26 C
Hanoi
Chủ Nhật, Tháng 10 19, 2025

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...

Hát những giai điệu yêu thương

T huở còn thơ dại, tôi là...
Trang chủ Blog Trang 66

Đà Lạt và tôi

Tôi chẳng vay gì Đà Lạt. Đà Lạt cũng chẳng nợ gì tôi. Chẳng có cái mất nào sắp phải đối mặt, cũng chẳng có cái được nào đang ngóng chờ. Không cố nhân, chẳng tân nhân. Những chỗ đáng đi thì đều đã tới. Đà Lạt có còn xa lạ gì đâu.

                                              Lần này vào, cũng không vì công to việc lớn, chỉ là một cuộc tập huấn rồi nghỉ cuối tuần. Tự trích ngang ra thế, tôi ngờ mình bay vào đây cũng như bay đến bao chốn khác thôi… Cớ gì khi màu thông xanh chợt xao động dưới mây, tôi vẫn nhoài ra ? Cớ gì khi thấy hồ Xuân Hương lươn lướt dưới cánh máy bay, tôi vẫn cứ nghển cổ trông theo mãi? Có cái gì như xốn xang, như chực tràn bờ. Sao thế nhỉ ? Tôi kì vọng điều gì ở dưới ấy ? Tôi định kiếm tìm gì ở Đà Lạt ? Chẳng nhẽ chỉ vì một tuần được bứt khỏi Hà Nội, được nghỉ, được quên đang đợi mình dưới kia thôi sao ? Hay Đà Lạt thầm ám tôi mà tôi không hay biết ?

Ôn đới gần

                                        Tôi đồ rằng, do bất bình trước cái việc tạo hóa đã ném mình vào nắng nung khiến thân nhiệt lúc nào cũng nồng nã vã sáng, xứ nhiệt đới này đã gồng mình cướp lại bằng được một phần ôn đới rồi đem về cất giấu tận trên cao nguyên Di Linh làm của để dành. Vì thế mà có Đà Lạt. Đà Lạt được giấu kín như thế hàng kỉ nguyên sau mây mù và rừng núi rậm rạp. Kín đến nỗi chính xứ nhiệt đới cũng từng quên mất nó. Chỉ đến khi một người Pháp tốt bụng là Yersin kiên nhẫn dò tìm và phát hiện ra, thì Đà Lạt mới được khua dậy, được dắt tay ra khỏi lãng quên. Lập tức người Pháp ở Đông Dương chọn đây làm nơi nghỉ dưỡng khi không thể về bản quốc.

Lên đây, họ cảm thấy được hồi hương ngay tại xứ người. Người Việt xem Đà Lạt như một ôn đới gần, một ôn đới nằm gọn trong vòng tay nhiệt đới. Từ Hà Nội bay vào hay Sài Gòn bay ra, họ đều cất cánh từ mùa hạ, sau vài tiếng đồng hồ, đáp cánh xuống mùa thu. Người bị ngập đầu trong guồng quay công việc tìm về đây cho ngày cuối tuần thư giãn, y như thỏi sắt nung được nhúng vào nước lạnh.

Người cầm tù trong nhịp sống tĩnh tại, thời gian biểu quẩn quanh, tìm về đây như một dịp thau chua rửa mặn, được sống những nhu cầu khuất lấp trong mình. Có phải ngàn thông là một bộ lọc tận tụy vô tư cho Đà Lạt không ? Bao bọc Đà Lạt trong lòng mình, ru vỗ Đà Lạt trong cái nôi xanh đời đời của mình, thông cao nguyên cứ lặng thầm lọc nóng thành mát, đục thành trong, tục thành thanh, ồn ã thành êm ả, nhiệt đới thành ôn đới.

Người đến Đà Lạt ngỡ như được làm mát, làm trong lại mình. Ôi, người Việt Nam những thế hệ trước, chỉ một mực sống cho người khác, đầu tắt mặt tối một đời. Các thế hệ ấy thường chia cái đời mình làm hai chặng. Chặng đầu, nai lưng làm lụng tích cóp như một con lừa. Chỉ sau khi mọi chuyện lớn bé của bổn phận người đã hòm hòm, họ mới cho phép mình sang chặng hai, ấy là hưởng đời một chút, thăm thú chỗ nọ chỗ kia một chút.

                                  Nhưng khốn nỗi, chặng trước đâu có chịu dừng, nó thường nuốt gọn cả chặng sau, khiến đời tàn lực kiệt. Lúc hưởng được thì không được hưởng, lúc được hưởng lại không hưởng được. Thế, họ cũng chẳng lấy làm tiếc. Đà Lạt thế kỉ trước là chốn xa xỉ, viển vông ngay cả với người không thiếu điều kiện. Một ôn đới ngay trong tầm tay mà họ cũng không thể đến. May thay, quan niệm về chất lượng sống cũng khác dần.

Người Việt nay có vẻ hiện sinh hơn. 7X, 8X bây giờ ứng xử khác : vừa làm vừa hưởng. Địa chỉ xanh cho ngày nóng ở xứ mình đâu có ít, nhưng xem ra Đà Lạt vẫn là lựa chọn sâu kín nhất cho mỗi chuyến ngao du. Vẫn biết, gió tươi cao nguyên có thể làm dịu đời một lát, chứ không thể làm dịu mát một đời. Nhưng dù ngắn vẫn hơn không! Chẳng đổi đời thì đổi gió. Mà cứ gì 7X với 8X, chuyến bay lánh nóng này của tôi cũng đang tìm về Đà Lạt đây thôi. Chẳng phải miền ôn đới quốc nội này đang mê dụ tôi sao ? Chẳng phải lúc nào tôi cũng thèm được làm tươi, làm trong lại đời mình sao ? Thảo nào, lúc máy bay chớm vào miền thông xanh, mình cứ nhấp nhổm hoài.

Xứ tình yêu

                                   Với những người yêu, Đà Lạt là xứ tình. Cái mát mẻ thiên phú làm cho cỏ cây non nước chốn này thảy đều gợi cảm, gợi tình. Đà Lạt khác nào một vườn địa đàng được tạo riêng cho những cặp uyên ương. Huyền thoại tình yêu ngày ngày vẫn vẽ lại thiên nhiên xứ sở. Cái ngọn núi cao nhất Đà Lạt là Langbiang vốn mang trong nó truyền thuyết về một tình yêu bất tử. Ngày đêm từ cao vời dõi trông xứ sở, hẳn Langbiang đã thành vị thần bảo trợ đất này. Uy của thần đã khiến các thắng cảnh kì thú nhất nơi đây kết nối với nhau chung tay biến Đà Lạt thành cõi tình. Một cõi tình luôn để ngỏ mời mọc mọi lứa đôi.

          Cứ thế tạo vật được design theo bản đồ tình yêu. Hay tình yêu tự lập bản đồ cho tạo vật theo ý mình? Chả biết, chỉ biết lần theo những địa danh nổi tiếng xứ này, người ta như bị dẫn dụ vào non nước của ái tình : Thung lũng tình yêu, Đồi Mộng mơ, Thác Cam ly, Hồ Xuân hương, Hồ Tuyền lâm, Hồ Than thở, Đồi thông hai mộ… Còn từng địa danh thì ngập trong thế giới của hoa yêu: dã quỳ, mimosa, foget me not, hoa đào, hoa hồng, lay ơn, bất tử…

Chỉ sau hơn một giờ bay, từ chốn phồn tạp, những người yêu đã hạ cánh xuống địa đàng. Uyên ương hẹn hò lên đây như lên chốn Thiên Thai. Phu thê tìm đến đây như tìm về vườn Eden cho tuần trăng mật. Người vội đánh mất quãng son trẻ tìm về đây mong một dịp tái son, truy lĩnh chút nào phần lãng mạn thất thoát. Người tơi tả những vết thương sâu tìm về đây với hi vọng được băng bó, rịt lành. Người thất lạc nhau trong quãng đời trước lặn lội về đây để trao nhau những gì chưa kịp trao, nhận những gì chưa kịp nhận, như một đền bù muộn.

                                Ai cũng mong tìm ở xứ sương rơi này một chút lãng quên, xin mây mưa chút vui vầy và nghe từ thông xanh một lời độ lượng khi nhịp tim đập loạn. Rồi thì về lại đời mình sống tiếp phận mình. Đà Lạt bí mật mở những Khau Vai, những hội chen Nga Hoàng, Giã La cho dân gian. Cùng với cái mát mẻ ôn đới, đây chính là nét quyến rũ mà Tuần Châu, Cát Bà, Sầm Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu, Phú Quốc không thể có được, thậm chí Tam Đảo, Sa Pa, Bà Nà cũng không sánh được.

Bao kẻ yêu cứ thế đổ bộ xuống Đà Lạt. Nhưng khốn nỗi, thời gian ở cõi yêu bao giờ chẳng trôi nhanh. Trăng mật bao giờ chẳng ngắn. Vài ngày trôi qua chóng vánh, làm sao đủ thỏa lòng nhau. Với những tái hồi muộn, đôi khi, đến bên nhau rồi, gần nhau là thế, nhưng chắc gì đã có thể tỏ bày. Biết đâu lại chẳng ngọng nghịu, khờ khạo, chẳng dấm dớ, vu vơ như cái thuở não nào… Rồi lại giã từ, về lại phận mình mà chưa kịp trao gửi nhau bất cứ điều gì. Háo hức mang đến lại lủi thủi mang về.

                              Nhưng, dù sao Đà Lạt vẫn là một cơ hội vàng. Bay cùng tôi trong chuyến bay này, có bao nhiêu trái tim đang hồi hộp trong những lồng ngực có vẻ điềm nhiên kia ? Làm sao tôi biết rõ. Riêng anh bạn đi cùng chuyến tập huấn với tôi đây, thì ngay từ lúc kéo va li vào check in đã khó điềm nhiên rồi. Ba ngày nữa vợ anh cũng sẽ bay vào. Họ đã chọn Đà Lạt cho sự kiện mong chờ : sinh nhật vợ và 20 năm ngày cưới. Dù trước đó họ vừa có một kì cuối tuần Phú Quốc, và ngày tròn của con số 20 thực ra còn ở tháng sau.

Nhưng, chả cản trở gì. Kỉ niệm như thế phải thuộc về Đà Lạt thôi. Họ sẽ cùng lượn xe đạp đôi ven Thung lũng tình yêu và những gương hồ Đà Lạt, sẽ lượn trên những con dốc mềm qua các vườn hoa, quầy hoa đẹp nhất, rồi sẽ cùng lên đỉnh Langbiang… Ba ngày nữa, chiếc xe đạp đôi nào dưới kia sẽ có may mắn được chọn, loài hoa nào, bông hoa nào sẽ gặp hên đây ?… Hèn chi mà chẳng bồn chồn ? Phần mình, đến Đà Lạt lần này, dù biết không còn trẻ, tôi vẫn mong có những hồi hộp như thế !

Những hồi hộp sẽ thì thầm bên tai rằng đời chưa phải đã hết, dù mất mát rụng rơi vẫn có cơ tìm lại, những ngày Đà Lạt này sẽ vẫn là những ngày đôi lứa, như thuở mới yêu, thuở chưa đắng cay gì. Bên cửa sổ máy bay, tôi miên man nghĩ tới những bông hoa Đà Lạt, ở dưới xứ thông kia có sắc hoa nào ứng với tôi không ? có bông hoa nào sẵn lòng chia sẻ với tôi không ?

Xứ Trịnh ca

Nếu đi sâu vào Đà Lạt, bạn sẽ gặp những con phố vắng. Đi sâu vào từng phố vắng, bạn sẽ gặp những quán cà phê. Đi sâu vào mỗi quán cà phê, bạn sẽ gặp Trịnh Công Sơn. Để được chìm đắm với xứ này, tôi đã đôi lần tìm uống cà phê. Khi ấy, tôi thường trầm ngâm với những cái tên mà người đời đã dành cho Đà Lạt. Nào xứ sương rơi, xứ thông reo, xứ ngàn thương, xứ ngàn hoa, xứ tình yêu, nào thành phố buồn, rồi Pa ri nhỏ (Le petit Paris)… Cái tên nào cũng muốn gọi ra hồn vía Đà Lạt… Một đêm, trở về từ quán nhạc, lững thững ven hồ Xuân hương, tôi đã gọi Đà Lạt là “xứ Trịnh ca”, vì chợt nhận ra Trịnh là một chiều sâu khác của xứ này.

                                              Nhạc quán ấy là Diễm xưa, một không gian thuần Trịnh. Đêm nào diễn, họ cũng thắp nến, dâng hương trước chân dung Trịnh Công Sơn. Sơn được bái vọng thờ phụng, được tri ân. Cũng phải thôi, họ đã gắn đời với Sơn, được hưởng lộc từ Sơn. Sơn giúp họ nuôi họ, cũng giúp họ thành họ. Đam mê ca hát dành cho một mình Sơn kể cũng là đặc biệt.

