ cuốc từ trên vai xuống, tháo đôi ủng nhựa ở chân ra cất vào chái bếp rồi gọi tôi hối hả: “Mẹ có thứ cho con gái này!”. Chân sáo tôi nhảy nhót vì vui sướng, hai lòng bàn tay bé nhỏ chụm vào nhau đón những thức quả mẹ lấy ra từ trong hai túi áo. Những loài quả dại siêu ngon, đặc sản của trẻ con luôn săn lùng thời ấy. Sau chiếc vỏ hệt như lồng đèn hay dưới lớp vỏ dày hơn mắt lưới là những quả thù lù và quả lạc tiên vàng ươm ngọt mát. Khi là những quả ổi ương dại mà thơm đến trĩu lòng trĩu dạ. Có khi trên đường làm đồng về, các cô chú rủ mẹ vào nhà chơi rồi lại bảo mẹ vặt chùm nho thóc tím lịm hay chùm dâu chín mang về, chín tới thẫm đen và phai cả màu ra túi áo mẹ.

Là ngày mẹ trở về sau buổi chợ phiên rồi lấy trong túi áo ra chiếc cặp ghim và đôi nơ buộc tóc cùng có màu hồng xinh xắn. Tay mẹ vuốt tóc tôi rồi bảo:” Bêu nắng nhiều nên tóc con gái mẹ vàng hoe hết cả rồi đây này, bêu nhiều là bị ốm đấy nhé!”. Thế rồi bao lần tôi ốm vặt, là bấy nhiêu lần mẹ đạp xe ra tận ngoài thị trấn để mua thuốc rồi cất vào túi cài cúc cẩn thận mang về khẽ dặn tôi phải uống cho chóng khỏi.

Những ngày tiểu học, tôi chẳng vòi vĩnh mẹ để mua thứ gì cho bằng bè bạn vì biết nhà mình chẳng phải “tiền dư thóc mục” nên cũng thành thói quen. Mẹ vẫn dành dụm, bớt gạn từ chi tiêu ra để phần trong túi áo cho tôi những tờ tiền nho nhỏ đủ mua mỗi lần một gói ô mai hay vài ba chiếc kẹo vừng, kẹo dừa thơm phức vẫn bày bán ở hàng quà vặt ngay cạnh cổng trường.

Trước ngày tôi thi đỗ tốt nghiệp cấp 2 và chuyển cấp lên cấp 3, mẹ bảo với cả nhà sẽ thưởng cho tôi một chiếc xe đạp mini mới, nhưng phải tới khi tôi học gần hết lớp 10, mẹ mới đưa tôi ra cửa hiệu để chọn mầu xe ưng ý. Mẹ lấy khoản tiền cuốn gọn được bọc bằng chiếc khăn mùi xoa từ trong túi áo rồi đưa cho người chủ tiệm, dường như mẹ đã hỏi giá chiếc xe từ lâu và tích cóp đến khi ấy mới đủ. Vậy mà đã có lúc tôi sợ mẹ không giữ lời, đã có lúc tôi hờn dỗi và tủi thân nhưng chưa một lần nói ra điều ấy. Tôi đâu biết khi mình được đạp những vòng quay xe bon bon đến trường, mẹ đã phải lặn lội thân cò ngược xuôi làm lụng, chắt chiu để dành những đồng tiền thấm đẫm mồ hôi cùng nhọc nhằn lam lũ.

Nhiều khi tôi tự hỏi mẹ lấy sức mạnh từ đâu mà quần quật khắp ruộng đồng vườn bãi, lúc lại kẽo kẹt biết bao cây số khắp nẻo chợ gần xa. Có những đêm, ánh trăng giàn giụa khắp sân nhà như ngấm phải vị cay của dầu gió. Mẹ xoa dầu vào bắp chân, cổ tay, vào vai gáy một lượt trước khi đi ngủ, khi đèn học của tôi còn thắp sáng bên những trang sách ngay ngắn thơm nồng…

Đến năm, tháng, ngày con gái vu quy, mẹ mở cúc túi áo cẩn thận và lấy ra hai chỉ vàng đưa cho tôi cùng nụ cười hiền dịu. Bố kể, mẹ đạp xe ra hiệu vàng mới ngày hôm trước. Vẫn là mẹ chu đáo, vẫn là mẹ lo xa, vẫn là mẹ luôn tặng cho tôi những món quà bất ngờ, lần này là quà tặng cho con gái chút phòng thân bằng vốn liếng…Tôi đã bật khóc, giọt nước mắt long lanh niềm hạnh phúc, hình ảnh mẹ cùng chiếc áo bảo hộ giản dị mà đẹp lấp lánh nhường nào. Bên ngoài ô cửa, đàn chim sâu thoăn thoắt đậu, bay. Gà mẹ đang cần cù tãi đám lá khô trong vườn, thỉnh thoảng thấy mồi liền gọi đàn con xúm lại. Bầu trời hiền hoà xanh cao quá đỗi, lòng tôi nhẹ bẫng những nỗi niềm không tên…

Mỗi dịp về thăm nhà, tôi vòng tay ôm mẹ ngủ mà hài hước nhõng nhẽo:“ Để con gái nắn túi xem có gì nào!”
“ Đấy, còn mỗi thân già này thôi, có lấy thì lấy!”.

Hai mẹ con lại rúc rích cười và nhắc cho nhau chuyện ngày xửa ngày xưa có người mẹ “đựng cả thế giới” trong hai túi áo của mình để dành mọi thứ mang về cho cô con gái bé nhỏ. Gian buồng xôn xao những âm thanh của hạnh phúc.

Nơi túi áo ngày xưa của mẹ có những món quà vô giá, chẳng thể nào đặt tên, phải đánh đổi bằng bao cơ cực muộn phiền, bao mùa nắng mưa hối hả. Tôi hiểu vì sao khi chiếc áo mẹ bạc tới độ chẳng nhận ra mầu mà bên trong chiếc túi vẫn còn như mới… Mẹ đã khâu lại từng đường kim mũi chỉ để chiếc túi bền bỉ như ngày nào. Có phải tấm lòng người mẹ cũng một đời như thế, một đời dành trọn đức hy sinh, dẫu mòn vẹt khắp cả thân mình cũng gắng chở che cho con trong vòng tay được lành lặn an ấm…