22 C
Hanoi
Thứ Năm, Tháng 10 23, 2025

Lững thững… và yêu

C ó những buổi chiều, tôi ngước nhìn...

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...
Trang chủ Blog Trang 12

Người thầy đầu tiên

Tác giả Hồng Vân

T ôi trở về thăm trường cũ vào một chiều thu nhạt nắng. Lặng lẽ ngồi bên thềm lớp học nơi in dấu chân tôi suốt thời ấu thơ. Lặng lẽ ngắm những sợi nắng hao gầy vấn vương trên tán phượng già.

Tôi thả hồn mình lang thang qua những ô cửa xanh nắng mưa dãi dầu. Tất cả vừa thân quen lại vừa xa lạ khiến tôi nhớ cô da diết. Hình bóng thân thương của cô như vẫn thấp thoáng đâu đây nơi sân trường vắng lặng.
Nhìn sân trường còn vương dấu lá, nhìn màu thời gian hằn in trên mái ngói rêu phong tôi lại nhớ cô vô cùng. Nhớ nụ cười hiền của cô. Nhớ dáng đi tất tả của cô sau mỗi chiều lên lớp. Nhớ giọng nói trầm ấm đã theo bước chân tôi đi suốt cuộc đời. Người thầy đầu tiên của tôi, người mà tôi luôn coi là người mẹ thứ hai của mình, đã theo tôi suốt những năm tháng đầu đời chính là cô giáo Ngọc – người đã gắn bó cả cuộc đời mình với ngôi trường Cù Chính Lan xinh đẹp.

Những đứa trẻ nghèo chúng tôi ngày ấy lớn lên với sắn khoai nhiều hơn cơm trắng. Bạc phếch vai áo sờn, hở trước ngắn sau. Cô thương lũ nhóc không nón lá đội đầu, đội nắng, đội gió, đội cả trời xanh đi học. Thương trò nên lúc nào cửa phòng cô cũng mở. Những trưa hè nắng như đổ lửa, cô đón chúng tôi khi thì nồi sắn nghi ngút khói, khi thì nồi khoai tỏa thơm mùi mật. Thứ sắn khoai trồng trên đất đá ong khẳng khiu, guộc gầy như ngón tay, sượng sật, trong veo nhưng sao lúc ấy chúng tôi thấy ngon đến lạ. Mấy năm trời tôi và các bạn mình vừa học, vừa lớn lên nhờ những nồi khoai sắn đầy ắp tình yêu thương đó của cô. Bao năm rồi tôi chưa bao giờ quên hương vị những mẩu sắn, củ khoai thời thơ ấu. Nó vừa có vị mặn mòi của giọt mồ hôi cô rơi trên mảnh đất đá ong bạc màu, vừa có vị ấm nồng thơm thảo tình thương của cô đối với học trò nghèo.

Tôi là đứa học trò bé nhỏ, khuôn mặt hiền khô nhưng lại hay nghịch ngầm, chuyên làm những trò ngược đời chẳng giống ai. Trong khi các bạn chăm chú, nắn nót viết bằng tay phải thì tôi lại hý hoáy viết bằng tay trái. Viết xong còn say sưa vẽ vời hoa lá lên những trang sách mà không hề biết cô đứng phía sau tự bao giờ. Cứ nghĩ mình sẽ lại lĩnh trọn vài cái thước vào tay. Nhưng không, cô nhìn tôi bằng ánh mắt thật ấm, rồi ân cần nói:
– Con viết được cả hai tay là hiếm lắm đấy. Cầm bút tay trái hay tay phải không quan trọng. Tay nào cũng được miễn con viết nhanh và đẹp. Cố gắng luyện viết nhanh và đẹp để sau này khỏi thua thiệt khi làm bài kiểm tra con nhé!

Tôi đã rất ngỡ ngàng khi nghe lời động viên của cô. Lần đầu tiên trong cuộc đời đi học tôi không bị mắng vì cầm bút tay trái. Tấm lòng bao dung của cô khiến trong tôi trào dâng cảm giác xúc động. Tôi dần thay đổi vì mình, vì cô. Tôi cố gắng nắn nót viết theo những dòng chữ nghiêng nghiêng đều tăm tắp của cô trên bảng. Cố gắng sửa bài tập làm văn theo lời động viên đầy yêu thương của cô. Năm học ấy, tôi hạnh phúc bước lên bục nhận giấy khen trong sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ của bạn bè nhưng tôi hiểu có được điều đó là nhờ sự tận tình, bao dung, độ lượng và tình yêu thương vô bờ của cô.

Sau ba năm gắn bó với bao kỷ niệm vui buồn, cũng đến lúc tôi và các bạn mình phải từ biệt cô, từ biệt ngôi trường nhỏ thân yêu để chuyển sang trường mới. Trước khi cô trò xa nhau, cô đã mua tặng học trò mỗi người một món quà nhỏ. Món quà mà tôi nhận được là chiếc bút kim tinh màu xanh rất đẹp. Đầu những năm 90 của thế kỷ XX đó là loại bút rất hiếm hoi và giá trị. Trên thân bút cô còn tỉ mẩn khắc dòng chữ: “Tặng trò Hồng Vân” bằng những nét viết bay bướm. Chiếc bút ấy, món quà kỷ niệm đầy ắp tình thương của cô tôi coi như báu vật và luôn mang theo bên mình suốt những tháng năm học trò.

Mùa nối mùa trôi qua. Tôi và các bạn mình như những cánh chim bé nhỏ lần lượt rời xa quê hương bay về bốn phương trời. Chỉ còn cô vẫn ở lại với mái trường xưa, với những mùa thu vàng ươm nắng và luôn rộn ràng tiếng trẻ nô đùa. Cô luôn dõi mắt theo chúng tôi, lứa học trò đặc biệt, vẫn gửi những lời hỏi thăm, động viên học trò. Và chúng tôi năm nào cũng lấy ngày cuối hạ đầu thu để trở về bên cô, ríu rít cười, ríu rít khoe cô những niềm vui nho nhỏ. Rồi nũng nịu đòi cô ăn món khoai sắn một thủa cơ hàn. Mỗi năm hẹn nhau một ngày trở về tuổi thơ, trở về bên cô. Rồi lại hạnh phúc ra đi mang theo nụ cười bạn bè, mang theo ánh mắt ấm áp của cô trong hành trang vạn dặm của mình.

Cô rời xa chúng tôi ra đi mãi vào một chiều mưa. Những cánh chim xao xác bay về bên cô lần cuối. Những giọt nước mắt hòa lẫn nước mưa chảy dài trên má. Có lẽ nước mắt học trò khóc thương cô còn nhiều hơn những giọt nước mưa rơi chiều hôm ấy.

“Dòng sông của thầy
Từ ngày năm ấy
Theo mãi đời con
Vẫn luôn đong đầy…”

Cứ mỗi lần nghe những câu hát du dương ấy tôi lại nhớ cô vô cùng. Cô giáo của tôi là một người thầy vừa có tài, vừa có tâm và tấm lòng bao dung như trời biển. Trong cuộc đời mình tôi đã được học rất nhiều thầy cô. Có người tôi còn nhớ, có người tôi đã quên. Nhưng những ký ức yêu thương, những năm tháng ấm áp bên cô, bên ngôi trường nhỏ Cù Chính Lan thời ấu thơ chưa bao giờ phai mờ trong tâm trí tôi và bao bạn bè cùng trang lứa. Mấy chục năm qua rồi, chúng tôi những cô cậu học trò nghèo năm ấy giờ tóc đã hoa râm và cũng không ít người đang bước tiếp con đường mà cô đã từng qua.

Một mùa thu nữa lại về. Thu dịu dàng, thu ấm áp như cô giáo thân yêu của tôi năm nào. Thu khởi đầu cho một năm học mới với bao hy vọng và niềm vui mới. Tôi cũng đang bước tiếp trên con đường cô đã đi qua. Mang theo niềm đam mê, mang theo bao yêu thương của cô trao gửi đến với những học trò nghèo. Thắp sáng lên những ước mơ cho con trẻ nơi miền quê xa xôi.

Tìm về tuổi thơ

Tác giả Ngô Văn Cư

T ôi đã nhiều lần ngủ mơ. Những giấc mơ không đầu không cuối; có giấc mơ hiền hòa, êm ái nhưng cũng có giấc mơ khủng khiếp, hung bạo đến nỗi khi đã thức giấc mà lòng còn hoảng sợ, mồ hôi ướt đẫm khắp người. Tôi nghĩ rằng trong đời người, ai cũng đã từng như vậy.

Không phải giấc mơ nào cũng ghim vào trí nhớ. Nó chỉ thoáng qua mà càng cố nhớ thì càng nhanh quên, chỉ còn những mảnh hình ảnh chắp vá rồi đi vào quên lãng, bởi chẳng cần nhớ đến. Nhưng có lần tôi ngủ mơ, một giấc mơ bình dị mà làm tôi nhớ mãi.

Giấc mơ đưa tôi về phía có ánh sáng rực rỡ. Tôi đi! Không, tôi đang bay! Tôi bay lướt qua những đám mây, những vùng đất tươi xanh, những làng mạc yên bình… Hình như thời gian đang chiều nên ánh sáng có màu trời của ráng vàng cam rực rỡ. Tôi thấy rõ những đứa trẻ đầu trần, chân đất chạy trên mảnh ruộng khô nứt mà mắt ngước nhìn theo con diều uốn lượn trên không. Chúng lăn lộn, vui đùa rồi chạy ào vào trong vườn; trốn vào ụ rơm nhưng không giấu được tiếng cười như nắc nẻ.