Những kiếp cầm ca nương nhờ vào Sơn để phiêu du phận mình trong cái đời người dài dặc và hoang hoải này. Nếu không có Sơn, đời nhạc của họ rồi sẽ ra sao ? Ngày nào cũng hát Trịnh, nhưng người nghe không khi nào hết chăm chú nghiêm trang. Lời bình phẩm bên li cà phê chỉ thầm thì, ý nhị. Vì ca sĩ ? Vì nhạc sĩ ? Hay vì một nhã thú, một nghi lễ đang diễn ra trong không gian nhạc này? Thật khó mà tách bạch. Ở Đà Lạt, đâu đâu cũng ngân thầm nhạc Trịnh. Khi ấy tôi thấy dường như cả Đà Lạt đã thu nhỏ mình thành nhạc quán Diễm xưa.

Nhân duyên nào đã gắn Sơn với xứ này ? Sao không là Huế hay Sài Gòn ? Huế là quê Sơn, người Huế rất yêu Sơn. Nhưng không gian nhạc Huế đã đặc kín những Nam bình Nam ai, những nhã nhạc cung đình. Ở đó, Sơn đành khép nép thôi. Hầu như cả đời Sơn gắn với Sài thành. Nhưng Sài thành có một dạ dày nhạc khủng, ngốn tất tật các thứ nhạc trên đời.

Dù được yêu, Sơn cũng chỉ là một thị phần. Có lẽ không ở đâu Sơn được thiên vị như Đà Lạt. Không sinh ở Đà Lạt, cũng không mất ở Đà Lạt, thời dạy học ngắn ngủi, thì ở Blao, cách thành phố này cả trăm cây số, không sống nhiều ở đây và dường như cũng ít sáng tác ở đây… những mối liên hệ thường thấy để một người có thể thuộc về một vùng đất dường như vắng bóng trong quan hệ của Sơn với Đà Lạt. Ngoại trừ một lí do không mấy trực tiếp : Khánh Ly. Đà Lạt là nơi Sơn gặp Khánh Ly. Nhưng đây hẳn là lí do của mọi lí do, liên hệ của mọi liên hệ chăng ? Mối duyên nhạc, duyên đời, đã nảy nở ở chốn này. Vì thế, nó là chất keo để kết dính một hồn nhạc vào xứ sở chăng ? Ấy là Đà Lạt qua Ly mà có Sơn.

           Nhưng, đâu chỉ thế. Ít có xứ nào trên dải đất này lại nhạy cảm như Đà Lạt. Y như một cô gái đa cảm, hễ ngoài biển Đông động bão, dù là bão tít mù phía vịnh Bắc bộ, hay bão dạt mãi tận cực Nam, thì Đà Lạt cũng lập tức rơi mưa. Người ta thấy màu hoa mimosa hay dã quỳ vào những ngày ấy cũng ngùi ngùi biến sắc, nước hồ Xuân Hương khi ấy cũng khác màu. Tiếng thông vi vút quen thuộc trên những ngọn núi kia vào ngày ấy cũng xao xác khôn nguôi. Và rồi, người ta cũng nói: đến Đà Lạt thì ngay cả sỏi đá cũng động lòng yêu.

Bởi vạn vật khắp xứ đều thầm thì vào tai người cùng một câu hát thôi “hãy yêu nhau đi”. Nó khiến người đã đến đây sẽ thấm thía cái nghĩa lí của tình yêu trong cuộc nhân sinh này. Một mảnh đất như thế không thể không chọn Sơn. Còn ai hơn Sơn trong linh cảm về nỗi yên hàn mong manh của mặt đất này. Còn ai hơn Sơn trong linh cảm về những giấc mơ đời hư ảo. Và thế là như một lẽ tự nhiên, Đà Lạt thấy ở Sơn một hồn đồng điệu. Sơn là người hát lên linh cảm của mình, cũng là linh cảm của Đà Lạt.

                                    Đà Lạt mượn Sơn để bày tỏ. Những viên sỏi, hòn đá của xứ ngàn thông đã níu nhạc Trịnh lại với mình. Và, cũng chỉ có ở cõi tình Đà Lạt, trong màn sương thơm phấn thông, bên li cà phê đơn hay đôi, nhạc Trịnh mới ru mê thế. Phải, chỉ Đà Lạt mới là xứ Trịnh Ca. Xưa thành Nam từng hãnh diện với “ăn chuối ngự đọc thơ Xương”, thì nay Đà Lạt cũng có thể kiêu sa với “uống cà phê nghe nhạc Trịnh”. Ngồi cà phê trong quán khuya ở xứ này, nghe Trịnh da vàng hay Trịnh tình ca, đều sẽ thấy âm thanh như những giọt mưa gieo xuống miền thông, lại như những hạt mầm nảy trong đêm Di Linh, thấy mình được vỡ vụn, được phiêu diêu, lại được lắng, được nguôi, được băng bó, nương náu vào một cái gì.

Xứ thiền

Trúc lâm thiền viện là một chiều sâu khác của Đà Lạt. Gốc gác tận Yên Tử từ tít đời Trần với vị đầu đà danh lừng khắp cõi là Trần Nhân Tông, thiền phái giàu chất Việt này như dòng nước ngầm bền bỉ, qua năm sáu thế kỉ đã chảy vào tâm linh Đà Lạt. Nhưng phải cuối thế kỉ trước, thiền viện này mới được lập nên. Và đến nay, thiền viện Đà Lạt lại đang làm một hành trình chảy ngược ra phía bắc. Đến đâu, các thiền viện theo mô hình Đà Lạt lại mọc lên đến đấy. Giờ, nó đã ra đến nơi phát tích của mình rồi.

                                Sau khi thắp hương, vãng cảnh như một kẻ hành hương, tôi ra ngồi trước hồ Tịnh Tâm. Trong phút giây thư thái hiếm hoi bên hồ, tôi mới thấm thía về cái được cái mất đáng giá vào bậc nhất của đời người. Thư thái là gì nếu không phải là trạng thái bình thản bên trong, khi tinh thần bằng an, không bị xô đẩy. Và đó là tĩnh tâm. Tâm tĩnh như gương nước tĩnh, cho ta thấy rõ mặt mình. Chỉ trong thư thái mình mới thật là mình. Ba động là lúc nội tâm chòng chành chao đảo nhiễu loạn, hình bóng mình bị vỡ ra muôn ngàn mảnh. Vọng động có được dẹp yên, hình và bóng mới không còn tranh chấp, mới nhập vào nhau mà nên bản thể mình.

Bởi thế, thư thái trong nội tâm chính là hạnh phúc. Đánh mất sự thư thái cũng là đánh mất gương mặt mình, đánh mất cái hạnh phúc được là mình. Nhưng, một nội tâm thư thái chỉ được nảy nở và nuôi nấng trong một không gian sống bình yên. Mà cuộc sống hiện đại lại đang đánh mất dần sự bình yên. Không gian sống luôn bị tra tấn đầu độc bằng đủ mọi thứ bát nháo của công nghiệp, phố xá và thị trường. Thế giới thành cái chợ mất rồi.

Cái yên ả êm đềm bị bài xích xua đuổi dần khỏi những chung cư phường phố. Sự yên bình đành rời bỏ chốn đô hội để tìm về nương náu trú ngụ ở những chốn xa. Và những ham hố, thù hận, u mê, những phụ bạc, thất thoát, phản trắc, những vết thương bị gây ra và tự gây ra cũng luôn băm nát lòng mình, chiếm đoạt mất thư thái trong tâm mình. Bất an là thường hằng, thư thái chỉ thoáng chốc. Hành trình kiếm tìm hạnh phúc trong bề sâu là tìm kiếm thư thái mà có phải lúc nào mình cũng hay biết đâu.

                                            Tôi đến Đà Lạt, mong tìm kiếm gì đây ? cái cảm giác ôn đới ? cái cảm xúc yêu và được yêu? cái trạng thái được quên rất nhiều, được an trú trong ảo mê cùng cà phê và nhạc Trịnh ? Tất cả Đà Lạt là đó sao ? Những tra vấn khôn nguôi khi đứng trước Thiền viện đã đẩy tôi tới bên hồ Tịnh Tâm này. Mặt ai đang vỡ dưới hồ kia ? Hình ai đang quay cuồng loạn múa ? Mặt hồ khi ấy đâu đã lặng gì !… Thôi, ngồi xuống, thiền đi, thở đều, thật đều, dù giờ đây tìm lại được bình lặng cho gương hồ thật mong manh mờ mịt làm sao !

Tôi đâu phải một thiền sư. Cõi riêng tôi cũng tựa như Đà Lạt này: đỉnh là Langbiang và đáy là Tịnh Tâm. Tôi cần bình yên và cả tình yêu. Có thể cầm giữ bình yên bằng tình yêu được không ? Bình yên nuôi dưỡng tình yêu hay tình yêu nuôi dưỡng bình yên? Đà Lạt có thể là một trái tim cho những lứa đôi tìm về nương náu được không ? Dường như, câu trả lời của Đà Lạt là “có”. Bình yên có thể tưới tắm cho tình yêu, làm dưỡng chất của tình yêu. Mà cho dù không, thì Thung lũng tình yêu, đồi Mộng mơ vẫn có thể xoa dịu, chí ít, thì hồ Xuân hương, hồ Tuyền lâm là những đền bù.

Hằng ngày, trời thả bình yên vào mây trôi, sương ướp bình yên vào  ngàn thông, thông thả từng thoáng bình yên biêng biếc vào gió, còn gió thì đem dải xuống mặt hồ. Mặt hồ không đành hưởng hết mà đem lại quả một phần bình yên cho hoa lá cỏ cây qua từng viền sóng. Bao lứa đôi đang chụm môi cà phê thủy tạ, dún dín xe đạp đôi bay lượn ven hồ, hân hoan du thuyền mặt hồ, chẳng phải đôi nào cũng đang căng tất cả giác quan để cảm nhận hương vị tình yêu và dưỡng khí bình yên đó sao?

Chốn bình yên sâu khuất

                                  Sinh ra ở trên cao, ngỡ Đà Lạt đã được phú cho một bình yên vĩnh viễn. Bình yên mới là gia tài lớn nhất của Đà Lạt. Để cầm giữ sự bình yên quí giá ấy, Đà Lạt đã phải đánh đổi phận mình, lùi sâu vào ẩn dật giữa sơn dã lâm tuyền. Đà Lạt đã nâng niu sự bình yên của mình bằng một nhịp sống chậm, bằng cách sống sâu, gắng gỏi cách li với những hối hả phiền tạp của các đô thị lớn mạn dưới.

Nhưng những hàng thông giàu tiên cảm kia, những vạt hoa đồi quá mẫn cảm kia dường như hằng đêm vẫn trăn trở, lo âu, vẫn nơm nớp với linh cảm về một ngày nào đó bình yên có thể bị tuột mất, đoạt mất. Với người đến từ chốn náo động xô bồ, Đà Lạt là tỉ phú của êm ả, là nơi cư trú muôn đời của bình yên. Nhưng chỉ có Đà Lạt mới thực sự biết rằng sự bình yên ấy mong manh thế nào, và Đà Lạt phải ráng mình để chắt chiu vun góp cho bình yên ấy ra sao.

Mối nguy cơ đến từ vùng thấp đang lan tràn và lăm le đánh chiếm nốt miền cao này. Cái xô bồ, hỗn tạp, nhiễu loạn, quay cuồng chả đời nào chịu buông tha cho những chốn êm đềm yên ả. Sự cách li có là phòng tuyến lâu dài? Sự ẩn dật có thể là trường thành chống đỡ ? và cách sống chậm nữa, liệu có thể là lá mộc che giữ cho sự bình yên này mãi không ? Tôi đọc ra niềm lo âu trong mỗi tiếng thở dài của rừng thông về đêm và những thoáng rùng mình kín đáo từ những đóa hoa hồng, lay ơn, cẩm tú cầu khi những tia nắng đầu tiên gọi về một ngày mới.

Nỗi lo âu dường như cũng tỏ mờ ngay cả trong những làn hương từ mỗi li cà phê trong quán nhỏ. Chẳng thế mà, đang nghi ngút tỏa lên yên ả vậy, sao chốc chốc làn hương lại chợt ngừng, chợt ngơ ngẩn bởi những thoáng gió lạ lúc nắng mai? Chỉ Đà Lạt mới biết hằng đêm, mỗi khi tiếng chuông điểm canh trên thiền viện ngân trong thanh vắng, thì cũng là lúc ngàn thông vào thiền định trong một lễ cầu an mênh mông thầm nguyện cầu cho xứ sở yên hàn.

Khi đêm qua đi, tôi như chợt nghe thấy tiếng nói tỉnh táo từ những cây thông tham thiền sâu nhất trong đêm Đà Lạt. Rằng: khi lòng khánh kiệt bình yên, những mất mát, đổ vỡ có không được hoàn nguyên, thì cũng được băng bó ràng rịt. Ít nhất thì cũng được quên. Đôi khi, quên là một liệu pháp để có một bình yên ảo. Nhưng dù sao nó cũng giúp rịt lại những vết thương thật. Dẫu chỉ là cầm máu trong ngày. Không có cuộc đời hạnh phúc, chỉ có những khoảnh khắc hạnh phúc. Không có những cuộc đời bình yên, chỉ có những khoảnh khắc bình yên. Sống là chi chút từng khoảnh khắc, dành dụm từng khoảnh khắc. Chắt chiu được càng nhiều khoảnh khắc, thì chuỗi bình yên hạnh phúc càng dài. Vậy thôi. Đừng ảo tưởng.