Trong khoảnh sân nhỏ bé của ngôi nhà, ánh nắng len qua tán lá của cây vú sữa mà rạng rỡ cùng với đàn chim ríu ran đùa vui trước khi tìm chỗ trú đêm, bỗng thấy lòng ấm áp. Hình như có dáng ba tôi đang chăm chú vào khóm hồng. Người đang chăm sóc hay đang thưởng thức vẻ đẹp của loài hoa lóng lánh tình yêu này. Ba tôi chăm chú nhìn vào một mầm non vừa nhú và nói điều gì đó nhưng tôi không nghe rõ. Có lẽ là lời nhắc nhở mầm nhỏ này sẽ là một cành đầy hoa vào ngày mai. Lại thấy bóng dáng của tôi đang chạy về phía ba, chạy về phía tuổi thơ của mình, chạy về cái sân nhỏ bé nhà mình. Tôi nghe rất rõ những tiếng chim sẻ ríu rít trên sân rồi vút lên ngọn cau, lại có con thả mình rơi xuống đất nhẹ nhàng như một chiếc lá rơi. Tôi lại ước được bay như chim mà quên mất mình vừa bay đấy thôi. Tôi bất lực nhìn lên bầu trời rồi thờ thẩn men theo tiếng dế quen thuộc vang lên đâu đó trong bờ tường loang lổ, bong tróc…

Lại thấy tôi ngổi trước cuốn vở nhàu nát, bên ngọn đèn dầu tù mù. Tôi đang học bài, chuẩn bị cho buổi học trong ngày. Nhưng phía dưới tập vở là cuốn truyện tôi đang đọc dở dang. Thỉnh thoảng tôi nhìn cây thước ba tôi để trên bàn nhằm nhắc nhở nếu tôi lơ là việc học thì cây thước ấy sẽ là cái roi vụt lên người tôi. Và tôi có cách lừa dối khi học vài câu lại xem ít dòng truyện. Tôi tin là đã lừa dối được ba tôi. Nhưng tôi lầm. Ba biết tôi đang chuẩn bị hành trang đi vào tương lai nhưng cũng say mê khám phá thế giới chung quanh, nên cây thước vẫn mãi nằm yên trên góc bàn. Tôi chẳng hề nghĩ rằng mình đang mơ khi nhìn ngọn cây trầu bà vươn cành ra cửa sổ, nơi ánh sáng thường xuyên rọi vào. Tôi hiểu mầm cây bé xíu này sẽ vươn xa hơn vào ngày mai. Tôi lại thấy tôi đi vào một khu vườn rậm rạp. Không! Tôi lại bay là là qua những mầm xanh cho đến khi mặt trời chói lóa.

Thoắt một cái, tôi và lũ bạn phồng má thổi chiếc kèn cuộn bằng lá dừa làm rộn ràng xóm nhỏ. Những chiếc đồng hồ, chiếc nhẫn, mắt kính, chong chóng lá dừa được trao tay cho từng đứa để tham gia cuộc vui. Tôi được cái chong chóng nên ra sức chạy ngược gió mà lòng quay tít cùng nó. Hình như có vài đứa chạy theo mà trên tay không có chong chóng, mồ hôi ướt đẫm mà vui. Mệt! Cùng ngồi bên vệ đường, nhặt những viên đá nhỏ chơi trò ô ăn quan. Có một đứa bày trò kéo mo cau. Tất cả lại ùa vào trò chơi mới. Đứa kéo mo cau lã chã mồ hôi nhưng đứa nào cũng muốn là người kéo chứ không chịu làm khách ngồi. Tôi chợt thấy mỗi khi tàu cau rụng lại lộ ra một chùm hoa ngan ngát hương thơm và một vệt hình trăng lưỡi liềm khắc vào thân cây như khắc dấu thời gian. Mệt! Chúng tôi lại hát vang: “Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm, lấy rơm đun bếp…”. Tôi đợi hoài mà chẳng thấy mưa để được mình trần nhảy múa, nói cười với những hạt mưa… Ôi, giấc mơ chưa bao giờ trọn vẹn của tôi.

Đôi khi tôi chẳng biết tôi đã từng mơ hay là sự thật, khi nhớ đến những chuyện trốn ba má lội đồng bắt cá lia thia. Trong những mảnh ruộng khô nứt nẻ, có một vài vũng nước đọng, chỉ việc cầm rổ xúc là có những chú cá nhỏ vướng vào trong đó. Rất nhiều loại cá quẩy đuôi búng tanh tách, nhưng chúng tôi chỉ bắt những con cá lia thia có sọc vằn sặc sỡ. Đứa nào sở hữu con cá có vân đỏ tím và xanh cùng chiếc đuôi dài mạnh khỏe là như được sở hữu một báu vật; mặc cho chiều về bị đòn roi lằn mông. Chúng tôi lại chơi trò đá cá lia thia, đá dế, chơi khăng, chơi đáo, bắn bi… rồi rủ nhau hái trộm trái cây vườn nhà ăn vì nghịch, vì vui. Thế giới của tôi chỉ là cái làng nghèo khó, nhỏ bé mà tôi đi hoài suốt tuổi thơ vẫn không hết. Thế giới của tôi thật sinh động, tôi tha hồ rong ruổi, thả hồn vào mỗi sự vật, sự việc; từ hàng rào thưa, ngõ nhỏ, bờ ao, giếng nước, đến cây xoài nhà nào ngọt, cây khế nhà nào chua, tôi đều rành rẽ. Tôi đã lớn lên cùng làng quê đầy sắc màu tươi trẻ như vậy.

Nhiều lúc tôi tự hỏi lẽ nào một giấc mơ mà tôi đã nhớ được nhiều hình ảnh như vậy! Hay đó là những hình ảnh của nhiều giấc mơ đẹp còn lưu lại trí nhớ. Có khi đó là sự việc thật, cảnh thật tôi đã trải qua mà cứ ngỡ là đã thấy trong mơ và bao hình ảnh trong mơ tôi ngỡ là thực tế? Tôi cứ tiếc mãi hình ảnh đẹp trong những giấc mơ đã ám ảnh. Tôi nghĩ về làng quê hiền hòa, yên ả với tuổi thơ hồn nhiên, trong trẻo. Tuổi thơ là khởi đầu cho cuộc đời của mỗi con người. Phải chăng, cuộc sống đầy lọc lừa, cạm bẫy, tôi đã đi tìm lại tuổi thơ, sự khởi đầu của chính mình trong mỗi giấc mơ. Khi đã đủ chín chắn, tôi muốn có một sự khởi đầu trong veo.
Ước gì ta được sống trong suốt như trong giấc mơ.

Nhớ thương những buổi chiều mưa

ha-kim-quy

Tác giả Hà Kim Quy

C hiều mưa. Hương ngọc lan bên hiên nhà cứ lặng thầm quyến rũ. Bản nhạc Trịnh văng vẳng đâu đây cùng tiếng mưa “Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa…” *

Những mùa đã qua và những chiều mưa xa cứ níu tôi trở lại. Hạt mưa kể chuyện mình trong tí tách bâng khuâng. Tôi nhớ những chiều mưa. Không biết có phải vì cái cảm giác ngày mưa có gì đó dễ thấm sâu vào tâm hồn con người hơn là những ngày nắng hay bởi tôi nhạy cảm và thiên vị với mưa? Có lẽ sự hữu hạn về thời gian cộng với gió mưa làm cho con người có gì đó bất an chăng khi ngày không ai rót mà vơi?

Xòe tay hứng giọt mưa rơi là cả một tuổi thơ sống dậy. Con đường đất lép nhép bùn lầy lội. Bàn chân bé xíu của những đứa trẻ sáu tuổi bấm tòe ngón dưới đường trơn. Lóng ngóng, lọ mực đổ ra tay trộn nước mưa nhòe nhoẹt. Quần áo nhuộm tím mực học trò, đâu đâu cũng vương màu tím! Mưa gợi cho tôi những khó nhọc từ thuở học vỡ lòng. Đúng là chỉ có trong tưởng tượng cũng không thể hình dung nổi những đứa trẻ lớn lên cùng bùn đất. Cả ngày, chỉ có mỗi buổi tối từ khi rửa chân chuẩn bị ăn cơm là đôi chân tìm đến chiếc dép làm bạn.

Nhưng những đứa trẻ đó có niềm vui mà bây giờ khó lòng tìm lại. Đó là những bữa tiệc với mưa mà chỉ có những đứa trẻ ngày xưa tắm truồng mới có. Bất chấp mưa ào ào, bất chấp mắng mỏ, la hét, chúng cứ nhảy dưới mưa hoan hỉ cho thỏa thích. Mà lạ thật, gần như chả có đứa nào ốm sau những buổi tắm mưa. Sau này lớn thêm một chút, biết ngượng nghịu, xấu hổ thì vũ điệu tắm mưa được để nguyên quần áo, cảm giác vẫn sung sướng, mát rượi. Như một lũ chuột, tóc tai ướt nhẹp, quần áo dính bết vào người, chúng tôi chạy về nhà trong niềm thích thú vô bờ.

Nỗi nhớ chiều mưa như con đường mòn trong ký ức, cứ hiện những vết chân bé nhỏ ngày xưa. Một nửa ngày học ở trường, nửa ngày còn lại những đứa trẻ chúng tôi theo cha, mẹ ra đồng cuốc, cào, cấy, gặt hoặc chăn trâu, cắt cỏ…không làm được việc nặng nhọc thì trẻ con làm việc nhỏ. Chính vì vậy, việc nhà nông đứa nào cũng thạo, làm nhanh thoăn thoắt. Nếu nói theo ngôn ngữ của trẻ bây giờ, thì hồi đó, chúng tôi thường học trải nghiệm trên cánh đồng. Từng cây lá, hoa cỏ, giống khoai, giống lúa ngày ấy lũ chúng tôi đều biết. Chỉ cần nhắm mắt lại, ngửi mùi hương là phân biệt được cỏ ấu, lá cúc tần, lá trầu, lá ổi, chỉ cần sờ tay là biết cỏ gừng, cỏ chỉ, cỏ lá tre,… Những thứ đó thân thuộc với người quê như ngấm vào máu thịt. Mắt lim dim nghe nhạc mà trong đầu tôi toàn hình ảnh bông hoa nhọ nồi cánh trắng nhỏ xinh thấm đẫm nước mưa. Nếu đứt tay, vò nhẹ cây đó một chút nhựa cây đã nhuộm đen những ngón tay mềm, giữ lá đó trên vết thương, nó khắc cầm máu.