                                              Và tôi nhận ra, trong chúng ta ai chẳng thèm một Đà Lạt, ai chẳng giấu một Đà Lạt. Có phải bình yên trong chúng ta đang gọi tên Đà Lạt không ? Đến chốn này, nhìn vào lòng ta, ta mới thấy rõ, lỗ hổng lớn của đời mình trong nhịp sống này là Đà Lạt. Đà Lạt là nỗi chắt chiu trong đời sống nháo nhào của ta. Về Đà Lạt, ta đang về với chốn bình yên sâu khuất trong mình…

Tái bút:

Chiều nay, tôi đã cố hít đầy lồng ngực một Đà Lạt, trước khi bước vào trong máy bay rời mảnh đất này.

                                                                                             Hà Nội, 8-2012

Ở đầm Vạc, viết cho cò

                                           Mộ tiếng đầm Vạc đã lâu, qua lại đường này dễ cũng đã trăm lần, vậy mà tôi chưa lần nào ghé được. Hè này, do một cơ duyên, tôi có cả tháng trời về sống bên đầm Vạc. Lạ. đầm Vạc mà không có vạc ! Vạc đã bỏ cả đi, hay không còn con nào sống sót ? Mấy ngày, ngó mọi nẻo bờ đầm quanh quất, khắp cả mặt nước bạc mênh mông, chỉ thấy tới lui những bóng cò. Đành vậy. Còn cò là may rồi.Tôi tưởng mình đã mất hẳn những bóng cò cùng với tuổi thơ xứ Thanh.

                                  Hồi ấy, chiến tranh, trường nào cũng phân tán nhỏ, trong làng tản hết ra giữa đồng. Lớp vỡ lòng của tôi ra cây đa đồng Màng. Lớp ba của anh tôi ra tận đồng Vải. Đề phòng máy bay, trẻ con phải mũ rơm, túi thuốc, khăn choàng phòng không, lũn cũn lội đồng đi học lúc sương hãy còn dày đặc, mặt trời còn chưa lên. Cũng chỉ chung một đoạn đường, rồi thì anh em mỗi đứa lủi thủi một đằng. Lúa thì cao vượt đầu, đường bờ thì trâu xéo nát, chi chít, lầy thụt những hố rõ sâu. Chả hôm nào chân tôi không thụt xuống một hố chân trâu ngập đến bẹn.

                              Loay hoay lụi hụi rút chân mãi, mà bùn quánh cứ mút chặt. Muốn cầu cứu, mà chung quanh chả còn ai. Rút được ra thì bùn phọt lên đầy mặt. Lần nào cũng phát khóc. Tôi nhớ như in một lần như thế mình đã hoảng hồn té ngửa. Số là, đúng lúc sa chân, đang tủi lòng muốn gào tướng lên, thì bất thần tối mắt tối mũi, vì một bóng trắng bay vụt sát mặt. Thần hồn nát thần tính. Cứ tưởng ma nạt mình. Té ra, là cò. Lũ cò lặn lội tôm tép quanh đấy mà tôi không để ý. Thấy động, thì hốt hoảng bay lên. Bùn sương lấm láp khắp mình nó được lúc văng tung toé.

                                                          Chả biết con này đi từ đêm chưa về, hay cũng vừa rời tổ ra đây kiếm ăn. Định được thần, tôi bật cười với sự dớ dẩn của mình. Rồi thì dồn sức rút bật được bàn chân lên, lượm mấy cuốn vở lấm lem, gột bớt bùn vào cỏ, đội lại chiếc mũ rơm bê bết, cả quyết bước tiếp. Dặn mình cẩn trọng hơn. Từ đấy, hôm nào đến lớp, tôi cũng ngó tìm cò và trêu tròng chúng. Mà cò cũng dạn người. Chỉ đến sát, chúng mới né mình, hoặc lật phật bay tránh, rồi xà xuống liền, cặm cụi mò tiếp.

                              Cứ thế. Người đi học. Cò kiếm ăn. Đồng đỡ phần hoang lạnh. Tôi nhớ, bờ máng bờ mương, bờ vùng bờ thửa nào dẫn tới lớp cũng vãi trắng cứt cò. Ghê hết cả chân, muốn tránh, mà chân dại, bước ngắn, biết tránh vào đâu. Cứ dẫm ào lên vậy. Thế mà, trưa tan lớp trở về, thì từng dấu chân mình nắng gió đã hong khô. Và, hình từng ngón chân in trên cứt cò cũng đã se dần, bạc phếch, nét rõ như in lên khuôn thạch cao, trông cứ như một thứ phù điêu chìm ngộ nghĩnh vậy.Cứ thế. Suốt cả tuổi thơ tôi.

Rõ buồn cười là, tôi chẳng hề nuôi chúng, mà lòng lại cứ coi cả bầy cò kia là của mình. Còn tin rất đinh ninh nữa. Và, chả hiểu sao, cho đến tận bây giờ, ngoảnh lại thuở ấy, sắc trắng phau của cò tôi nhớ cũng nhiều, nhưng sắc trắng như vôi của cứt cò tôi lại nhớ nhiều hơn.

                          Phải rất gần đây tôi mới hay ngắm nhìn vẻ đẹp trên một gương mặt già lão. Có phải do u tôi ngày một già đi, tôi biết yêu thương nhiều hơn, hay đó là vẻ đẹp cần phải trải đời đến độ nào đó mới thấm thía được ? Tôi không rõ lắm. Chỉ chắc rằng, giờ đây, trước một gương mặt người già, tôi bị chấn động mạnh hơn, và lòng cũng nhiều dư âm hơn. Vậy mà, vẻ đẹp của những cây lớn, cây cổ thụ, thì đã cuốn hút tôi từ bao giờ rồi. Nhìn một ngôi nhà nép dưới bóng những cây sum suê cao lớn, bao giờ tôi cũng có cảm giác cuộc sống ở đó đã lâu dài, trường cửu, dù có thể nếp nhà kia xây chưa được bao lâu. Cây lớn mang lại cho chốn ấy không khí cổ kính, trang trọng.

                         Quá khứ dằng dặc nắng mưa dông gió đã tạc nên những vè rễ kì dị, hốc hang bí ẩn cùng các mắt vấu lồi lên trên lớp vỏ nhăn nheo. Còn cây thì nhẫn nại qua hàng thế kỉ cứ tàng trữ thời gian trong bóng lá thâm u, cất giữ thăng trầm trong dáng hình điềm tĩnh, cho người sau đến dưới cây như đến viếng thăm một bảo tàng của cái sự sống đời đời lầm lũi vậy. Và, mỗi bóng cây lớn che rợp cả khoảng trời chính là một ốc đảo yên bình trên mặt đất bao la chang chang những khắc nghiệt và hiểm họa này.

Kẻ xuôi ngược đường đời, mỗi lần được dừng chân dưới một gốc cây như thế, nhúng mình vào cái bóng râm, mà nghe hơi mát tươi thấm rân rân đến tận chân tóc, khác nào như được nương náu chốc lát trong một niềm che chở bao dung thật lớn lao… Có phải cây đa đồng Màng đã đem lại cho tôi những ấn tượng đầu tiên chăng ?

Cây đa ấy mọc trên một cồn đất cao, trơ trọi giữa đồng không mông quạnh. Nó cổ quái, bí hiểm và cô độc. Thế mà, với lũ học trò, nó lại là cái cây thật thân thiện. Khi phụ huynh đào hào, đắp luỹ, dựng lán học cho con em mình tản ra đây, thì cồn đất sống động hơn nữa. Người lớn đi làm đồng thường giải lao uống nước dưới bóng râm. Còn trên cao, giữa tán lá um tùm, rậm rạp là những tổ cò. Bên dưới tán đa dày là lũ học trò chui ra chui vào lán như vào một cái tổ chìm. Còn trên tán đa già là những bóng cò trắng chấp chới ra vào những cái tổ nổi. Các vè rễ cao lút đầu thường là chỗ nấp cho chúng tôi chơi trốn tìm. Rễ phụ buông xuống từng chùm dài quết đất thì để bám vào làm đu. Riêng cái rễ phụ đâm thẳng vào đất to như một thân nữa, thì luôn là cái tháp để bọn trẻ đố nhau bám bíu mà trèo lên cao. Cứ thế, gốc đa thành cái sân chơi thiếu nhi tự tạo của lũ nhóc chúng tôi.

Tôi nhớ mùa đông toàn học buổi chiều. Lớp tan muộn. Lắm khi, sương đã phủ khắp đồng, tôi mới men bờ lúa ra về. Đó thường là lúc cò cũng từ khắp các ngả đồng mệt mỏi tìm về ngọn đa. Nhiều con vỗ cánh ngay trên đầu tôi. Có con còn cố tha cả những con cá tép bay về cho lũ con đói. Tiếng quào quào dậy lên khi chúng tụ đầy những cành đa. Không ít lần về đến nhà, cởi bỏ mũ rơm thấy dấu nước vãi tanh lòm, trút tấm vải choàng còn thấy trên nền màu phòng không, loang lổ những vết phân cò tươi nguyên nữa. Thế mà chẳng hiểu sao, những lúc như thế, tôi lại hay nhớ đến từng vệt trắng chảy dài trên thân đa già tựa như những dòng nhựa trắng đông cứng lại. Nhớ đến cái đám phân trắng như vôi vung vít vương vãi quanh gốc đa. Nhớ cả các đốm trắng bết trên nóc lán gianh.

Trong những năm bom đạn, màu trắng là màu không an toàn, cấm kị. Sao tôi cứ thấy ở đâu có cứt cò vãi trắng, là ở đó cò đông, là cây cối xanh um, sự sống yên lành. Nên tôi luôn yêu quí những cây già. Ngay cả vẻ cổ quái bí hiểm tôi thấy cũng thật thân thiện cuốn hút.

Thế mà cây đa ấy đã chết. Nó sống sót khỏi chiến tranh, nhưng lại chết vì bàn tay triệt hạ của chính người làng. Ấy là thời có chủ trương phá đình phá chùa. Người ta đã đốn gục nó, hồi tôi đi học xa. Mà tôi có ở làng lúc ấy, cũng không thể nào cản được. Cái nạn ấy đã khiến bao nhiêu đền chùa, bao nhiêu cây cổ thụ của làng đều tan hết, tiêu hết. Trở về, tôi có cảm giác như bị rơi hẫng xuống những khoảng trống không mà mỗi cây để lại.

                               Cái tầm cao lâu đời của làng thế là bị phạt mất ngọn rồi. Khi cây lớn bị hạ sát, mái nhà chung của cả làng không còn, thì làng cũng bắt đầu sinh ra biết bao nhiêu chuyện. Cây đa ngoài cồn có thuộc về đền chùa nào đâu, nó chỉ xoè tán che cho người nghỉ, cho đám học trò chơi, cho lũ cò nương náu, thế mà cũng thuộc danh sách triệt hạ. Lúc ấy, có phải cứ những gì trông cổ cổ một chút thì đều bị xem như nơi ẩn náu của phong kiến, của mê tín dị đoan, hay cần phải phá những cái cây cổ kia đi để trồng lên hàng cây ơn Bác, tôi cũng không rõ nữa. Chỉ biết là chúng đã bị triệt tất.Cây mất rồi, bầy cò khi ấy có con nào sống sót nổi không ?

                                                  Lớn lên, tôi mới thấm thía rằng không có loài chim nào gần gũi với người Việt như loài cò. Cò sống bên người ở khắp mọi làng mạc. Cò đi vào thơ ca nhạc hoạ, cả dân gian lẫn bác học, nhất là ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Cò trở thành hình ảnh tượng trưng lâu đời cho cả phẩm chất lẫn thân phận của người nông dân trên đồng đất nước Việt. Đến nỗi, trên biết bao nhiêu logo khác nhau về văn hóa Việt, cò đã thành một hình ảnh không thể thiếu.

Bản thân tôi cũng đã thuộc, đã bình bao nhiêu áng thơ ca đẹp viết về cò. Song, tôi cũng thấy, ít ở đâu cò bị giết hại dã man như ở nước mình. Để chim về, ở ta cũng thấy có làm sẵn cho chúng những tổ trên cây. Nhưng không phải tổ mời chim. Mà là tổ dụ chim. Chim mà rủ nhau về sinh sống thì sẽ bị bắt cả nhà. Mỗi cái tổ ấy là một cái bẫy thâm hiểm.

Nhưng, hiểm nhất vẫn là bẫy cò, thì phải ? Để bẫy cò, cách đắc dụng nhất là làm cò mồi. Đó là con cò được kẻ sát hại chim dùng làm mồi nhử để dụ cả đàn của chúng. Nghĩa là bắt cò làm việc phản phúc. Trong tiếng Việt, chữ dùng để nói loại người, loại nghề kiếm chác bằng cái chiêu dụ cho đồng loại vào việc, vào tròng cũng là “cò mồi”. Mà bây giờ, cụt hơn, gọn hơn, là “cò”: cò nhà, cò đất, cò xe, cò tàu, cò dự án… Không rõ cò có biết cái tên của loài mình đã bị hoen ố đi thế không ?