Thương những buổi chiều mưa, giọt xiên giọt thẳng găm rát lưng người. Khi cả nhà quây quần bên căn bếp nhỏ thì mẹ phải quẩy nốt mấy đóm mạ đi vá đồng cho kịp. Cánh đồng Quýt xa làng nước trắng mênh mang, chiều ngả dần về đêm trong tiếng còi tàu thúc giục vào ga. Cảm giác lo lắng, thấp thỏm chờ đợi khi trời tối thẫm vẫn chưa thấy mẹ về vẫn còn nguyên vẹn trong tôi đến tận bây giờ.
Những buổi chiều mưa với những khoảnh khắc bình yên trôi qua mà khắc sâu vào tâm khảm con người. Như vẫn còn đây cảnh ta ngồi bên bậu cửa ngắm đàn gà con ướt lướt thướt tìm chỗ trú mưa, nhìn bong bóng mưa phập phồng trên mảnh sân gạch đầy nước, nghĩ đến câu ca dao buồn buồn mà thương cái Tám mẹ bỏ đi lấy chồng xa. Tôi thường hay ngắm những hạt mưa to rơi xuống nền sân, bắn tung lên mà tưởng tượng và mơ về chiếc vương miện kim cương lấp lánh quên cả nhổ tóc sâu cho bà để đổi mươi sợi lấy một cái kẹo dồi hay một que kem hai hào mát lạnh… Chiều mưa trôi đi trong hương thơm rộn ràng của thóc nếp, của nẻ nổ trắng cả chảo rang bên bếp rạ, trong mùi vôi nồng nồng bánh đúc quyện mùi hành phi của bếp nhà ai theo khói ấm bay lên.
Những ngày mưa, niềm vui của trẻ con là được đi bắt cá rô. Cá cứ ngược dòng nước chảy mà lóc lên. Cá hồi đấy sao mà nhiều thế, chỉ đi một lúc đã được lưng giỏ hoặc một xâu cá dài. Ngạnh cá đâm vào ngón tay nhiều khi chảy máu hoặc xước, xát nhưng chẳng hề gì, rồi cũng quen. Lòng lâng lâng nghĩ đến bữa canh cá rô nấu rau cải thơm lừng, món canh dân dã quê tôi đã đi vào ca dao một thuở: “Cá rô canh cải nấu gừng/ Không ăn thì thiệt chứ đừng chê bai”. Chả như bây giờ, mưa xuống, lòng tôi cứ hoài niệm nhìn theo dòng nước chảy mà tịnh không thấy con cá nào. Cá rô đồng xưa giờ đã rủ nhau đi đâu?
Sau mưa, làng xóm nhộn nhịp hẳn lên. Chỗ này người câu, chỗ kia thả vó, trẻ con đi bắt kiến càng về rang thơm phức, ăn ngầy ngậy, bùi bùi. Những đứa choai choai khoái nhất là tìm chỗ nước chảy để đắp nhạy bẫy cá ngày mưa.

Mà lạ thật, mưa nhiều, nước lên, người lớn lo ao chuôm cá đi, đồng ruộng mất mùa bao nhiêu thì trẻ con lại thích thú, khoái chí khi được ra lội uồm uồm bờ nước ngập bấy nhiêu. Đúng là tuổi thơ vô lo vô nghĩ. Chúng tôi có biết đâu nỗi lo của người lớn khi thóc gạo trong nhà đã hết, khi củi lửa, rơm rạ ướt, làm sao lo được bữa ăn cho năm, sáu người trong nhà khi mà mưa lai rai mãi không thôi.

Mưa. Ông tôi lặng lẽ vót nan đan rổ, rá. Mặc cho bà cháu, mẹ con tíu tít ở bếp, ông lẳng lặng vừa làm vừa lẩy Kiều. Ngón tay trỏ ông xỏ vào một miếng da trâu khô để dao mác không cứa vào tay. Thi thoảng ông nghỉ uống chén trà, tôi thử xỏ tay vào đó, tay tôi lọt thỏm giữa cái mà tôi gọi là nhẫn da trâu cứng ngắc của ông. Trước bao nhiêu vết dao sắc, nó vẫn vẹn nguyên không rách xước gì, bền bỉ theo ông hết cuộc đời. Chả biết từ bao giờ, những câu Kiều cứ như những giọt mưa thấm dần vào hồn tôi dù lúc đó tôi chả hiểu gì, chỉ nghe man mác buồn:

Từ đây góc bể chân trời
Nắng mưa thui thủi, quê người một thân…
Đêm thu khắc lậu, canh tàn
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm sương…

Trời mưa có việc của trời mưa. Bà tôi lôi bó rơm nếp gác trên bếp xuống, đứa chặt phần gióng cuối, đứa rút rơm cho bà bện chổi. Những sợi rơm vàng óng ngoan ngoãn, hiền lành nằm gọn gàng, chặt chẽ trong bàn tay bé nhỏ, gân guốc đầy chấm đồi mồi của bà. Bà vặn rơm thành cái chổi xinh xinh. Vặn chổi xong, bà dùng khúc tre hoặc khúc gỗ đóng vào giữa thân chổi cho chắc. Cái Thương với cu Tân được bà bện cho cái chổi nhỏ, xinh, lại có lớp rơm cắt ngắn xòe ra như cái váy của công chúa chổi nom thật điệu. Tiếng mưa rì rầm hòa với tiếng Thương hát líu lo, ngọng nghịu “Một sợi rơm vàng, hai sợi vàng rơm/ Bà bện chổi to, bà làm chổi nhỏ…” như còn vẳng bên tai. ** Có chổi mới, đứa nào cũng chăm quét nhà hơn. Bây giờ, mỗi khi nhìn thấy cọng rơm vàng lại miên man nhớ về những chiều mưa ấy, nhớ ngón tay bà như múa với vàng thơm một thuở đói nghèo.

Những chiều mưa mùa đông, mưa gợi cho tôi mùi khói ám và những cơn gió bấc rét căm căm. Chân tay nhúng xuống nước chỉ chực đông thành đá. Áo bông cũ sờn truyền từ đời nọ đến đời kia không đủ che ấm cho người. Bếp giấm trấu là cái lò sưởi duy nhất cho cả nhà, ai cũng muốn đặt bàn tay tím tái lên đó xua bớt đi giá rét. Hai bàn tay xòe ra, úp lên mặt rặt mùi khói trấu khen khét, thơm thơm phảng phất hương thóc nếp dịu dàng.

Rét thế nhưng tôi với anh Minh vẫn đi bắt cá cóng để cải thiện bữa ăn. Gọi là cá cóng vì rét quá, con cá cứng đờ người không bơi được, cứ lững lờ dưới làn nước trong như chờ người nhón mang về. Bắt được cá về thì người cũng cóng, giẫm lên đất khô mà chân tê dại, buốt giá chẳng có cảm giác gì. Nghĩ đến đó mà thương những chiều mưa mùa đông lạnh giá ngày xưa.

Những cơn giông ầm ầm theo những đụn mây kéo về đen đặc bầu trời trong những buổi chiều mùa hạ, cũng là lúc lũ trẻ chúng tôi gò lưng xúc thóc chạy thi với mưa. Ngoài đồng, người lớn cũng chạy vội về nhà. Bà tôi đi mót thóc, gió bạt cả nón mê, cái dáng gầy gò đi ngược cơn giông cứ ám ảnh mãi trong tôi.
Tôi nhớ cả cơn mưa chiều mùa thu đó, ánh mắt nào chạm ánh mắt tôi trong hiên nhà ven đường lúc tránh mưa. Câu hát tinh nghịch của cậu bé bên cạnh làm tôi nhớ mãi: “Đưa em về dưới mưa, nói năng chi cũng thừa…” để rồi bao ngày cách xa, một chiều mưa tôi lại nhớ về bài hát đó: “ Đưa em về dưới mưa, nói năng chi cũng thừa, đôi ta về dưới mưa, có nhau mà như xa”.
Năm nay mưa ngâu nhiều quá!

Mưa dai dẳng, dấm dẳn mãi không thôi. Bất chợt có ánh nắng, nghĩa là trời vừa mưa vừa nắng, phía đông nam ánh lên chiếc cầu vồng bảy sắc. Người ta thường nói ai nhìn thấy cầu vồng sẽ gặp may. Cầu mong người ở nơi xa lắc cũng nhìn thấy những khối màu sắc tuyệt diệu kia.
Những hạt mưa như những sợi chỉ mỏng manh khâu lại những ký ức ngày xưa ấy. Những sợi mưa chiều như những khuông nhạc trầm buồn, da diết mà sâu đậm. Tôi ngồi thẫn thờ trong mưa, chỉ để hoài niệm và biết ơn những giọt mưa nuôi chúng tôi lớn thành người. Trong âm thanh của chiều mưa có niềm vui, nỗi buồn, có đói nghèo và ấm áp một thuở bình yên. Ông, bà đã đi về với thế giới người hiền, tất cả đã khác xưa, chỉ lòng tôi còn vương vấn…

“Ngoài hiên mưa rơi rơi. Lòng ai như chơi vơi…” *
* Bài hát, lời bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
** Bài hát Bé quét nhà của nhạc sỹ Hà Đức Hậu.

Rau càng cua

rau

K ý ức với tôi là những khoảnh khắc trong trẻo như ánh ban mai đang lăn trên mái tóc của cô bé cạnh nhà. Tôi may mắn khi cả tuổi thơ tuy nghèo khổ nhưng đủ đầy hơi ấm của mẹ và nét trượng nghĩa từ bố. Trong vô vàn những điều ấm áp của ngày xưa đó có lẻ điều để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong tôi là cây Rau Càng Cua.

Hồi nhỏ xíu. Tôi là một cậu bé con tròn ỉn với đôi gò má phúm phím đầu chẻ bảy ba cổ điển và thích ngắm mưa rơi. Sau mỗi trận mưa nhìn ra chậu kiểng sẽ thấy từng đụm từng đụm rau càng cua con lúm phúm nhô lên. Thoạt đầu chỉ nhỏ li ti với hai lá mầm hình trái tim. Vậy mà chỉ độ tuần sau là chúng đã tầm 5cm và cứng cáp thấy rõ. Phần đầu có một cái vòi nhỏ vươn mình ra và bao bọc là những chiếc hạt nhỏ xinh.

Bố tôi nói chính những cái hạt nhỏ đó khi rớt xuống đất sẽ là xuất phát điểm của những cây con mới. Mà cũng lạ đời ! Hễ thấy bụi cây nào um tùm xum xuê một chút ta tách ra mấy góc mang ghim đi trồng ở chỗ khác thì cứ xìu xìu không có sức sống. Vậy mà cứ để “cây dại sống đời cây dại” thì cây sống mãnh liệt lắm ! Không những mọc từ đất thịt mà còn mọc ra từ đít chậu kẹt tường hay chỗ nào ẩm ướt một chút thì sức sống bỗng rạo rực. Cây bung bung từng đọt từng thân mập ú. Làm gì thì làm đến chừng ngó bộ thấy chúng đã xum xuê ngoài vườn tôi thường lon ton cắp rổ ra thu hoạch. Bố nói khi thu hoạch không nên nhổ cả gốc cây lẫn chùm rễ vì sẽ làm chết cây những lần sau không còn để hái. Thu hoạch thì nên dùng dao bén hay ngón tay bấm ngang thân, chỉ lấy phần non phần già giữ lại gầy tiếp cho những đợt sau. Tận hưởng thiên nhiên nhưng không tận diệt nó!

Bài học từ loài cây bình dị nghĩ nó đơn giản nhưng không phải ai cũng có thể hiểu được. Đó chính là cây nào thì chỉ nên sống môi trường đó. Có chăm bón có kỳ công đưa (vào chậu – vào phân) thì sức sống cũng không bằng cứ thả sống lây lất ngoài tự nhiên. Con người cũng vậy ! Mình phải biết mình thuộc về tầng lớp nào để an nhiên mà sống. Mưu cầu không phải là xấu nhưng trước khi mình mưu cầu … mình phải biết mình đang có được những gì trong tay !!! Phải biết tự lượng sức tránh trèo quá cao rồi té quá đau. Biết mình không chưa đủ còn phải biết người – biết tình cảnh – biết biểu hiện cuộc sống xung quanh. Đó mới là người có tri thức ! Đó là phần bố còn mẹ tôi thì sao. Mẹ tôi ít nói chỉ chăm tay làm nhưng thi thoảng để răn dạy cháu con mẹ vẫn hay bộc bạch mấy câu đơn giản. Mấy câu mới nghe chưa thấm lắm nhưng càng về sau nó càng “day dứt” tâm trí tôi. Mẹ nói “dưới bóng đèn trắng thì da con phải trắng … dưới bóng đèn trắng mà da con vàng là con bệnh rồi !”.

Những năm bao cấp khốn khổ hầu như nhà nào cũng thiếu đói. Rau Xà Lách người ta cũng bán đầy ngoài chợ chứng tỏ nó không quá đắt vậy mà có bữa nhà tôi còn không có tiền để mua. Vậy là nhà lại chọn rau Càng Cua để thay cho Xà Lách. Lấy rau này trộn giấm chua ngọt rắc tí đậu phộng rang lên trên. Vậy là cả nhà đã quây quần cùng nhau trong buổi chiều mưa rả rít. Nồi cơm nóng, tộ cá rô kho tiêu cay nồng và thau càng cua trộn chua ngọt. Đời còn gì sung sướng bằng … Thời thế nổi trôi – cuộc đời có những bước ngoặc đến ngỡ ngàng. Giờ mấy món cùn cùn lại nối đuôi nhau vào nhà hàng. Đi cùng con trai đi dự một đám cưới sang trọng. Bé nó chỉ vào menu trên bàn ý hỏi sao lại có món Càng Cua dầu giấm thịt bò “Bố ! Cái cây xanh lè xanh lét này nhà mình mọc đầy … có ăn bao giờ đâu Bố ?”. Thiệt tình thì tôi cũng không biết cắt nghĩa như thế nào cho bé hiểu. Có lẻ đến một lúc nào đó cái gu ẩm thực của người đã thay đổi. Có lúc thèm đến quay quắt những món bình dân như thế này!

Mấy bữa nay nắng rát cả mặt thèm lắm một cơn mưa dại để thổi mát lòng người cùng cảnh vật. Ngó ra ngoài vườn thấy mấy nhúm Rau Càng Cua cũng thiếu nước dẫn đến héo queo. Tôi lại lăng xa lăng xăng xách vài gàu nước ra tưới. Con trai nhìn theo ngơ ngác hỏi : Bố ơi ! Bố trồng rau xanh lè xanh lét này để bán lại cho nhà hàng ạ ? Tự nhiên thấy cổ họng đắng chát. Ôi ! Cuộc sống có những điều gần gũi mà mãi chúng mình đã lãng quên …

Thân thương cổng nhà

VY-PHONG

Tác giả Vy Phong

Vẫn biết, thế gian có muôn nẻo để đi nhưng duy chỉ có một nơi rộng mở đón chân ta trở về, đó là cổng nhà. Chiếc cổng thân thương từ cổ chí kim vẫn ở đó, thủy chung như nhất nào có đổi thay. Dù ta buồn hay vui, dù ta thành hay bại, dù ta khóc hay cười thì cánh cổng vẫn mở toang để ôm ta vào lòng vậy.

Từ khi bước chân vào đại học, cổng nhà tiễn tôi đi xa. Cho đến khi ra trường, đi làm, lập gia đình xa quê hương, lâu lâu có dịp tôi mới được về thăm nhưng thường là mỗi năm một lần. Tôi về đây! Con đường bớt xa. Tôi vào đây, cổng ngõ chan hòa cho trái tim hoan ca, ấm áp. Tháng ngày, trí nghĩ chật chội bởi lo toan tính toán bỗng thoáng ra; con tim mệt mỏi, thương tổn bị đời làm cho xây xước như được tưới thêm dòng nước mát lành mà tươi tắn. Nhà tôi lưng chừng đồi, ngõ dẫn từ sân tới cổng là một cánh cung nhè nhẹ mà sắc lẹm. Tôi về tựa lưng vào hàng cau hai bên cổng mà nghe lá hát vi vu. Xanh xanh một màu nhựa sống từ hàng cau có dây trầu quấn quýt, từ cam, quýt, táo, ổi…trong vườn. Chim chuyền cành véo von bài ca tự thuở nào vẫn vậy. Hoa giấy đỏ, hoa sứ hồng, hoa cúc vàng…thắm đượm từng mùa qua.

Gỡ đôi dép ra khỏi chân, tôi để lòng bàn chân áp vào mặt gạch gồ lát cổng. Nhẹ nhàng và mát lịm, tôi nghe những viên gạch vuông vức thủ thỉ tâm tình. Thuở trước, khi ông bà cùng xóm làng di cư từ ngoài bãi sông vào vùng đồi này theo chủ trương của Nhà nước, cổng nhà chỉ là con đường đất trắng với bao đá sỏi lởm chởm. Đào đá, san đất, cổng ngõ ấy thấm mồ hôi của ông bà nội tôi, của cô bác tôi- những con người cần cù chịu khó. Bữa ăn dẫu chỉ có dưa cà mắm nhút nhưng nghị lực thì phi thường và tâm hồn cũng đẹp lạ thường.

Cổng đất đá sỏi nhưng hai bên cổng ông nội trồng hai hàng hoa hường cánh mỏng, thoang thoảng thơm, hồng hồng đỏ đỏ như những cánh bướm trong nắng lửa gió Lào. Mùa về, rơm rạ phơi khắp cổng ngõ, vàng ruộm. Đâu đó còn vẳng lại tiếng cười đùa của các cô bác, của bố tôi khi lăn lòng vòng từ trên mép sân xuống tận cổng. Rơm mềm như chiếc nệm êm che hết đá sỏi. Đâu đó, còn có bóng dáng của ông bà ngày mùa đi gặt về. Xe lúa dừng dưới chân cổng, rồi ới cả con cháu, láng giềng ai rảnh thì qua đỡ một tay đẩy xe lên dốc. Con trâu gò mình kéo, người người đưa tay đẩy. Rồi mùa mùa trôi qua, trên sân óng hạt thóc vàng.

Tựa lưng vào thời gian mà ngẫm chiếc cổng ấy đã in dấu chân của bao người đi. Có những bước chân đi về sớm hôm của ông bà, là gánh chè ra chợ khi tờ mờ sáng, là dẫn trâu khi hoàng hôn về, là đi mời xóm giềng bát nước chè khi trưa lại. Có những bước đi theo tiếng gọi của số phận, của cuộc đời. Các cô của tôi lần lượt theo chồng để lại ánh mắt của ông bà dõi theo mấy dặm trường đình; bố tôi mang ba lô nhập ngũ để lại sau lưng bao nhiêu yêu thương đầy vơi. Rồi lâu lâu, những bóng dáng ấy có dịp lại trở về thăm. Nhưng có những chuyến đi mãi mãi mang theo nước mắt và nỗi ưu buồn nhung nhớ, cánh cổng cũng ngậm ngùi dõi theo bởi biết sẽ không thể đón người về. Đó là ngày ông tôi, rồi bà tôi, bác cả tôi lần lượt đi xa mãi mãi bên kia núi xanh. Nhưng trong tôi, hình bóng ông bà vẫn mãi còn đó, sớm hôm đi về trên cổng ngõ của chính bàn tay của ông bà vát lên hình hài, để bao thế hệ con cháu trở về đoàn tụ.