                                Và, dù đã qua nửa đời người, tôi vẫn không thể nào quên được hình ảnh những con cò người ta mang ra chợ bán hồi ấy. Như với gà, người ta trói chân chúng lại, xách đi. Nhưng cò nhẹ hơn, bé hơn, nên chúng thường bị buộc gom thành một túm lớn tới hàng chục con, quẳng lay lắt như mớ rau mớ củ. Khi sống thì bay theo đàn, khi bị bán thì cũng bán cả một bầy ! Kiếp cò là thế sao ? Tội nhất là con nào hai mắt cũng bị khâu tịt lại bằng một sợi lông của chính nó. Có con còn bị chọc mù bằng cái xiên. Người ta bảo làm thế để đề phòng nó mổ mắt người. Con người khi hành quyết nhau thường bắt bịt lên mắt một dải băng đen.

                       Con cò, trước khi bị hành quyết thì được người chọc cho mù hẳn ! Tôi cũng không thể quên cái cách chúng thường bị vặt lông sống. Người ta vặt trụi dần từ lông cánh đến lông măng. Gặp chỗ khó vặt thì giật những cú thật mạnh, thân cò cứ nảy lên, tướp máu, có khi còn bật cả da lên. Mình cò sưng phù như phải bỏng. Đám trẻ con thì chí choé tranh giành túm lông mịn màu vàng mà chúng gọi là lông cu li. Chúng kháo rằng lông ấy có thể cầm được máu khi người đứt tay. Rồi người ta còn đem cò thui trên lửa.

                                              Cũng nghe bảo: phải lửa mới thui hết lông vặt sót và mới hết mùi hôi, ăn mới ngon. Những con cò mù cứ lơ ngơ, tuyệt vọng trong đôi bàn tay vặt lông điệu nghệ và thản nhiên. Lông vặt đến đâu, thì thả bay đến đấy. Lông cò bay loạn, trắng như bông bám bíu vào bờ rào, rệ cọ, lơ phơ trong gió. Vậy là, trước khi bị xả thịt, ném vào nồi xáo măng, chết hẳn, cò còn phải chịu cái cực hình là chết từng phần, từng phút trong đau đớn thế. Nhìn thấy những cảnh ấy, liệu thi sĩ Chế Lan Viên đáng kính có thể viết được bài “Con cò” nổi tiếng để đưa ru tuổi thơ bao thế hệ nữa không, hay sẽ phải viết văn tế cho loài cò, cái mà hình như nhà thơ mượn họ Chế này chưa bao giờ viết ?

Hồi ấy, khi ngồi vào mâm, có bao giờ tôi nhớ đến những con cò xấu số kia không, tôi không chắc. Đói khát làm người ta chỉ còn chăm chăm vào bát xáo măng thôi. Nhưng bao năm qua, đi tới vùng nào, cứ thấy lông cò trắng phau tung toả là tôi lại rùng mình. Và tôi nghiệm ra: ở đâu lông cò bay, ở đó cò bị giết ; ở đâu cứt cò dày, ở đó cò xúm xít đông vui.

                            Sống ở phố bao nhiêu năm, thì cũng ngần ấy năm tôi không nhìn thấy những bóng cò bay. Hình ảnh những bầy chim di cư dăng dăng bay trên không trung về phương Nam lánh rét, đối với tôi, chỉ còn là kí ức tuổi thơ sao ? Đúng ra, có một lần, khoảng dăm bảy năm trước, khi lên sân thượng, tôi có thấy một đàn đang bay tới. Nhưng tôi chưa kịp mừng thì con đầu đàn đã vội vã đảo cánh dẫn cả đàn rẽ hướng khác mất rồi. Chúng đã xóa bỏ dần những đường bay qua bầu trời thành phố. Phố có ma lực với con người. Nhưng không có ma lực với chim. Ta bị choáng ngợp trước phố. Còn chim biết dị ứng với phố.

                              Phố càng sôi động, chim càng lánh xa. Ta bỏ thôn quê để vào thành phố trong cơn thèm khát đô thị. Ta nôn nóng tạo ra các đô thị, ngợp trong thế giới của tiện nghi và yên chí rằng đó là cuộc sống văn minh. Mê muội trong cái sướng vật dục nhất thời, ta đâu còn tỉnh táo nhận ra rằng như thế là đang từ bỏ cuộc sống trong lành thanh thỏa để trở thành tù nhân trong cái thế giới của những nhà tù bê tông hình hộp, hình ống. Chạy theo sự cám dỗ của đô thị, con người có thể phụ bạc thiên nhiên, phụ bạc màu xanh.

Nhưng chim thì không. Chim chỉ sống bởi tiếng gọi duy nhất: tiếng gọi của màu xanh. Mọi đường bay của chim đều theo chỉ dẫn của màu xanh. Trong khi đó, con quái vật bê tông nham nhở có tên là đô thị hoá kia với tốc độ phân bào kinh khủng đang nuốt dần những khoảng xanh của sinh thái này rồi.

                                        Tôi đến đầm Vạc trong niềm háo hức vì được đến một địa chỉ xanh nổi tiếng. Nghe nói, bao năm trước, đây là chốn nghỉ riêng của trung ương. Vĩnh Phúc mới đòi lại được từ khi tách tỉnh. Biết tôi thắc thỏm với chuyến đi này, một anh bạn thổ công ở đây đã ngán ngẩm cảnh báo: đầm Vạc giờ chỉ còn như một vốc nước xanh nhỏ nhoi bị vây giữa một đô thị trẻ đang say sưa với công nghiệp hoá, thị trường hóa thôi, ông ạ. Sau mấy ngày ở đây, tôi cũng buồn, nhưng không bi quan đến thế. Đầm Vạc hiện vẫn chưa đến nỗi nào, dù sinh thái bây giờ có phần xơ xác hơn xưa.

               Tôi cứ nghĩ sức hấp dẫn của chốn này là ở một đầm nước lớn nằm ngay giữa thành phố. Người ta vẫn dùng hình ảnh lá phổi của thành phố để nói về những hồ đầm như thế này. Đầm Vạc quả là lá phổi của Vĩnh Yên. Nhưng, chỉ vừa đặt chân đến khách sạn ba sao này thôi, là tôi đã thấy ngay, sức hấp dẫn của đầm không thuộc về diện tích rộng của mặt nước, mà thuộc về cây xanh. Ven hồ phía này còn cả một bờ cây rậm rạp cứ như một vạt rừng nguyên sinh được bứng nguyên về đây từ rừng Cúc Phương vậy. Toàn những loài đầy sức vóc như sưa, sữa, long não, chò chỉ, xà cừ, thông …

                                                  Cây nào cũng cổ thụ. Gốc nào cũng xù xì gân guốc, dây leo, tầm gửi bám quanh thân thiện như huynh đệ lâu đời. Đã vậy, cây lại mọc xúm xít ven đầm nước. Cái trong mát của nước đầm quanh năm âm thầm giao hoà với cái tươi mát của cây xanh đã tạo nên một sinh quyển dịu dàng trong lành. Đám chúng tôi được đưa đến đầm Vạc để làm đề cho cuộc thi tuyển sinh đại học năm nay. Vì dài ngày, nên chiều chiều sáng sáng, ai nấy đều lấy việc đi bộ quanh quanh để tập dưỡng sinh. Tiếc là không được đi rộng ra hết cả vùng.

                            Nhưng, dù ngắn cũng vẫn có thể cảm nhận được vẻ đẹp của các lối đi lượn qua những gốc cây cao vút, vòm giao nhau ken kín tầng không, lá vàng cứ từ đỉnh cây thong thả rắc xuống như những mảnh nắng vàng buông mình theo gió, khiến cho người tản bộ ngỡ mình đang bước giữa nẻo rừng thưa. Khi một mình bước trên lối ấy, nhìn xuôi theo những hàng cây tán rộng rì rào, mắt hoàn toàn bị hút vào những khúc quanh co thâm u, tôi đã cả quyết : chính cây mới là tài sản đáng giá nhất của cái khách sạn được coi là sang nhất Vĩnh Yên này. Cây mới là vốn liếng quí hiếm trời cho riêng đầm Vạc. Một khách sạn dù tiện nghi đến đâu, cũng không thật khó kiếm. Năm sao, ba sao, đâu chẳng có ! Còn cây cổ thụ, rừng nguyên sinh ngay giữa phố, thì hỏi có mấy nơi có được ?

Tuy nhiên, điều khiến tôi thích thú hơn cả chưa phải ở đó.

                                                  Một lần tới gần gốc cây sữa lớn, tôi bỗng thấy quanh gốc vãi trắng xoá một màu vôi. Thoạt trông, cứ nghĩ là thứ vôi thừa người ta hắt bừa bãi ra đấy, sau khi quét một nước bao quanh gốc để ngăn sâu bọ từ hồi đầu xuân. Nhưng, tôi ngờ ngợ ngay. Cái màu trắng quen quen này thật giống ở cây đa đồng Màng thuở nào. Nó nhắc rằng không phải vôi. Mà là cứt cò. Cứt cò thật ! Ôi, giữa chốn phố xá, giữa khách sạn khá sang này, lại có những lớp phân cò dày đến thế kia sao ! Nghĩ đến cứt cò có thể rơi thoải mái chốn này, tôi không khỏi ngỡ ngàng, khoái chí. Và càng khoái hơn khi nhận thấy, cùng rơi trong sắc nắng chiều không chỉ có những bóng vàng của lá, mà còn có cả những giọt trắng lấp lánh của phân cò. Có cứt cò dày, tất có cò xôm tụ. Hẳn là cò ở đây phải đông đúc đàn lũ.

                           Bấy giờ, tôi mới ngước lên, và giật mình : trên tán cây nào cũng lấp ló những tổ cò, thập thò những cổ cò, và chốc chốc lại thấy những bóng trắng vỗ cánh bay ra, bay vào, cánh vỗ làm xao động những cành xanh. Chi chít trên mọi tán xanh quanh đây là những tổ cò như vậy. Và vọng từ trên cao xuống là cái tiếng quào quào khàn khàn quê kiểng quen thuộc của loài cò. Chỉ chăm chăm đi dưới mặt đất này, thì không thể biết trên tầng cao có một thế giới cò.

                                                          Bỗng dưng, tôi nhớ ra, ở châu lục nào đó, có những bộ lạc cư trú trên cây. Họ cất nhà trên những cành cao. Họ sinh con đẻ cái trong những cái nhà như cái tổ ấy. Nhà này nối nhà khác bằng những thân cây mảnh bắc làm cầu. Cuộc sống của họ là chuyền cành. Quanh năm suốt tháng, chả mấy khi cần xuống mặt đất. Với họ, mặt đất dường như là nơi của hiểm hoạ. Sống trên cây, sống với cây, họ thấy an toàn hơn. Đời này sang đời khác, sống trên ngọn cây đã thành tập quán của bộ tộc này.

                  Thì cò kia cũng thế. Cò đã cư trú quanh đầm Vạc tự bao giờ ? Vạc đã nhường chỗ lại cho cò, hay cò chỉ đến tiếp quản vùng đầm này sau khi những gia đình vạc cuối cùng đã phải xuất dương di tản ? Hay chúng đều là nạn nhân của cuộc càn quét, nhưng cò bé hơn đã may mắn đựợc tạm tha nên còn sống sót thế ? Tôi không trả lời được những câu hỏi ấy. Chỉ biết, giờ đây, trên tầng cao của đầm nước, có cả một làng cò. Cò là cư dân của cái làng định cư trên cao ấy. Và, liên hệ giữa cuộc sống dưới mặt đất với cuộc sống trên cao kia là lớp phân cò này. Lớp phân ấy mang thông điệp về một cộng đồng sinh sống ngay bên trên đời sống của mình đây. Cộng đồng ấy ẩn khuất, hiền lành, thân thiện.

                    Cộng đồng ấy cũng nhọc nhằn, cũng lam lũ. Nhưng cũng ấm cúng, sum vầy. Ngày nắng ráo, cò bay ra đầm kiếm mồi nuôi con. Ngày dông gió, cò cũng lui cui ướt hết cả mình che chở cho lũ con nháo nhác. Trong những ngày ở đây, có đôi lần, dông lớn đã hất tung những chiếc tổ ra khỏi cành. Có con cò con đã văng ra khỏi tổ, rơi xuống đám phân đã bị mưa làm cho lõng bõng. Cứ lẩy bẩy, kinh hoàng, cầu cứu. Cò mẹ xà tới, bay liệng xung quanh, lên lên xuống xuống mà bất lực, vì chẳng làm thế nào để cắp được con lên tổ. Lúc ấy, trong đoàn tôi đã có người chạy ù ra ẵm về. Chẳng biết những lần khác, nó có được nhân viên nào đón về ủ ấm và cho ăn không ?

                         Một chiều kia, lại đi dọc những hàng cây cao vút ấy, bất giác tôi thấy mỗi cây cao như một chiếc cột. Cả hàng cây chạy dài như hàng cột chống cho một mái nhà lớn xanh miên man, ở tít trên cao. Và lập tức nảy ra trong tôi một liên tưởng ngộ nghĩnh: mái nhà ấy chẳng phải là một khách sạn xanh hay sao ? Khách sạn ba sao này nằm lọt giữa khách sạn xanh đó. Chúng tôi là đoàn khách tạm trú của cái khách sạn dưới này. Còn cò là khách thường trú trên cái khách sạn cao kia.

                                                         Dưới này, theo dòng năm tháng, từng đoàn người cứ đến, rồi cứ ra đi. Còn những cư dân thường trú kia thì ăn đời ở kiếp ngay trên đấy. Cư dân làng cò mới là cái bền vững, không di dịch của cuộc sống chốn này. Khi ấy, một niềm tin gần như chắc chắn đến trong tôi rằng: cái làng cò trên tán xanh kia mới là tương lai của đầm Vạc. Và những giọt phân cò trắng đang rớt xuống từ trên cao cùng với nắng vàng và lá vàng đó, hoá ra, lại là một đường link độc đáo kết nối hai cuộc sống với nhau : cuộc sống người và cuộc sống cò.

                   Nghĩ thế, tôi thấy chốn này thật thân thiện an lành. Còn gì an lành hơn thế khi sinh thái phố phường đang ngày một cạn kiệt, ô nhiễm, ô trọc, mà ở những chốn như thế này lại có một cuộc sống xanh êm đềm thế. Rồi người ta sẽ tìm về đầm Vạc chỉ vì mộ tiếng làng cò này. Họ đến đây để được nghỉ dưỡng trong bóng cây của làng cò, trong tiếng kêu xào xạc như từ ngàn xưa vọng lại của loài cò, để được hưởng cái điệu sống êm đềm của thiên nhiên mà mỗi bóng cò bay dập dờn như nhịp múa hoà điệu, một nhịp phách hoà âm. Nhờ làng cò ấy mà một khách sạn dầu chỉ ba sao cũng có thể thành nhiều sao.

                    Song, ra khỏi con đường nhỏ chỉ vài bước, tôi đã rùng mình vì thấy một đống rác lớn với từng đám lông cò trắng phau, gió đang thổi tứ tán. Từng chiếc lông bị thổi dạt cố bám bíu vào đầu ngọn cỏ lắt lay, cứ lơ phơ như những bông tuyết. Vậy là nguy rồi. Cuộc săn đuổi vẫn rình rập đâu đây. Vậy là những tổ cò trên kia vẫn chưa thoát khỏi cái nguy cơ giống như loài vạc rồi. Chao, nếu một ngày kia, cò cũng mất đi như vạc, thì đây sẽ ra sao ? Mỗi cây kia chỉ còn là những căn nhà trống không. Cả rặng cây cổ thụ như vạt rừng nguyên sinh này sẽ chỉ còn là một khu làng bỏ hoang của cò. Và cái khách sạn ba sao đây chắc chỉ còn là những xác nhà mất hồn, mất vía.

Nghe nói, năm mươi năm trước đầm Vạc vẫn còn vạc.Năm mươi năm trước, cây cũng nhiều hơn. Liệu năm mươi năm sau, rặng cây này có còn nữa không, hay chúng cũng phải chịu chung số phận với cây đa đồng Màng của tôi ?

Và ngày ấy tôi trở lại, liệu dưới mỗi gốc kia có còn vãi trắng những lớp phân cò, hay chỉ còn thấy những mớ lông lả tả ven đầm, mà khi nhìn kĩ, mỗi chân lông hãy còn nguyên một giọt máu ?

Đầm Vạc, 7-2013

Đừng bao giờ ngừng yêu

Đ ôi khi, chỉ là đôi khi thôi nhé, muốn chạm tay hái mặt trời. Muốn tất bật những ngày vui, muốn chiêm bao những ngày buồn. Mặt trời có khi nào cạn lời thế gian?
Mặt trời là kẻ cô đơn nhất đời. Băng qua tối tăm vượt qua hỗn mang, thân phận nó được lập trình hoàn hảo bởi nguồn năng lượng của chính nó, vỡ òa những màu xanh trên mặt đất này, nóng bỏng những sinh sôi ở vạn vật này. Vậy nhưng loài người yêu thương nó, muốn ngắm nhìn nó thì cũng phải đợi lúc nó hấp hối sau những núi đồi hay khi nó bắt đầu manh nha tái sinh trên những mênh mang vô cực.
Có những ngày nhức nhối gió mưa, loài người muốn tìm kiếm nó để yêu thương an ủi, để chia sẻ những tanh hôi nhơ nhớp bùn lầy, để ấp ủ hi vọng sự choàng tỉnh tinh cầu. Nhưng nó biệt tăm biệt tích trong những thế lực chớp giật mưa giông. Nên, nó là kẻ chỉ có thể cho đi mà không thể nào nhận lại. Đó là bi kịch mặt trời, bi kịch của ánh sáng.

Đừng bao giờ tin rằng ở đời người ta chỉ cần cho đi chứ không cần nhận lại. Nói không cần nhận lại là một sự giả tạo bác học. Mặt trời cũng thế, nó chẳng bao giờ muốn cô đơn và hơn tất thảy ai ai cũng ước thà là một thứ bình thường để sòng phẳng yêu thương còn hơn là một thứ chói chang chủ nợ cô độc. Tôi nợ mặt trời một cuộc đời, bạn nợ mặt trời một nhân sinh, dương gian nợ mặt trời một bầu sinh khí.

Một ngày, nhiều ngày, trăm vạn ngàn ngày mặt trời cày xới thế giới này, nuôi nấng thể xác, ban ơn minh bạch, tặng thưởng hào quang, định đoạt hưởng dương, dẫn truyền nhiệt huyết. Kẻ thù truyền kiếp duy nhất của mặt trời là hồn ma, đừng bao giờ nghĩ hồn ma dật dờ, hồn ma luôn vội vàng, vội vàng như thứ cà rồng run rẩy thối rữa chạm bình minh.

Cho nên những kẻ tối tăm thường nỗ nực và biết quý trọng thời gian hơn là đám người minh bạch. Bởi vậy đôi khi, thường khi, nhiều nhiều khi sự minh bạch chết một cách bất đắc kỳ tử, ánh sáng trở lại thì cũng chỉ phơi bày thêm một nghịch lý, đó là: bóng tối hồn ma đã nhiều lần bóp cổ quang minh, bức tử ánh sáng.

Mặt trời cứu thế, mặt trời cứ nô bộc trong cái vòng quẩn quanh sinh tử, nó cần cù tô vẽ màu xanh, nó vươn vai khấp khởi hình hài, nó miệt mài bao tường chắn lũy. Nhưng đôi khi, lại là đôi khi chỉ một đêm thôi loài sâu vô danh đã nuốt chửng đền đài, đã cạn kiệt mầm nhựa, đã nham nhở thiên thanh, đã tanh bành thế cuộc. Chạm tay hái mặt trời để treo ngược bóng đêm, chạm tay hái mặt trời để mang về làm thuốc chế bùa trừ yêu.

Cứ nghĩ, cứ tưởng, cứ thản nhiên rằng mặt trời là chủ nợ, là một kẻ luôn ban ơn, bố thí niềm vui, sự an lạc và ánh sáng đến thế giới này. Nhưng thực tình mặt trời lại cũng là một con nợ chúa. Bởi nó yêu thương thế giới này nên nó phải đa mang, đã yêu thì phải làm cho kẻ được yêu hạnh phúc. Cho nên mặt trời muôn đời cuồng nhiệt, giả sử nó không xuất hiện đều đặn như một nhịp sinh học thì nhân gian lấy ai đếm ngày tính tháng, làm gì còn sinh tử, làm gì còn cát bụi. Thế nên mặt trời biết mình mắc tội, mắc nợ với đời. Muốn thoát khỏi chữ nợ xin hãy ngừng yêu thương.

Một buổi tà dương, tôi lang thang trên những phố đời tẻ nhạt, bỗng thấy mình như một đứa thiếu dương khí. Thời gian nhợt nhạt trên những đôi môi cười, bóng tối bon chen trong những ánh mắt người. Dửng dưng cụp mi. Tôi cũng nhận ra sự cô đơn của mình, sự cô đơn mà biết bao những người cô đơn từng cô đơn như tôi.

Những sắc màu thẫm đỏ mà loài người thường gọi là hoàng hôn đang dìm những tinh khôi và luồn lách hòng bóp cổ dòng thủy triều đang dâng đầy ở đâu đó. Chỉ khi thiếu yêu thương con người ta mới thấy cô đơn, chỉ khi thiếu yêu thương vạn vật mới cảm giác hụt hẫng dương khí. Tôi mê man nhoài vào không gian, những tưởng chạm tay hái mặt trời. Mặt trời của tôi, mặt trời của bạn và của bao người đang yêu thương bạn. Đừng bao giờ ngừng yêu…

Kiếp tượng nhà mồ

Kiếp tượng nhà mồ. Tượng được gửi tặng nguyên cho người chết chứ không chôn, không hóa. Làm tượng mồ là gửi cho người chết những niềm vui sống.

Giữa bãi tha ma

Thú thực, tôi không phải là người cứng bóng vía. Tin vào tâm linh, tôi cũng tin có cõi âm, có hồn ma. Nghe/đọc/xem chuyện/phim ma, chỉ gai gai chút thôi. Còn ra nghĩa địa, thì chưa bao giờ hết rờn rợn.

Bước trong bãi tha ma, lần nào cũng như lần nào, tôi không sao thoát khỏi ý nghĩ đây là nơi ma ở. Chốc chốc lại giật thót, ngoái sau, như có ánh mắt lạnh ngắt vừa liếm suốt sống lưng. Ấy thế mà, lần vào Tây Nguyên vừa rồi, dại dột thế nào, tôi đã mò ra nghĩa địa của người Bahna, một nghĩa địa bỏ hoang ở giữa rừng già.
Mà bấy giờ, chiều đã muộn, mưa lại tầm tã. Cái bóng âm u cố hữu của đại ngàn bỗng chốc thành một manh áo ướt sũng, rách bươm, giăng mắc khắp các xó xỉnh. Âm khí kéo về, lạnh toát, quẩn đặc quanh chân. Mưa hắt từ mặt lá lên mặt mình mùi cứ tanh tanh. Từ mấy nhà mồ xiêu vẹo, có tiếng gì cứ “khư khư… khừ khừ…”, chả biết gió hú, ma hù, hay người rên rẩm nữa. Nghe ghê ghê ơn ớn khắp cả người… Tôi đã tự trách mình vớ vẩn. Tự dưng lại đi dấn thân vào chốn thê lương ấy! Lại rước lấy cái hãi hùng vào mình!

Nhưng, còn biết làm sao! Chả nhẽ đến Tây Nguyên, lại chỉ vào bảo tàng hay ghé quầy souvenir để xem tượng nhà mồ ! Phải ra tận nghĩa địa chứ. Không được đêm trăng suông thì cũng phải chiều mưa dầm. Có thế mới đủ vị. Chả biết có cái mê nào kì quặc như mê tượng nhà mồ không nữa? Vừa thích vừa sợ. Càng sợ càng thích. Mà lạ. Âm khí càng phiêu, tượng lại càng ám. Cứ như có hồn ma chập chờn trong thớ gỗ. Càng những tượng mà thịt gỗ đã mòn mủn đi, trơ ra các đầu lũa nhọn hoắt, xanh rì những rêu, lại càng cuốn hút.

Mỗi cột tượng vừa như một vong linh mượn gỗ để hiện hình. Lại như một sinh mạng lưu luyến dương gian cố ngụ mình trong gỗ. Đó là cái sống cải dạng hay cái chết hiện hình? Là chốn dừng lại của cái sống hay nơi bắt đầu của cái chết? Hay cái sống và cái chết ẩn tàng trong nhau? Càng cố phân biệt càng chỉ phân vân. Tôi không còn định rõ cái mê trong mình là được thích thú hay bị thôi miên nữa.

Ngôn ngữ tượng

Đứng trước tượng nhà mồ, tôi đã nghĩ về cuộc chiến cuối cùng mà cũng là cuộc chiến cam go, dai dẳng nhất của con người: cuộc chiến với hư vô. Hư vô hiện ra nhỡn tiền trong hình thù cái chết. Ứng xử với cái chết là một phương diện lớn của văn hóa nơi nơi. Và tượng nhà mồ là cách ứng xử của nền văn hóa rừng ở cao nguyên này. Tượng được làm cho lễ bỏ mả. Nghi lễ cuối cùng đối với người chết. Chấm dứt mọi vướng bận nơi dương thế để họ về cõi khác. Tôi mới nhận thấy : không giống người dưới xuôi nghĩ con người từ cát bụi lại về cát bụi, người Tây Nguyên xem con người đến từ rừng rồi lại về với rừng. Rừng là chốn nguyên sinh cũng là chốn siêu sinh.

                                       Kể từ lễ bỏ mả, người chết sẽ về hẳn với rừng. Nên lễ bỏ mả cũng là lễ chia của nả cho người chết mang sang thế giới bên kia. Trong của nả ấy, đáng kể nhất là những niềm vui sống. Và đó là tượng nhà mồ. Thì ra, về chức năng ma thuật, tượng nhà mồ cũng phần nào như hình nhân giấy mã của người miền xuôi. Nhưng, người miệt rừng không dùng giấy, mà dùng gỗ, không thiêu, mà để nguyên. Tượng được gửi tặng nguyên cho người chết chứ không chôn, không hóa. Làm tượng mồ là gửi cho người chết những niềm vui sống.