Tôi về nghe tuổi thơ thầm thĩ những bước chân thơ bé, chân trần trên đá lởm chởm. Bởi người lớn đi làm nên trẻ con tự trông nhau. Thương thằng cu Thạch mặc quần chẻ đũng, mặt lem nhem theo đứa chị là tôi suốt ngày đi chơi. Có khi giận dỗi với bạn lại dắt nhau về, ngồi ở cổng nhặt đá chơi ô quan, chơi trò nấu ăn, bán hàng…Buồn tay lại bẻ mấy mầm hoa hường, tước bỏ lớp vỏ rồi bỏ mồm nhai phần ruột thân bên trong. Vậy mà cũng thấy ngon thấy ngọt cả tuổi thơ. Ngồi mà tiếc nhớ cái cảm giác đợi bà đi chợ về trong những ngày chợ phiên. Sáng sớm khi cháu còn ngủ say, cổng đã tiễn bà trên vai gánh mấy thức hàng trong vườn đi bán. Mấy bó chè xanh, mấy bó mùi tàu, khi quả mít, lúc trái trứng gà…Chừng đó, đủ để bà mang về cả tuổi thơ thơm thảo cho cháu. Có hai đứa trẻ ngồi vêu ở cổng, thấy nón trắng và cái dáng thân yêu: ôi! Bà về! Trong quang gánh của bà khi thì chiếc bánh đa, khi thì miếng cốm, khi là con tò he xanh đỏ để chơi mà không nỡ nướng ăn…Ôi còn đâu, còn đâu!

Năm tháng trôi qua, cửa nhà được thay áo mới. Bố tôi đã tôn tạo lại, đàng hoàng hơn, khang trang hơn. Hai bên cổng xây bờ dậu, nền lát gạch, cánh cổng màu xanh. Bốn mùa hoa thắm nở, chim ca rộn ràng. Tôi lại về đây, mang theo cả tuổi thơ về cho con. Hai đứa trẻ y như mẹ và cậu ngày nhỏ, suốt ngày lon ton dạo bước. Chúng theo ông đi tưới cây, chúng cầm điện thoại để lưu hình làm kỉ niệm, hay đơn giản chỉ thích chạy ù từ trên sân xuống tận cổng. Chỉ thế thôi mà vui, mà kể hoài với bạn bè không chán. Rằng “ Cổng nhà ông bà ngoại mình đẹp lắm…” Biết đâu sau này, có đứa lại ngồi viết “Thân thương cổng nhà” như mẹ nó bây giờ…Biết đây đấy…!

Hoa dại ven đường

hoa-dai-1

Và cứ thế, theo ngày tháng hoa cười giữa trùng khơi mưa nắng, và tỏa hương theo gió bụi đường xa…âm thầm gieo mầm tái sinh trong lòng mưa nắng hào hoa. Và, gửi lại trong lòng người yêu hoa một thơm thoảng nhẹ nhàng.

M ột sớm mai, khi tôi đang rong chơi đây đó giữa phố phường, ngang qua bao con đường, rồi tới một con đường kia, chợt nhiên bước chân tôi dừng lại, và cảm thấy lòng mình ngây ngất lạ lùng, khi nhìn thấy bên lề đường, vài loài hoa dại xinh xinh, những cánh hoa mảnh mai tươi mới và vô cùng mềm mại đang thở hương thơm của mình vào không gian tỏa nắng, theo lời gió du dương êm đềm.

Và, lạ chưa, trong giây phút ấy, sao tôi lại thấy như hoa đang… cười với tôi, một nụ cười tròn đầy, duyên dáng! Thật rạng rỡ và ngọt ngào!Ôi, những bông hoa be bé, xinh xinh. Trông thật đáng yêu!

Tôi thoảng nghe một mùi hương dìu dịu, một mùi hương xa vắng mênh mông…và rồi tôi đứng yên, lặng ngắm những bông hoa ven đường, những bông hoa đang dập dìu theo nắng gió và hòa quyện cùng bụi bặm ven đường, nhưng vẫn nhẹ nhàng một sắc hương tươi mới dưới nắng ban mai.
Hoa dại…

Sắc màu bình dị ấy, chẳng mang theo một tí kiêu sa nào, lại có thể làm cho lòng người yêu hoa cũng chăm chú ngắm nhìn, và gửi tới hoa lòng ưu ái của mình. Để rồi từ đây, những đóa hoa kia sẽ âm thầm vang động trong trí nhớ tôi qua mỗi loài hoa, mỗi dáng vẻ, tươi tắn, hiền hòa trong nét đẹp hoa dung! Mà trong từng tiếng gió vi vu thoảng qua, ta cũng nghe ra một điều gì vừa gần gũi vừa xa xôi, tạo thành một giai điệu hòa âm bình dị mà mênh mông…

Trong một thoáng bâng khuâng bất chợt, tôi bắt nguồn gợi mở không gian trước mắt mình. Tự nó đã hình thành tự bao giờ …Tôi nào biết! Chỉ biết rằng tất cả đang ở đó, trước măt mình một quang cảnh vô cùng hấp dẫn! Bên kia đường..

Một quang cảnh tuy không đủ sức làm tôi choáng ngợp, nhưng cũng khiến cho hồn tôi lặng đi đôi phút giây…Rồi, như tự nó dẫn dắt tôi, quyến rũ tôi, thôi thúc hồn tôi bay theo mùi hương đơn sơ, bình dị của những bông hoa vừa xinh tưoi, vừa dễ thương đang hồn nhiên vươn lên trong ánh ngày.
Có lẽ nơi này, hoa dại đã ngày ngày thắm tươi, mùa mùa tiếp nối nhau làm lộng lẫy một phương trời, theo cách riêng mình, mà không hề ưu ái riêng ai, cũng chẳng mong mắt ai lưu tình… Tưởng như, hoa đang thì thầm với tôi rằng: “Hãy để yên tôi giữa trời mộng đơn sơ …”

Tôi cũng thầm thì với hoa rằng: ” Hoa ơi, nếu tôi vì yêu hoa, mà đưa tay hái đôi nhành, đem về nhà…gửi chút tình ưu ái cho gần tôi hơn, thì tôi đã vô tình đưa hoa vào “cõi chết sớm hơn giờ đã định… Trong khi nơi đây, hoa đang ru mình đong đưa theo thể điệu phiêu bồng trong nắng ban mai… Một hình ảnh đẹp tuyệt vời!”
Cũng từ đây, tôi nghe ra bao điều mơ màng đẹp đẽ về một nơi chốn, mà nơi chốn ấy, muôn loài hoa dại hồn nhiên tung cánh vươn mình theo những sớm mai lung lung linh nắng, hay sương chiều lãng đãng…lả lơi, dịu vợi, theo hồn gió chơi vơi. Hồn nhiên vui mở cuộc sống hoang sơ, đằm thắm.

Và cứ thế, theo ngày tháng hoa cười giữa trùng khơi mưa nắng, và tỏa hương theo gió bụi đường xa…âm thầm gieo mầm tái sinh trong lòng mưa nắng hào hoa. Và, gửi lại trong lòng người yêu hoa một thơm thoảng nhẹ nhàng

Sân nhà có một cây mơ

nguyen-hong-2

Tác giả Nguyễn Hồng

T ôi lớn lên, cây mơ trước nhà đã thành một cái cây cổ thụ cao 5 thước, tán xòe rộng và cái gốc cứ xù xì, mốc thếch ra. Gần Tết trời ấm áp, từng chùm hoa mỏng manh tinh khiết bung nở dịu dàng, e ấp như cô thiếu nữ đang “ độ chín”.

Đứng trên cao nhìn về, ở ngay chính khoảng sân rộng kia có một “ụ rơm” tinh khôi, trắng muốt đang được nắng vàng sưởi ấm, chực chờ cơn gió nhẹ thổi qua, những cánh li ti phấp phới xoay tròn trong gió. Cánh rụng, từng quả non khẽ khàng vươn ra, tắm no nê trăng thanh gió mát cùng tinh túy trời đất, quả nào quả nấy lớn nhanh như thổi, to tròn, căng mọng.

Cành mơ nhìn khô nhưng mà dẻo, cha dùng cái móc kéo cong vút xuống để hái quả cho dễ nhưng cành tuyệt nhiên không hề gãy. Tôi thích nhất mỗi mùa trẩy quả, từng rổ mơ vàng ươm bóng bẩy chen chúc nhau, mơ thu được nhiều quá cha toàn đem chia cho mấy nhà hàng xóm, chỗ còn lại cha mua đường phèn ngâm cho tôi một hũ thật to đủ để uống đến mùa mơ sau mới hết. Tôi bị nghiện món mơ đá của cha nên mùa nắng ngày nào đi học về, trên bàn cha cũng pha sẵn cốc mơ ngâm trong lành, ngọt mát.

Cây mơ lớn hơn cả tuổi tôi bởi từ khi tôi biết nhớ đã thấy trước nhà âm thầm có cái cây cành khô đét, khẳng khiu gầy guộc. Thuở ấy cha đem cho không đắt bởi quả mơ ăn sống vừa chua vừa đắng. Về sau cha mang hết đi ngâm với đường, và chừa một ít ngâm cùng mật ong, mỗi khi trái gió trở trời tôi khục khặc ho, chỉ cần vài thìa siro mơ mật ong của cha thì hôm sau đã khỏi hẳn. Lúc mơ ngâm vừa tới, hàng xóm sang chơi cha đều mang nước mơ ra đãi, ai cũng khen ngon rồi mấy chú mấy bác mang rơm trộn với bùn sang xin cha cho chiết cành về làm giống. Sau này trong xóm gần như nhà nào cũng có một cây, nhưng chỉ có cây của nhà tôi là đẹp và có hồn nhất, cái gốc uốn lợn tạo thế cong cong, càng lên cao tán càng xòe rộng ra phủ rợp bóng mát cả một góc sân nhà, nâng tròn giấc ngủ trưa trên chiếc võng tre kĩu kịt cha giăng dưới gốc.

Sau này tôi lấy chồng, đi xa, vài đêm trống canh nơi xứ người cô quạnh âm thầm bó gối. Nhớ nhà, nhớ cây mơ có hai thân chạc xòe ra vững chãi mà ngày bé tôi hay đánh đu đến mòn nhẵn. Mùa sâu ăn lá, con nào con nấy trùi trũi gặm cắn ngày đêm. Cha buông đèn đêm đêm mò mẫm, chẳng để làm gì cả, sâu non cũng được vài cữ thôi rồi hóa bướm. Cha tìm bắt những con sâu to đang tìm cách đục khoét thân cây và cũng tránh cho tôi bị bọ nẹt đốt bởi hôm nào đi học về tôi cũng chỉ kịp thả cặp sách ngay đầu hồi nhà, vội vã trút bộ đồng phục ra rồi lại ống thấp ống cao trèo lên cây, không quên mang theo đùm bánh ít hay gói lạc luộc cha mua ở phiên chợ sáng.

Tôi lớn lên trong vòng tay của cha và ông nội. Mẹ mất năm tôi vừa lên 3, cha vừa làm cha, vừa đảm nhiệm chức vụ của một người mẹ. Sự bảo bọc của cha, tình yêu của ông nội khiến cuộc sống của tôi trôi qua nhẹ nhàng cho đến năm tôi vừa tròn 18. Sau một cuộc gặp gỡ định mệnh tôi quyết định chấm dứt việc học khi mới tốt nghiệp cấp 3 để lên xe hoa theo chồng đi xa nhà 300 cây số. Bỏ ngoài tai mọi khuyên can của nội, khước từ cả ánh mắt thẫn thờ tuyệt vọng của cha. Nhưng rồi hạnh phúc giữa tuần trăng chưa kịp ngấm, tôi bẽ bàng nhận ra những nỗi chua xót của đời mình nhưng quay lại không được nữa. Hai đứa con lần lượt ra đời, gia giáo khắt khe khiến đường về nhà của tôi xa hun hút. Ngày tôi sinh đứa thứ hai, cha xách balo đi chăm tôi trong bệnh viện. Có rất đông người ở đây, nhưng họ đều xúm lại hân hoan bên đứa cháu đích tôn vừa chào đời. Chỉ có cha lặng lẽ ngồi bên, giúp tôi xoay trở thân người rệu rã vì đau đớn và tê liệt nhưng không bằng khi cha cất tiếng “ Có đau lắm không con” nước mắt tôi trào ra như đê vỡ.

Bà thông gia dùng ánh mắt nguýt dài sắc lạnh khi bàn tay cha vụng về làm rơi rớt sữa. Lúc vắng người, tôi khẽ khàng bảo cha ra về, ánh mắt cha dại đi, trống rỗng, “ Khi nào con xuất viện thì cha về”. Tôi len lén quay mặt đi, một hai giọt nước mắt tí tách rơi trên gối, đã quá trễ cho những nỗi hối hận muộn màng, cho mọi sự xốc nổi bồng bột của tuổi trẻ đánh đổi bằng nước mắt và những tủi hổ không bao giờ đáng có của cha tôi, người cha già suốt một đời tận tụy.

Nội tôi cưỡi hạc về trời sau một thời gian ngắn chống chọi bệnh tật. Một mình cha ở trong căn nhà thênh thang hun hút gió. Lắm hôm, tim tôi buốt nhói khi nhìn qua cam, cha lặng lẽ bê mâm cơm nguội ngắt, thẫn thờ để đó rồi lại bưng đi. Nhưng cứ hễ khi tôi gọi điện về trách móc, cha lại “ Ôi dào, con về đây mà xem, cha gần sáu chục cân rồi chứ đâu có ít”.

Và rồi tôi cũng về với cha thật khi đã đi qua đổ vỡ, vực dậy chuyện học hành khi đã ngấp nghé tuổi 30. Những chuyến xa nhà biền biệt, thương cha, nhớ con quặn thắt gan ruột. Nếu không nhờ tình yêu thương bao la của cha tôi biết chắc không bao giờ mình có thể vượt qua được. Người ta vẫn thường nói chuyện về nhà và những chuyến đi xa, nhưng mỗi chuyến trở về và rời đi của tôi chưa bao giờ bị vơi bớt đi dù phần nào cảm xúc. Hạnh phúc rưng rưng khi được về, xót lòng khi mỗi tiếng tút dài trong điện thoại vang lên chưa đến hồi thứ 3 cha đã vội vàng bốc máy “ Đến đâu rồi con, cha ra đón nhé”. Rồi lại thẫn thờ nhìn bóng cha cô đơn trong chiều mưa gió rét, thân ảnh nhỏ thó, gầy gò trong chiếc áo mưa cũ sờn bạc thếch, nước mưa hắt ướt hết khuôn mặt đầy rẫy chân chim và những vệt tóc mai đã phôi phai màu sương gió.
Thêm 4 năm dài đằng đẵng cha chăm cháu, nuôi con ăn học. Sau khi tốt nghiệp tôi may mắn xin được một công việc gần nhà. Tự nhủ rằng từ giờ về sau cố gắng để cha không vất vả nữa. Nhưng thời gian cha ở nhà lại ít hơn số lần ra vào trong bệnh viện bởi tuổi già cộng với kham khổ thời trẻ trai khiến trái tim cha không được bình thường nữa. Ngày nhận kết quả, tôi suy sụp khóc không thành tiếng. Ngay cả khi tôi và người kia rẽ hai đường ngược hướng, từ thân thuộc dần trở nên xa lạ tôi cũng chưa khi nào cảm thấy mình đau đớn và khổ sở đến như thế. Nửa đêm, tôi bất lực với những cơn đau đang hoành hành nơi ngực trái, với số lần cha khó thở hụt hơi cứ vội vã tăng lên, những vết bầm đen trên mười đầu ngón tay cha càng lan nhanh và rộng, lan cả vào tim tôi những nỗi đau đớn cắn rứt mãi mãi không lành.

Cây mơ bị gió quật ngã cành lớn sau một trận bão trái mùa khủng khiếp. Người già bảo cây bị “ chậm lại” để chữa lành thương tổn. Năm đó mùa đông đến sớm mà dài, sương trắng rét cắt da cắt thịt phả ra trắng núi. Những đọt lá mơ non chưa kịp nhú ra đã bị sương lạnh làm chột lại không nảy nở được nữa. Không có chồi non lộc biếc, cũng chẳng thể tạo những cánh hoa, tôi hốt hoảng nhận ra cái cây cổ thụ năm nào cũng sai hoa trĩu trịt quả, vững chãi như tường thành mà mình ngỡ không có phong ba nào đánh gục được giờ đây cũng bị cái khắc nghiệt của tạo hóa khiến cho tả tơi xơ xác thế. Đông hết, trời ấm dần nhưng cây vẫn khô quắt lại, cảm nhận sự sống mãnh liệt trên thân cây đang dần theo vết gãy trôi tuột ra ngoài.

Và điều kì diệu chỉ đến khi mùa xuân năm sau, từ thân khô xám quắt nảy ra một rồi hai, rồi vô vàn chiếc lá, từ kẽ lá lại nở bừng ra những chùm hoa ly ti vàng trắng. Vết gãy kia tạo cho thân cây tàn tích u buồn trầm lặng nhưng đẹp một cách ngỡ ngàng . Nửa gốc bị gió quật ngã nhú ra những cành non mơn mởn, nửa còn lại gánh vác thất thảy nhiệm vụ nuôi dưỡng cây đơm hoa kết trái, săn sóc mầm non vừa nhô ra. Càng già, nửa thân cây càng cong rạp xuống. Ở giữa khúc cong ấy, tôi hay mường tượng ra cảnh cha cõng đứa bé con từ lên 3 cho đến lúc trưởng thành.

Mùa Thu rất ân cần

Tác giả Diệu Hiền

Có một mùa thu không trở lại. Rồi nhiều mùa thu không trở lại. Có những khoảnh khắc tưởng chừng rơi vào lãng quên, nhưng lại thành chiếc neo của kỷ niệm. Nhất là khi tình cờ, ta chạm phải một tín hiệu gợi nhớ. Gợi thu. Thì cảm xúc hôm nào, hình ảnh hôm nào bỗng bừng sống lại. Như vừa hôm qua.

Hoa sữa, với thời thiếu nữ của tôi và bạn bè cùng trang lứa, nó chỉ là hình ảnh tưởng tượng ở trong nhạc và thơ. Đó là loài hoa giăng giăng cả miền tưởng tượng “Hôm ấy mùa thu anh vẫn nhớ/Hoa sữa thơm ngây ngất quanh hồ”(Nguyễn Phan Hách). Mùi hoa tan trong áo em và mái tóc. Mùi hoa nào thoáng mùi hương êm đềm. Toàn là màu kỷ niệm tinh khôi, thấm đẫm chất lãng mạn, tiếc nuối của tình yêu mong manh như sương khói.