Đứng trong nghĩa địa chiều mưa ấy, tôi mới nhận ra tượng nhà mồ là một ngôn ngữ. Ngôn ngữ của sự sống nói vọng sang cõi chết. Một ngôn ngữ bằng gỗ. Sát sạt hơn: một triết ngôn bằng gỗ. Cái chết cuốn con người vào sự tàn hủy của hư vô. Thì con người cưỡng lại bằng tượng nhà mồ. Dàn tượng quanh mỗi nhà mồ khác nào một vũ khúc của sự sống. Cái chết mang đi từng mạng riêng. Thì con người tạc tượng theo cặp. Lẻ là buồn, thì cặp là vui. Cặp là ý thức chống đối cái chết của người Tây Nguyên.

                                           Từ tượng người đến tượng chim thú trên hàng rào nhà mồ, tất tật đều theo cặp. Mà phổ biến nhất là cặp trai gái đương độ cặp kè. Chết là chấm dứt sự sống trên dương gian. Thì trình hiện lại việc sinh thành sự sống trần giới là lời đối thoại nôm na với cái chết. Mỗi cặp tượng như một cái mốc của chu trình tạo sinh. Dường như, mở đầu là tượng trai gái hẹn hò, trai gái giao hoan, đến tượng người mang thai, bào thai, rồi tượng hài nhi… và cuối cùng là tượng người ôm mặt. Trên hàng rào nhà mồ, các cặp tượng ấy được dựng như quân hình trên đèn kéo quân.

Chẳng rõ hữu ý hay vô tình mà một chu kì sống của mỗi sinh mệnh với thành trụ hoại diệt đang được tái hiện bằng ngôn ngữ tối giản của tượng gỗ. Hư vô phủ lên người thân của mình nỗi buồn chết. Thì người sống tặng cho người chết những sinh thú cốt lõi nhất của sự sống. Chả thế mà, trong các tượng nhà mồ, bao giờ cũng có cặp tượng trai gái đứng “khoe hàng” trông rất ngộ. Toàn hàng “khủng” cả. Nàng thì thỗn thện cặp núi đôi phì nhiêu. Chàng thì quả tên lửa đại cương căng rướn hết cỡ đang chực chờ phụt lửa. Có cặp tạc lúc lâm chiến, cứ giao hoan thế suốt cả một đời tượng trên hàng rào. Toàn những sinh thú và dáng điệu ở vào lúc căng mẩy nhất, hoan lạc nhất.

Có thể thấy rõ người tạc, khi làm tượng, cũng đang tràn ngập một niềm tin chất phác vào sự sống phồn thực. Tôi hết sức ngỡ ngàng, khi biết, trong lễ bỏ mả trước đây, trai gái còn được tự do giao hoan nữa. Bằng cái nhìn hôm nay, dễ thấy việc đó thật kì quặc. Nhưng, tập tục này hẳn có triết lí của nó.

                 Phải chăng giao hoan trong cái giờ phút thê lương ấy trên mặt đất cô liêu này, là một hành vi an ủi, hành vi chống lại sự chết? Là lời tuyên chiến tức thì của cái sống với cái chết? Là cách ăn miếng trả miếng với cái chết? Phải chăng bằng cách ấy, người xưa muốn chống lại quyền uy ngang ngược của hư vô? Rằng hư vô cướp đi sinh mạng này thì con người sẽ khởi tạo ngay những sinh linh khác? Hư vô giáng xuống chốn này cái buồn chết thì con người sẽ tạo sinh những niềm vui sống?

Có phải họ muốn nói : đại ngàn không phải là cõi chỉ có hư vô ngự trị, mà còn là cõi con người ngự trị? Thật hoang sơ mà cũng thật thâm thúy. Riêng việc chống đối bằng gửi ân ái giao hoan vào tượng gỗ dựng quanh nhà mồ thì vẫn là tập tục bền gốc, truyền mãi đến ngày nay. Kết nối cõi hữu hình với chốn vô hình, như thế, đâu phải là con đường một chiều!

Tượng buồn tượng vui

Một lần, đến nơi làm tượng, hỏi một nghệ nhân trẻ đang đẽo tượng với tất cả niềm thành kính, tôi mới vỡ lẽ : ngay cả những người làm tượng chuyên nghiệp cũng không xem việc tạc tượng nhà mồ như làm thứ hàng để bán, mà xem đó là một thực hành tâm linh. Dù thô sơ thì tượng cũng là linh vật. Hèn chi, để làm tượng, người Tây Nguyên phải cất công vào rừng chọn những gỗ thật tốt. Có khi phải mất cả năm trời mới tìm được cây ưng ý. Loài cây dùng đẽo tượng thường là cà chít, gỗ rất săn, dai và bền. Không thể nói chắc cây được chọn là nhờ may mắn hay do sứ mệnh nữa.

                                  Trút xong đời cây vào dòng nhựa cuối cùng, thắp xong đời xanh vào hạt diệp lục cuối cùng, cây sang một kiếp mới: kiếp tượng. Làm xong bổn mạng tạo hóa trao cho cũng là trọn hiếu với mẹ Tự nhiên, cây được con người ban cho một mạng khác: mạng tượng; được con người phú cho một hình hài khác: hình hài tượng. Thế là những cột tượng được khai sinh dưới bàn tay đẽo tạc của con người. Chúng cứ tượng hình qua mỗi nhát đục đẽo. Cứ sống dần lên qua mỗi nhịp vót gọt, bào mài, sang sửa. Đời cây chết, đời tượng sinh. Một người của rừng nằm xuống, thì một quần thể tượng của rừng được sinh ra, dựng lên. Cây được hiển sinh vào đời mới. Tượng mồ là đài kỉ niệm của cái sống.

Nhưng, những cây cà chít đâu chỉ hóa thân thành tượng vui. Còn một phía lớn của sinh tử là nỗi tiếc thương mà. Dầu gì, cái chết vẫn là một sự chia rẽ ngang trái. Tình cảm sinh li tử biệt vẫn là tình cảm sâu nặng bậc nhất giữa mọi sinh linh trên cõi này. Được gắn bó trong cùng một cõi sống mới thực là thứ hạnh phúc trần thế. Đong đếm được. Cảm nhận được. Có phải vì thế mà trong lễ bỏ mả nào, trên hàng rào nhà mồ nào cũng không thể thiếu một cột tượng buồn, là tượng người ôm mặt đó chăng?

               Với tôi, tượng người ôm mặt bao giờ cũng ám ảnh nhất trong mỗi bãi tha ma. Tôi từng thấy mặt vui. Nhưng hiếm. Hầu hết là mặt buồn. Mà có vui, thì những nét vui mờ nơi khóe miệng, khóe mắt chẳng đủ xua cái buồn thấm hết cả thân mình. Dáng ngồi co gối. Hai tay tì gối tự bưng mặt mình. Thân thì ngập trong âm. Mặt cố nhoài về dương. Tượng khóc thương cho người chết? Khóc than cho phận người? Hay khóc than cho chốn đời? Một dáng tượng thôi có thể gồm tất cả. Tượng ôm mặt ở nghĩa địa này cũng thế. Mưa chiều làm cho mặt tượng nặng phù. Nước từ hai hố mắt khoét sâu cứ ràn rụa ra đôi gò má đã xơ lũa, tràn xuống bàn tay đang bưng lấy mặt, rồi cứ thế ròng ròng như thạch nhũ trong hang tối, nhỏ xuống đôi đầu gối còm nhom mà thịt gỗ đã thâm mủn tự bao giờ rồi. Đã thế, đúng lúc tôi nhìn, thì từ cằm tượng còn lả tả rụng xuống đến mấy miếng lũa nữa. Kinh hãi. Y như xương rời thịt rụng.

Vốn nhát ma, tôi rủn hết cả người. Nhưng, khi cảm xúc nhát sợ qua đi, nhìn lâu dáng tượng, thấy hiện rõ cả tủi sầu cùng bi hận, những nông nỗi trần ai luôn đeo đẳng mỗi kiếp người, thì trong tôi chỉ còn tràn ngập một nỗi buồn. Nỗi buồn như nỗi chết ngấm ngầm vây khốn. Nỗi buồn từ mưa? Từ bóng tối? Từ những vô hình đang xâm lấn quanh đây ? Hay tất cả từ tượng? Tôi không phân định nổi. Tôi chỉ thấy rõ rệt đến ghê lạnh cả người rằng mình đang đứng trên biên giới của cái sống và cái chết. Nỗi chết đang ngấm vào làn da ơn ớn hơi mưa của mình, làm lạnh dần cả tâm tư mình.

Nỗi sống và nỗi chết cứ chập chờn chen nhau ngay trong mỗi nhịp đập cứ chực run lên của cơ thể mình lúc ấy. Và tại khoảnh khắc đó, nhìn dãy lều mộ xập xệ tiêu điều chìm lút trong màn mưa tối sẫm, tôi bỗng thấm thía đến tận tâm can sự hoang liêu hun hút của cõi này. Càng nhìn vào đôi mắt âm u, trân trối, ràn rụa, thăm thẳm của tượng người ôm mặt, tôi càng chìm ngợp trong một cảm nhận tê tái : mình đây cũng như tượng mồ kia, chẳng qua chỉ là những hình kiếp, vai đổi vai trong cái thoáng chốc được làm sinh linh trên chốn trần ai này thôi.

Rời nghĩa địa

Mưa mỗi lúc một nặng, trời đã tối hẳn rồi. Nhìn quanh, tôi cứ nghĩ chỉ có mình tôi mò ra chốn này. Nào ngờ, khi quay ra, thì bắt gặp một vài bóng vụng trộm, vội chồm lên chiếc Minkhơ, phóng vụt vào rừng. Té ra, hòa giải với hư vô đến từ âm giới đã là điều nặng nề. Giờ đây, lại thêm một hư vô khác đang rình rập quanh tượng nhà mồ. Thứ hư vô này đến từ cõi dương, từ đô thị, từ tham vọng mù lòa của kẻ sống.

Người đứng canh chừng trên biên giới của sống chết đang bị săn đuổi. Đám đại gia sẵn sàng phạm thánh đang ráo riết săn lùng tượng nhà mồ. Không hiểu từ đâu, họ tin rằng tượng nhà mồ là một thứ thần đèn, thần tài. Có thể sai khiến thần trong những phi vụ làm ăn. Họ trả giá hậu cho những ai kiếm được tượng lâu đời. Để kiếm bằng được tượng quí, người ta đã đào bới, phá bỏ, lừa gạt, cướp đoạt bao nơi trên Tây Nguyên. Vậy là, từ nay, tượng nhà mồ phải đối mặt với một cái chết khác.

Người sống đưa tượng đến biên giới âm dương để tiễn người thân về cõi khác. Nạn săn lùng trộm cắp cũng lùng sục đến tận đường biên này cuỗm đoạt tượng từ tay người âm đem về dương bán cho kẻ đầu cơ. Biến tượng từ những phúc thần thành ác thần. Bắt tượng làm ma cô, làm nô lệ dẫn tiền, canh tiền, làm thần giữ của. Đến ranh giới của sống chết rồi, còn biết chạy đâu. Tượng có chui xuống đất cũng bị quật lên thôi. Đời lại có cái lối làm tiền xuyên qua cả loại biên giới này nữa sao ? Nghe người đồng bào kể về những cột tượng thân yêu bị ném lên xe tải, bí mật đưa về thành phố trong những chuyến hàng mờ ám, mà thấy nặng lòng.

Bao đời rồi, những niềm vui người sống tặng cho người chết để linh hồn của họ bớt côi cút khi phải rời cõi sống. Nay thì niềm vui cuối cùng ấy cũng bị chụp giật, cũng bị trấn lột nốt bởi những linh hồn chết của kẻ sống. Nhưng, tượng mồ vốn chỉ sống trong dưỡng khí huyền bí của đại ngàn. Sự sống của tượng là nơi nghĩa địa. Giờ kẻ đầu cơ cả thánh thần ma quỉ hòng đoạt tượng về, muốn biến công sở thành ngục tù giam tượng, biến văn phòng thành nghĩa địa bày tượng, biến tư dinh thành nhà mồ chăng?

Không biết tượng người đang ôm mặt kia chiều mưa này mới khóc thế, hay vẫn như thế tự bao giờ? Bóng tối trầm nặng của đại ngàn đã sập xuống rồi. Tượng vẫn cứ ngồi nguyên đấy. Tượng có nghe những đợt sóng âm lạnh lẽo từ cõi chết xô tới chân mình? Có nghe những cuộc săn lùng của kẻ sống đang rình mò vây ráp quanh đây?

Rời nghĩa địa về lại thành phố, thỉnh thoảng tôi lại giật thót, như có cái gì lạnh toát vừa lướt dọc sống lưng. Mỗi lần ngoái lại, vẫn chỉ thấy cột tượng ấy. Vẫn tự bưng mặt mình thui thủi trong mưa. Vẫn cái nhìn từ đôi mắt tượng. Ràn rụa. Trân trối. Âm u. Thăm thẳm…

Về làng

Cũng trong lần vừa rồi, chúng tôi có đến một làng cổ của người Bahna. Đây là một điểm nhấn trên bản đồ du lịch của Tây Nguyên. Khi qua chiếc cầu dây văng khá bề thế, mô phỏng cầu Cổng vàng của nước Mỹ, bắc qua sông Dakbla, dẫn sang ngôi làng ấy, tôi dự cảm về một làng xưa đang được hiện đại hóa. Tôi sắp được gặp một làng khang trang, ánh sáng văn minh đang làm rạng rỡ thêm bản sắc bao đời. Nhưng, càng đến gần,  lại càng xa điều dự tưởng. Hình như, qua lại chiếc cầu ấy mỗi ngày, luôn có một cái gì đang tìm về cũng có cái gì đó đang ra đi thì phải?

Nghe bảo, mấy năm trước hồn vía làng xưa vẫn còn khá nguyên vẹn trong cảnh quan. Bây giờ làng chưa đến nỗi như một người đẹp bị tàn phế, mà chỉ như một người đẹp dao kéo chưa xong ca phẫu thuật thôi. Khắp làng, nhà sàn gỗ cổ truyền đang bị lấn bởi nhà trệt bê tông. Lẽ nào do người bản thổ muốn học theo người Kinh mà bỏ lối sống xưa, kiến trúc xưa? Lẽ nào do gỗ ngày một hiếm đi, gỗ không được bền? Hay do một áp lực nào không cưỡng lại được chăng? Tôi chợt liên tưởng đến những nhân vật người bị nguyền cứ dần dần hóa đá trong các câu chuyện cổ mà lo âu. Chẳng nhẽ, để sinh tồn, cái này cứ phải chèn ép thôn tính cái kia, tựa bê tông với gỗ trong mỗi nếp nhà, mỗi ngôi làng?

Cũng chiều muộn, tôi được dẫn đến một ngôi nhà thờ đẹp. Tuy không được như ngôi nhà thờ cổ nổi tiếng nằm giữa thành phố Kontum. Nhưng nó vẫn xinh xắn với dáng vẻ cân xứng giữa tháp chuông và dàn mái, giữa hành lang và lòng nhà nguyện, nhất là giải pháp hoa văn gỗ vừa đơn giản vừa tinh tế, hiện đại mà vẫn Tây Nguyên. Nhưng, cứ như một người bị o ép vậy. Phần đất dưới chân nó quá hẹp. Chẳng có lấy một khoảng nào đáng gọi là khuôn viên bao quanh. Nó đứng khó khăn như một người cứ phải cả đời trong thế kiễng chân. Giống như một hành khách rủi ro trên chuyến tàu chợ của sự sống, chỉ kiếm đủ chỗ để đặt một bàn chân và cứ đứng kiễng mình thế giữa chen chúc xô bồ cho đến tận ga cuối.

Tôi đi quanh làng rất lâu, ngắm hết góc này đến góc khác mà nghe gió quẩn trong lòng. Tôi đã tìm tới bãi sông rìa làng, nơi vẫn được gọi là bãi tắm Mộng Mơ. Nghe bảo, trước đây người ta vẫn ra tắm tiên. Mà giờ vãi đầy rác rưởi xú uế. Đã qua những vườn cây trước ngay ngắn sum suê, giờ hàng rào đã xiêu vẹo cả. Chỗ nào cũng thấy đám trẻ con nhem nhuốc, xốc xếch. Chúng đùa nghịch giữa đống cát sỏi trộn lẫn rác rưởi. Chúng giành nhau những que củi mục, bao ni lông và vỏ đồ hộp làm đồ chơi. Khi ra đến sát bờ sông, tôi giật mình, vì chợt thấy cả ngôi làng như nghiêng hết về phía bờ dốc. Chẳng hiểu do tôi chưa nhìn đúng góc, hay làng bị xiêu, mà cái thế của làng cứ y như cái thế của một người bị dồn đuổi đã chạy ra đến sát bờ sông, đang chới với, cố bấm chân vào bờ nước. Chỉ cần một cú hẩy nhẹ thôi là làng sẽ sa cả xuống sông.

Nhưng, buồn nhất vẫn là hình ảnh một bà già. Trong căn nhà gỗ còn sót lại giữa làng, một bà già ngồi trên sàn lặng lẽ. Bà ngồi đó từ trước khi chúng tôi đến. Chúng tôi đi thăm hết chỗ này chỗ kia, quay lại, vẫn thấy bà ngồi nguyên đấy. Giữa xó tối của nhà sàn, một đôi mắt ngó mông lung, bất động. Đôi bàn tay tì gối, bưng lấy khuôn mặt nhăn nheo. Mỗi nếp nhăn như giấu một nếp đời lam lũ. Trong lúc ấy, tôi sực nghĩ, có lẽ, bà đã ngồi đó từ bao ngày trước rồi. Thậm chí, bà đã ngồi như thế từ thời trẻ cho đến giờ cũng nên. Tôi đã bước thêm đến một vài nơi nữa của làng để tham quan, nhưng chốc chốc vẫn cứ phải ngoái lại. Lạ. Đôi mắt ấy có nhìn tôi đâu ! Nhưng sao tôi luôn thấy như nó dán vào lưng mình.

Ớn lạnh suốt cả xương sống. Chẳng biết bà có nhìn lũ trẻ nhem nhuốc đang mải mê chơi quên cả bóng chiều không? Có nhìn thấy những đoàn khách sang trọng đang mải theo các tour guide hết chốn này đến chốn khác nghe giới thiệu về văn hóa làng không? Có thấy bóng chiều quanh mình đã sẫm lại ngay từ lúc hãy còn nắng không? Có thấy bê tông đã dâng đến ngang ngực của làng không? Tôi không rõ. Bà cứ ngồi thế. Một mình. Bất động. Như đá. Như gỗ lũa. Đôi mắt ràn rụa bóng tối. Lạ nữa, nhìn bà, sao tôi cứ thấy có cái gì quen quá. Hình như tôi đã gặp ở đâu đó rồi. Mà gặp chưa lâu, thì phải. Vừa bước đi, tôi vừa cố kiểm lại xem, nhưng lần dở mãi, mà chịu, chẳng ra bóng dáng quen nào.

Cho đến phút sắp sửa rời làng, sực nhớ ra, thì tôi hoảng hồn : chẳng phải dáng ngồi của tượng nhà mồ đây sao ! Tức thì, tôi thấy gió mưa ở nghĩa địa hoang hôm nào bỗng réo rít. Tiếng rên “khư khư… khừ khừ” bỗng vọng về. Chao ôi, đây là nguyên mẫu  sao? Là tiền kiếp của tượng nhà mồ sao? Khi câu hỏi ấy nhói lên, tôi thấy bóng tối quanh làng, quanh bà như cái bóng ảm đạm vây phủ phận người trên bãi đời mênh mông này. Dường như, không phải cây cà chít nào kia đang được đẽo thành tượng mồ. Mà chính bóng tối đó mang trong lòng muôn lưỡi rìu chìm đang từng ngày từng giờ đẽo bà thành tượng. Có lẽ nào, chính thứ hư vô nhỡn tiền đó đang biến người thành tượng ngay khi họ còn sống? Biến họ thành tượng nhà mồ ngay trên sàn nhà họ?

Khi đã nhá nhem, đoàn chúng tôi phải rời làng về lại thành phố. Đi đến quãng nào, ngoái lại, tôi vẫn thấy bà già ngồi đấy. Nhọ hẳn mặt người rồi, vẫn thấy bà ngồi nguyên đấy. Vẫn đôi bàn tay tự bưng mặt mình. Vẫn đôi mắt mông lung. Ràn rụa. Trân trối. Thăm thẳm. Âm u …

Nên bị gai đâm

Những thảm rêu vốn không biết dỗi hờn. Những đoá hoa không bao giờ chì chiết. Những giấc mơ chỉ một mực bao dung. Những yêu thương không bao giờ trả đũa…

Núi lửa nào hay mình làm đau trái đất. Sóng thần nào hay mình làm đau những đại dương. Bão tố nào hay mình làm đau những cánh rừng. Đá ghềnh nào hay mình làm tổn thương những dòng suối. Mỏ neo níu giữ con thuyền đâu hay đã làm rách tướp những lòng sông.

Trái rụng đâu hay mình làm đau lòng vườn. Nắng chói đâu hay mình làm đau những giọt sương đậu hờ trên mép lá. Bụi bay đâu hay mình làm đau những làn hương. Con ong đâu hay tiếng đập cánh vụng về làm giật mình nụ hoa út ít. Lá rơi nào hay mình làm tổn thương giấc mơ của cánh chuồn kim thiêm thiếp sau ngọn cỏ góc ao.

Tiếng chuông rền làm tổn thương hoàng hôn. Bước chân mau làm tổn thương những con đường. Gót giày khua làm tổn thương lối ngõ. Nếp áo nhàu làm tổn thương bao ấp iu của gió. Vệt lá lăn làm tổn thương thảm rêu nhung ẩm ướt bên thềm.

Ngòi bút sắc làm đau trang giấy. Nét mực hoen làm đau con chữ gầy. Câu thơ suông làm tổn thương ánh đèn tri kỉ. Giọng ca trơn làm tổn thương điệu nhạc say đắm. Ngón tay bấm bâng quơ làm tổn thương bao âm giai ẩn trong mỗi phím đàn.

Lần lỗi hẹn làm đau điểm hẹn. Cái bắt tay ơ hờ làm đau nhịp tim sâu. Nụ cười tắt mau làm tổn thương những thắc thỏm mong cầu. Tiếng thở dài làm tổn thương ánh nhìn ngân ngấn. Thoáng chau mày làm đau giọt mồ hôi lau vội lúc cuối ngày.

Ảnh: Shykhman

Thế giới cần nâng niu quá đỗi. Ta sống đời lại thô tháp làm sao. Ta làm tổn thương những dòng sông. Ta làm tổn thương những mặt đầm. Ta làm tổn thương những mảnh vườn. Ta làm tổn thương những mùa hoa trái. Ta làm tổn thương những bình minh yên ả. Ta làm tổn thương những canh khuya trong vắng. Ta làm đau những niềm người quá đỗi mong manh…

Mặt đất ngàn đời quen tha thứ. Đại dương bao la quen độ lượng. Cánh rừng mênh mông quen trầm mặc. Những dòng sông quen chảy xuôi. Những hồ đầm quen nín lặng. Những nẻo đường quen nhẫn nhịn. Những góc vườn quen che giấu. Những thảm rêu vốn không biết dỗi hờn. Những đoá hoa không bao giờ chì chiết. Những giấc mơ chỉ một mực bao dung. Những yêu thương không bao giờ trả đũa…

Và ta cứ yên chí đi qua thế giới này với bước chân quen xéo lên cỏ hoa. Thỉnh thoảng bàn chân nên bị gai đâm, để ta được giật mình : tổn thương là rỉ máu. Thỉnh thoảng bàn chân nên bị gai đâm.

Và ta cứ yên chí đi qua thế giới này với bước chân quen xéo lên cỏ hoa. Thỉnh thoảng bàn chân nên bị gai đâm, để ta được giật mình : tổn thương là rỉ máu. Núi lửa nào hay mình làm đau trái đất. Sóng thần nào hay mình làm đau những đại dương. Bão tố nào hay mình làm đau những cánh rừng. Đá ghềnh nào hay mình làm tổn thương những dòng suối. Mỏ neo níu giữ con thuyền đâu hay đã làm rách tướp những lòng sông.

Trái rụng đâu hay mình làm đau lòng vườn. Nắng chói đâu hay mình làm đau những giọt sương đậu hờ trên mép lá. Bụi bay đâu hay mình làm đau những làn hương. Con ong đâu hay tiếng đập cánh vụng về làm giật mình nụ hoa út ít. Lá rơi nào hay mình làm tổn thương giấc mơ của cánh chuồn kim thiêm thiếp sau ngọn cỏ góc ao.

Ảnh: DreamPixer

Tiếng chuông rền làm tổn thương hoàng hôn. Bước chân mau làm tổn thương những con đường. Gót giày khua làm tổn thương lối ngõ. Nếp áo nhàu làm tổn thương bao ấp iu của gió. Vệt lá lăn làm tổn thương thảm rêu nhung ẩm ướt bên thềm.

Ngòi bút sắc làm đau trang giấy. Nét mực hoen làm đau con chữ gầy. Câu thơ suông làm tổn thương ánh đèn tri kỉ. Giọng ca trơn làm tổn thương điệu nhạc say đắm. Ngón tay bấm bâng quơ làm tổn thương bao âm giai ẩn trong mỗi phím đàn.

Lần lỗi hẹn làm đau điểm hẹn. Cái bắt tay ơ hờ làm đau nhịp tim sâu. Nụ cười tắt mau làm tổn thương những thắc thỏm mong cầu. Tiếng thở dài làm tổn thương ánh nhìn ngân ngấn. Thoáng chau mày làm đau giọt mồ hôi lau vội lúc cuối ngày.