Rồi *“Nhớ phố Quang Trung đường Nguyễn Du những đêm hoa sữa thơm nồng…” *trong ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ Hoàng Hiệp. Hoa sữa bấy giờ, dường như là đặc ân của đất trời dành cho Hà Nội. Là mùi hương đặc trưng của đêm thu ngây ngất quanh hồ Gươm, tỏa ngan ngát những con phố cổ. Hoa thơm lừng phố. Là loài hoa của trí tưởng tượng mộng mơ nhất thời thanh xuân. Đẹp như một ước lệ tình đầu. Tuyệt nhiên, thuở ấy, chúng tôi không có bất cứ phương tiện tra cứu hình ảnh nào, nên hoa cứ thế mà bay bổng trong miền yêu.

Mang cảm xúc ấy đến thủ đô vào một ngày cuối thu năm 1995, tôi chỉ ước rằng, được nhìn thấy hoa “bằng xương bằng thịt”. Tôi mơ một vài đóa nở muộn. Kỷ niệm chuyến tham quan ngắn ngủi thời sinh viên của tôi không nhiều nhưng thật ấn tượng. Đó là được anh Dũng chở bằng xe đạp lóc cóc lòng vòng phố phường. Hà Nội thuở ấy thưa vắng và hiền hòa. Đó là được chị Hà chở trên chiếc Chaly trong cái lạnh buốt khuya vắng của những con đường tên đã gọi quen, được tận mắt thấy những gánh hàng hoa đẹp như thơ làm mềm con phố. Đó là đi dạo hồ Gươm một mình và trở lại nơi xuất phát thì không tìm ra phố Hàng Trống đâu. Đó là nhờ bác xe ôm chở đi viếng lăng Bác, cũng một mình, vì ngày theo lịch đi cùng lớp, tôi với chị Hương lại đi chơi riêng với bạn bè – những người bạn Hà Nội nhiệt tình, mến khách và giọng nói thì, ôi thôi dễ thương hơn cả giọng phát thanh viên tôi từng nghe. Tôi chưa kịp cảm nhận gì nhiều về Hà Nội thì ngày chia tay đã đến. Tôi vẫn chưa được chạm vào cây hoa sữa, chùm hoa sữa nào. Thế có tiếc không? Thật bất ngờ, lúc đoàn chúng tôi lên xe, anh Dũng xuất hiện. Một bài thơ viết dở trong cuốn sổ tay vì cây bút hết mực, tôi vẫn còn nhớ: Đêm dần buông/Ghế đá trầm tư ngồi đó/Sương thầm giăng/Như nhắc một thời đã qua…(gởi tặng các bạn sinh viên Sư phạm Huế). Và đặc biệt hơn: một cành hoa sữa nhỏ. Chao ôi! Cành thu Hà Nội riêng dành cho tôi.

Bất ngờ hạnh phúc. Chùm hoa trắng xanh tròn tròn, vô số hoa li ti trên cành lá xanh đậm. Hương đêm còn đọng lại trên cành, phảng phất mùi dịu dàng, thoang thoảng. Tôi đã chạm tay vào niềm mơ ước thanh xuân… Mang về đến Huế sau chặng đường xe gần hai ngày, hoa đã héo queo nhưng lòng tôi tràn đầy bâng khuâng, lưu luyến. Tôi mang về tất cả những cảm xúc thơ mộng nhất từ phố phường Hà Nội, từ những người bạn mới gặp lần đầu mà ngỡ rất thân quen. Hình như màu hoa sữa chính là màu nắng thu, dịu nhẹ, chơi vơi. Mỗi bông hoa bé tí trong chùm hoa tròn như loài cẩm cù, long lanh, say đắm. Mùa thu treo trên cao. Hèn chi Hà Nội cứ mơ màng mỗi vào mùa hoa sữa?
Giờ đây, hoa sữa không còn của riêng Hà Nội. Loài hoa nồng nàn của mùa thu được trồng khắp nơi. Quê tôi cũng có. Nhưng nếu trồng dày san sát, hoa sữa non tơ sẽ tỏa mùi rất đậm. Nên mỗi con đường hay góc phố, chỉ cần thì thầm một tín hiệu thu.

Bất chợt một mùi hoa, người thường giật mình thêm một mùa thu đến, thêm một mùa sẽ qua. Bất chợt một loài hoa, nở bừng màu kỷ niệm. Tôi nghe *gió mùa thu rất ân cần *(Trịnh Công Sơn) khẽ luồn qua mái tóc, thơm từng cơn gió. Xôn xao.

Vị tro

Tác giả Nguyễn Hòa Bình

S áng nay khi tôi mở cánh cửa, ngoài trời còn chưa sáng hẳn. Hơi lạnh phả vào mặt, những hạt mưa bay lất phất làm tôi nhớ về mùa đông nơi quê nhà xa xôi. Đã lâu, lâu lắm tôi chưa cảm nhận được cái giá rét như tháng ngày tuổi thơ. Để rồi hôm nay lướt Facebook người bạn líu ríu khoe một món ăn làm tôi như khựng lại, món ăn mà cả thời niên thiếu tôi gắn liền với mùa đông.

Đĩa tro chín được sắp xếp ngay ngắn trên bàn, với nhiều người có lẽ không biết đây là món ăn gì. Với người con xứ Nghệ thì khác, hầu như ai cũng biết quả tro. Tro là cây thuộc lớp cây cau, dừa thường sống nhiều ở bìa rừng được người dân mang về trung du trồng.

Công dụng của cây tro là lấy lá lợp nhà, ấy là ngày xưa chứ bây giờ người ta không dùng lá tro để lợp nữa. Mỗi năm cây tro cho trái vào đầu mùa đông sang cả mùa xuân, tro có quả theo buồng như dừa nhưng buồng tro dài hơn. Quả tro lúc chưa chế biến thì có màu tím xanh, vị rất chát.

Ngày xa xưa ấy hồi tôi còn nhỏ quê tôi đầy rẫy cây tro, đơn giản vì lá tro sẽ hư sau vài ba năm nên người dân trồng để lấy lá lợp mái nhà. Hơn thế quả tro là thực phẩm vừa như lương thực cho mùa đông, mùa giáp hạt. Tro thường được chế biến làm món luộc và muối, gọi như món luộc thì thật ra tro không ai đem luộc như luộc rau mà chế biến cầu kỳ hơn đòi hỏi người nấu phải am hiểu gọi là om tro. Om tro trước tiên đem làm sạch lớp vỏ bên ngoài nhằm làm món ăn không bị chát, các bà các mẹ ngày xưa dùng một nắm tay mây (gọi tay mây vì mây thân mềm không tự vươn lên cao được mà cần bấu víu vào cây khác để leo lên nên cây này có những cái tay đầy gai dùng bám vào thân cây khác).

Bỏ tro vào trong cái rổ tre cho ít tay mây vào úp thêm cái rổ bên trên và bắt đầu lắc khi quả tro tiếp xúc với thành rổ và gai của tay mây sẽ bong tróc phần vỏ ra. Quả tro sau khi làm sạch phần vỏ thì có màu nâu nhạt, để cho ráo nước. Lúc này mới đem đi om, nước dùng om tro là nước chưa sôi hẳn ngày đó các bà thường dùng tay để thử nước khi đang nấu mà thò tay vào cảm giác nóng muốn rụt tay ra là được khoảng năm mươi độ. Nhắc nồi nước xuống khỏi bếp và bỏ tro đã làm sạch vào sau đó đem để bên bếp lửa và ngồi chờ. Việc để bên bếp lửa giúp nước trong nồi luôn ấm tro sẽ từ từ chín. Khoảng bốn mươi lăm phút sau thì tro chín.

Qua tro chín lúc ăn sẽ có vị chát nhẹ vị bùi và vị béo, ngày xưa khi lương thực còn hiếm thì việc ăn tro om như việc ăn nhẹ bây giờ. Nếu để ăn với cơm người ta sẽ chấm với mắm ruốc, vị mặn của mắm hoà vào vị chát, vị bùi, vị béo của tro tạo nên một thức ăn đặc trưng làm cho những người xa xứ không thể nào quên được. Có người đem tách bỏ phần hạt chỉ lấy phần cơm của tro đem xào lên để có một món tro lạ miệng.

Vì tro có nhiều trong vườn nên các bà, các mẹ đem muối tro để ăn dần. Khi muối tương tự như muối cà nhưng tro để nguyên vỏ mà không làm sạch. Vị chát của vỏ tro sau một thời gian ngâm trong muối sẽ mất đi nhưng lúc ăn vẫn còn cảm giác nhám nơi đầu lưỡi.

Ngày nay xã hội phát triển nhà tranh tre đã được xoá sổ thay vào đó là nhà mái ngói vừa đẹp vừa sạch sẽ lại không gây hoả hoạn như nhà tranh (tro). Khi cuộc sống đi lên người ta chặt bỏ cây tro để trồng các loai cây có giá trị kinh tế cao hơn, giờ đây ở Hà Tĩnh nói chung và Hương Sơn nói riêng tro chỉ còn ở những vùng cao. Cũng chính vì cuộc sống tốt đẹp hơn xưa mà con người lại hoài niệm họ tìm về với những món ăn của ngày xưa, món ăn làm ấm lòng trong mùa đông giá lạnh. Tro bây giờ đang là đặc sản của người miền Trung, như mang lại hương vị quê hương ấm nồng bên bếp lửa.

Với ai, những người con xa xứ có lẽ sẽ chạnh lòng khi nhìn thấy món ăn đã từng gắn bó với mình suốt thời gian thơ ấu. Tôi một người con như thế vẫn đau đáu nhớ về quê hương, nhớ về quả tro bùi béo. Nơi ký ức miền quê êm đềm dù gian khó.!

Mẹ chồng tôi

Tác giả Hồng Vân

C ó rất nhiều câu chuyện kể về mối quan hệ không mấy tốt đẹp giữa mẹ chồng nàng dâu. Nhưng với riêng tôi, mẹ chồng là người tôi luôn yêu thương, kính trọng. Tôi làm dâu nhà mẹ khi còn là cô gái mới bước qua tuổi hai mươi non nớt, thiếu kinh nghiệm sống.

Gần hai mươi năm sống bên mẹ chồng, quãng thời gian đủ dài để tôi hiểu mẹ, xóa bỏ bức tường vô hình giữa mẹ chồng nàng dâu. Đối với tôi, bà vừa là mẹ vừa là người thầy đầu tiên dạy tôi mọi điều khi tôi mới chân ướt, chân ráo rời quê hương đến một vùng đất hoàn toàn xa lạ. Bây giờ, mẹ chồng tôi cũng đã rời xa cõi tạm, bay về miền cực lạc. Nhưng những ký ức đẹp về mẹ như ngọn lửa ấm áp luôn âm ỉ cháy trong tôi.

Mẹ chồng tôi là một phụ nữ Mường xinh đẹp, sinh ra dưới chân ngọn núi Chồng Mâm bốn mùa mây phủ. Khi tôi về làm dâu, bà đã gần 60 tuổi nhưng vẫn giữ được dáng người thanh thoát, nước da trắng hồng khỏe mạnh, mái tóc đen dày lúc nào cũng được búi gọn gàng sau gáy. Đặc biệt bà có nụ cười thật ấm áp với hàng răng đều tăm tắp và đen nhưng nhức luôn thơm nồng mùi trầu thuốc. Lúc nào bà cũng giản dị trong bộ váy Mường tự dệt bằng sợi bông.

Ngày đó, ngôi làng nhỏ nơi tôi đến làm dâu nghèo lắm. Nơi đây, người dân sống chủ yếu nhờ vào những nương sắn, nương khoai… dưới chân ngọn núi bốn mùa mây phủ và những mảnh ruộng bậc thang nhỏ xíu nằm giữa làng. Cái đói, cái nghèo luôn hiện hữu trong mỗi gia đình. Quanh năm ăn không đủ no, mặc không đủ ấm nên không lấy làm lạ khi rất nhiều người trong làng không biết chữ. Cả đời chỉ quẩn quanh sau lũy tre làng nhưng mẹ chồng tôi lại là người có tư tưởng rất tiến bộ. Bà quan niệm rằng: “Có học, có hiểu biết mới thoát khỏi đói nghèo”. Bà luôn động viên các con cố gắng học để sau này trở về giúp ích cho bà con dân bản. Để có tiền trang trải học hành cho chín đứa con, mẹ chồng tôi đã không nề hà bất kỳ công việc khổ cực nào từ gánh gạch thuê, cấy thuê hay vác thuê những cây gỗ nặng hơn cả cân nặng của chính mình. Có những đêm mùa đông giá buốt mẹ chồng tôi vẫn một mình lặn lội nơi đồng sâu, suối vắng kiếm chút cá tôm bán lấy tiền cho các con đóng học. Rồi những ngày giáp hạt mẹ lại lặng lẽ nhường phần cơm trắng cho con giành về phần mình những miếng sắn sượng trái mùa nhạt thếch. Không phụ công mẹ, các anh chị chồng tôi chăm chỉ học tập rồi lần lượt trở thành bác sỹ, kỹ sư, bộ đội…Mỗi dịp anh em tụ họp đông đủ mẹ chồng tôi luôn căn dặn: “Các con phải biết yêu thương, giúp đỡ mọi người, sống giản dị không được làm phiền hà đến dân.” Sau này, các anh chị chồng tôi dù công tác ở bất cứ đâu cũng luôn ghi nhớ lời căn dặn của mẹ nên luôn được anh em đồng nghiệp quý mến.

Bà là người thầy đầu tiên khi tôi mới đến vùng đất này. Từ việc dạy tôi học cấy, học gặt tới việc giảng giải cho tôi hiểu những phong tục tập quán về ma chay, cưới xin của người Mường. Ở đây, khi bố mẹ mất các con thường phải cắt cụt mái tóc để tang. Ngày bố chồng tôi mất, ông thầy mo đang cầm kéo định cắt đi mái tóc dài tha thướt của tôi thì bà ngăn lại và nói: “Ông cắt cho cháu ít thôi. Sau này cháu còn phải lên lớp, phải đứng trước học sinh. Tóc ngắn quá sẽ không đẹp. Lòng hiếu thuận thể hiện ở hành động chứ đâu chỉ qua một nắm tóc.” Mẹ chồng tôi là vậy, luôn yêu thương các con theo cách của riêng mình. Bà luôn dành những gì tốt nhất cho con cháu.

Tôi là đứa con dâu út ít của bà, chỉ nhỉnh hơn mấy đứa cháu trong nhà vài tuổi. Có lẽ vì vậy mà bà càng yêu thương tôi hơn. Những đêm đông giá rét, bên bếp lửa rừng rực cháy tôi thích lồng bàn tay nhỏ bé của mình vào đôi bàn tay ấm áp, thô nháp vì lao động vất vả của mẹ, nghe bà rầm rì kể những câu chuyện cổ tích của người Mường. Hoặc lặng lẽ nghe bà đọc những bài thơ, bài ca dao xưa cũ. Đặc biệt tôi thích ngắm bóng bà chập chờn bên vách nứa, thích mùi trầu thơm nồng tỏa ra từ người bà. Mùi trầu thơm đó cho tôi cảm giác thật ấm áp, cảm giác được yêu thương, che chở. Biết tôi thích ăn rau đồ bà thường vào rừng kiếm rau về đồ và để dành cho tôi. Món rau đồ của bà thật ngon. Nó có vị thơm của những hạt vừng đen, vị nhăng nhẳng đắng của thứ quả cà dại đầy gai mọc ven đường. Vị thanh mát của rau muồng muồng, của thứ mụn éo vừa chui dưới đất lên. Vị ngọt của những tai nấm mọc trên các thân cây mục mùa mưa. Sau này tôi đi nhiều nơi và cũng được thưởng thức nhiều loại rau đồ nhưng vẫn không thấy ngon bằng món rau của mẹ chồng tôi. Món rau mang cả tình thương của người mẹ dành cho con.

Mẹ chồng tôi không chỉ dành tình yêu thương cho các con mà còn luôn luôn hết lòng giúp đỡ mọi người. Vốn sẵn có nghề bốc thuốc nam cha ông truyền lại nhưng bà không dùng nó để kiếm tiền mà để cứu người. Bệnh nhân của bà là những cặp đôi hiếm muộn từ khắp các nơi đổ về với mong muốn có được đứa con cho vui cửa vui nhà, là những gia đình nghèo trong làng, đêm hôm khuya khoắt chồng con đau ốm không kịp đi bệnh viện. Ai đến xin thuốc bà cũng cho, không kể giàu nghèo, không kể xa gần, không kể lúc đó là đêm khuya hay sáng sớm. Bà thường bảo: “Trăm việc tốt không bằng việc cứu người”. Nhiều khi gặp những bệnh nhân nghèo mẹ chồng tôi vừa bốc thuốc, vừa cho thêm chút quà giúp người bệnh bớt phần nào khó khăn. Để có những cây thuốc quý hiếm cứu giúp người bệnh bà không ngại ngần leo lên đỉnh ngọn núi Rộc trước nhà hay đi đến những cánh rừng xa để kiếm tìm. Những gia đình được bà chữa khỏi bệnh, đem lại niềm vui nhiều không kể hết. Cứ mỗi dịp tết, đến xuân về, những người đã từng được bà chữa trị bệnh lại từ khắp nơi đổ về thăm bà. Ngắm nhìn nụ cười thơ ngây của những đứa trẻ, nhìn niềm hạnh phúc ngời lên trong mắt của những ông bố, bà mẹ hiếm muộn, mẹ chồng tôi thường nở nụ cười ấm áp.

Có lẽ những năm tháng nuôi con ăn học vất vả, những ngày đổ mồ hôi kiếm tìm thuốc cứu người đã khiến cho sức khỏe mẹ chồng tôi hao mòn dần. Cho đến một ngày bà phát hiện bị ung thư giai đoạn cuối. Trái ngược với sự bất ngờ, đau xót của các con, mẹ chồng tôi bình thản đón nhận. Bà động viên anh em tôi rằng: “Ai rồi cũng phải già. Mẹ gần 80 tuổi rồi lo gì nữa”. Những ngày tháng cuối cùng còn lại của đời mình bà vẫn lạc quan và luôn truyền cho con cháu niềm tin và niềm hy vọng. Bà mạnh mẽ chiến đấu với bệnh tật mà không hề kêu ca hay oán thán. Nhiều lúc nhìn mẹ ngày càng hao gầy bởi căn bệnh quái ác tôi không khỏi đau xót đến rơi nước mắt. Mỗi lần nhìn thấy nước mắt tôi rơi mẹ lại khẽ đưa bàn tay chỉ còn da bọc xương vuốt mái tóc tôi, mắt ánh lên đầy những thương yêu. Rồi bà nhẹ nhàng ra đi vào một ngày cuối hạ để lại cho anh em tôi bao nỗi nhớ thương, xa xót.

Mẹ chồng tôi – người phụ nữ Mường cả đời gắn bó với ruộng đồng nhưng có trái tim thật ấm áp. Cả cuộc đời bà luôn cho đi mà không cần nhận lại. Nay mẹ chồng tôi không còn nữa nhưng những ký ức về bà, những yêu thương và những việc làm tử tế mà bà đã dành cho các con, cho dân bản như những bông hoa đẹp, tươi thắm mãi trong lòng mọi người. Tôi mong bà nơi miền cực lạc cũng có một cuộc sống vui vẻ và được mọi người yêu thương như bà đã từng yêu thương và sống hết mình vì những người xung quanh.