Thế giới cần nâng niu quá đỗi. Ta sống đời lại thô tháp làm sao. Ta làm tổn thương những dòng sông. Ta làm tổn thương những mặt đầm. Ta làm tổn thương những mảnh vườn. Ta làm tổn thương những mùa hoa trái. Ta làm tổn thương những bình minh yên ả. Ta làm tổn thương những canh khuya trong vắng. Ta làm đau những niềm người quá đỗi mong manh…

Mặt đất ngàn đời quen tha thứ. Đại dương bao la quen độ lượng. Cánh rừng mênh mông quen trầm mặc. Những dòng sông quen chảy xuôi. Những hồ đầm quen nín lặng. Những nẻo đường quen nhẫn nhịn. Những góc vườn quen che giấu. Những thảm rêu vốn không biết dỗi hờn. Những đoá hoa không bao giờ chì chiết. Những giấc mơ chỉ một mực bao dung. Những yêu thương không bao giờ trả đũa…

Và ta cứ yên chí đi qua thế giới này với bước chân quen xéo lên cỏ hoa. Thỉnh thoảng bàn chân nên bị gai đâm, để ta được giật mình : tổn thương là rỉ máu. Thỉnh thoảng bàn chân nên bị gai đâm.

Phận hoa bên lề

Đó là loài hoa nở vào cuối năm. Đó là loài hoa mọc nơi cuối đất. Đó là loài hoa đợi ở cuối đời.

          Khi hầu hết các loài hoa trong năm đã khoe sắc phô hương cả rồi, nó mới nở. Nếu xem mỗi niên hoa như một dãy dằng dặc, xếp hàng đợi đến lượt nở, thì nó đứng ở cuối hàng. Kiên nhẫn, nhún nhường, hay biết phận biết thân ? Thật khó nói. Chỉ biết khi năm hầu tàn, mùa hầu cạn, chẳng còn loài hoa nào tranh chòi nữa, nó mới dâng hoa. Nó nở trong gió bấc mưa phùn, dưới màu mây xám bạc của ngày đông tận. Nhưng không ai đợi nó dịp tất niên. Càng không ai chờ nó cho tân niên.

                                                  Nó là loài hoa không được chào đón. Nó là loài hoa không biết đến hội hè. Nó không có chỗ trong các bình hoa bày trang trọng tại những chốn cao sang. Cũng không có chỗ trong những vựa hoa, quầy hoa, sạp hoa bày trên phố xá. Không ai đầu tư, không ai khuyến mại. Nó không bao giờ có mặt trong danh sách những thứ hoa cần mua sắm để trang hoàng khánh tiết cho bất cứ kì cuộc nào. Và nó cũng chẳng dám mơ được nằm trên bàn tay tình nhân trao tặng nhau những dịp lễ lạc. Bàn tay chăm thôi còn chả dám mong, nói gì đến bàn tay tình. Có phải bàn tay duy nhất nó được biết đến trong đời là bàn tay cầm nắm nó khi triệt bỏ nó ?

        Không có chỗ trong vườn nhà. Không bén mảng tới những hoa viên. Nó không có căn cước tại đấy. Có ai cấp thẻ xanh để cho nó quyền cư trú tại đấy đâu. Thảng hoặc có bóng nó vươn hoa ở góc vườn nào, thì nó chỉ được xem như dân lậu, dân liều. Nó thường bị trục xuất trước tiên khỏi những hoa viên, hoa uyển. Họa chăng, chỉ khi vườn đã bỏ hoang, nó mới có hi vọng. Chủ nhân chả còn đoái hoài, các loài khác chả thèm giành giật đất nữa, thì nó mới đến mọc. Nó rón rén mọc trên đất bỏ, đất thí. Dạng nhảy dù. Sống chui. Nó là loài hoa vườn hoang.

                         Ta thường thấy nó ở bên đường. Đúng hơn, nó vẫn ở bên đường mà ta thường không thấy. Nó không phải là địa chỉ cho những ánh mắt thưởng ngoạn kiếm tìm. Từng đoàn xe cứ vút qua. Những ánh mắt vãng cảnh cứ rướn xa. Nhưng điểm nhìn của dòng người thường không đặt vào nó. Nó bị lãng quên ngay trong tầm mắt người đời. Dù ngọn hoa có đâm ngang tầm nhìn, xiên vào nhãn giới, thì cũng thế thôi. Cả khi du khách dừng lại để chụp ảnh, ống kính zoom qua đầu nó là để chớp lấy những cảnh hớp hồn phía xa. Về xem lại, thấy nó lỡ có mặt trong khuôn hình ngoài ý muốn, thì bực mình. Khi in ra, người ta cẩn thận dùng photoshop xóa nó đi, cho hết vướng. Nó là loài hoa bên đường.

           Nhưng, vương quốc thực sự của nó là miền hoang, là núi đồi gò bãi. Nó là cư dân của những miền đời quên lãng. Lãng quên, đó mới là không gian cho nó, của nó. Một kiếp hoa chung thân chốn lãng quên. Có phải nỗi hoang vu vón lại thành loài hoa ấy. Có phải nó là đứa con tự túc của nỗi hoang vu. Sinh ra nó để tự khuây khỏa, khoảng trống của hoang vu có bớt đi được phần nào không, mà giữa chốn hoang vắng, có bóng nó chập chờn, lại chỉ thấy lòng thêm hoang dại. Nó là hoa lau.

                  Nó là loài cỏ. Mà nào có như cỏ mật được giấu vào túi áo, cỏ gà được chọn chơi, cỏ gừng, cỏ nhung được chăm chút trong công viên. Nó là loài cỏ bị bỏ rơi. Người ta vẫn trông mà đâu có thấy… Mặc, lau vẫn sống đời lau. Lầm lụi thanh bần. Lau vẫn mọc, theo cách riêng. Không riêng từng thân, mà thành từng bụi. Khi nở thì nhất loạt, cứ tua tủa vươn lên. Mỗi ngọn như một tia phun mạnh vào không trung. Tất cả như một chùm pháo hoa bừng sáng. Lau tự bắn pháo hoa, tự mình hội hè lễ lạc chăng ?

Thực ra, lau là chị em của mía. Cùng một xuất thân mà hai thân phận. Mía thành cây vườn, lau thành cỏ hoang. Chị em xa cách từ đó. Nhờ có đường, mía thành loài có ích, được chăm chút, vồ vập. Chỉ có hoa thôi, mà lại là thứ hoa bạc phận, lau cứ như kẻ vô ích, bị bạc đãi, thờ ơ, dù không ít đời lau được trưng thu làm đệm. Nếu vườn mía xuất hiện cỏ lau, chủ vườn sẽ diệt lau lập tức. Người ta gom lau thành đống, đợi khô, rồi đốt, ngay bên những luống mía. Nào ai biết mía của phần xác, lau của phần hồn, kể cả khi đứng nhai mía bên lau.

                         Lau cũng nở theo cách riêng. Không bày từng cánh, không đơm từng phiến, mà vươn từng sợi. Từng sợi nương nhau mà thành lọn, tụ lại mà thành bông. Như bông tuyết khô. Như núm bông lẻ. Như lọn mây thất lạc thinh không, rơi rụng khỏi bầu trời, đậu hờ trên ngọn mảnh. Nhưng bao giờ lau cũng vươn cao nhất, cố nghển cổ lên mà nở hoa. Có lẽ trong các loài, đây là loài hoa cổ gầy nhẳng mà vươn dài nhất. Dài đến ngất nghểu chon von. Khi toàn thân đã hết hẳn tầm vươn, nó mới đành trổ hoa. Như để được diện kiến với trời, như để được giao lưu với mây, díu dan với gió. Lau phải lòng mây, gió, phải lòng khoảng không chăng ? Nhiều khi ngắm nó, tôi cứ miên man với những giả tưởng cổ tích.

                          Phải chăng, thuở xưa lau vốn là một cụm mây trắng út ít ? Một lần theo chúng theo bạn xuống nhởn nhơ trần giới, rồi mải quyến luyến cây cỏ, đến lúc ngẩng lên thì ngày đã khép, nắng đã tắt, chẳng còn kịp theo bầy mà về trời. Thế là cụm mây út rớt lại miền hoang. Nó lìa khỏi gió. Đậu vào đầu cỏ. Mà thành hoa lau. Từ đấy, mây út sống kiếp cỏ hoa để một đời luôn nhớ tiếc khoảng không, ngóng vọng bầu trời. Suốt đời thèm về lại kiếp mây trắng. Mà không thể. Phải vì thế mà những bông lau buồn nhất là lúc hoàng hôn ? Khi mặt trời khuất dần sau núi, thu hết nắng đem đi, trên đầu mỗi bông lau chỉ còn le lói vài tia nán lại, dáng lau mới bồn chồn làm sao. Những ánh bạc cứ tím rực lên rồi thẫm lại. Đầu bông cố rướn lên rồi lả xuống.

Xốn xang mà u uất. Lau bơ phờ rủ bờm trong hoàng hôn. Rồi những ánh chiếu li ti cũng tắt dần trên từng sợi bạc của hoa lau, bóng tối ngấm sâu vào cây cỏ. Đó là lúc ngày thực sự trút hơi thở tàn cuối cùng để chết lịm vào lòng đêm. Cả chùm lau muôn sợi bạc mềm óng ánh thế, tím rực thế, bỗng tím bầm, tím ngắt, như vẻ mặt thất thần của kẻ chợt nhận ra mình khánh kiệt… Đón được gió mà đành buông gió. Muốn cất mình bay, mà suốt đời chỉ đậu.

          Cuối cùng, lau chọn một cách bay riêng. Không toàn thể, thì từng phần. Chẳng tưng bừng, thì lặng lẽ. Không có một chuyến chung, thì làm vô vàn chuyến riêng. Lau cứ âm thầm xé mình ra. Đời hoa là đời của ước mơ lớn xé lẻ thành những sợi lau con. Mỗi sợi bạc một ước mơ bay. Cứ từng sợi, từng sợi, gửi vào gió. Mà bay. Nhung tuyết một đời tan thành từng chuyến bay như thế. Bợt bạc rồi xơ xướp. Hết nhung hết tuyết, cũng hết đời hoa.

Đã có khi tôi nghĩ lau như phận hoa lưu đày. Ấy là lần đi dọc đèo Bông Lau trên đường số Bốn vắt từ Thất Khê sang Đông Khê mạn Cao Bằng. Nhưng rõ nhất là lần trên đất Lào từ Luang Prabang về Viên Chăn. Toàn đường núi là đường núi. Hành khách trên xe ai nấy kẻ gà người gật. Cũng gà gà gật gật nhìn ra, tôi cứ thấy núi đồi hai bên chập chờn trắng, trập trùng trắng. Nhìn quấy nhìn quá, nghĩ là mây bám tuyết phủ đó thôi. Nhưng Lào thì làm gì có tuyết nhỉ ? Ừ, làm gì có. Thế là bừng tỉnh. Thì ra lau. Chao, có đến hàng mấy chục cây số núi đồi bạt ngàn lau trắng. Mênh mang đồi này núi khác những bờm lau trắng trùng phùng như bầy bầy đàn đàn những ngựa trắng là ngựa trắng. Chúng tập kết ở chốn núi đồi này là do bị xua đuổi mà cụm lại ? Hay đang tìm đến nhau, hội quân tại đây để dàn hàng nghênh chiến trong một trận sinh tử nào ? Tôi đã ngất ngây đến hàng giờ với liên tưởng đó.

                                                 Nhưng, khi kịp nhìn lau trong toàn cảnh núi non rừng rú trải đến vô tận ấy, tôi mới nhận thấy dáng lau kia đâu có kiêu hùng sát khí. Một nỗi buồn trắng xóa phủ khắp núi đồi hoang. Lau trầm cảm thế kia mà. Bấy giờ, tôi mới thấy lau như một bộ lạc bị hất ra rìa lãnh thổ. Lau như kẻ thất thổ, lưu vong, phải khăn gói theo nhau tìm đến những chốn heo hút này để náu mình, để làm nơi trú xứ. Lau như bầy người di tản. Rừng xanh núi đỏ kia là chốn tị nạn của lau. Lau của kiếp người phát vãng. Rừng sâu rú thẳm kia là chốn chôn đời của những kiếp người vô tăm tích. Lau mang phận lưu đày.

                       Nhưng lau lại là công dân toàn cầu. Ở đâu mà chẳng gặp lau. Giữa cố đô Luang Prabang của Lào, tôi cũng gặp lau nép mình bên những nếp chùa cổ, cạnh những pho tượng Phật được khắc tạc sơ giản đến sơ sài. Ở Bhutan, vương quốc nhỏ xíu treo mình trên rặng Hymalaya, tôi cũng luôn gặp những dáng lau. Lau bình thản đứng bên lề đường nhìn từng toán người hành hương lên Tigernet, ngôi chùa thiêng mà như gá trên vách núi, dựng cheo leo bên mép vực sâu.

Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ, cái thủ đô độc đáo nửa phần thuộc Á, nửa phần thuộc Âu, tôi cũng gặp lau. Những bông lau cứ điềm nhiên mà trắng hết phận mình, chẳng cần biết mình là lau Âu hay lau Á. Lạ, vào Đà Lạt, gặp những đồi lau nương mình trong các thung lũng khuất sau hồ Tuyền Lâm, sang Angkor, gặp lau liêu xiêu trắng dưới đôi chân sa thạch của những vũ nữ Apsara, phất phơ bên nụ cười của Bayon bốn mặt, lên Vạn Lý Trường Thành, gặp lau rạp mình dưới chân cái tấm bia khắc câu “Bất đáo trường thành phi hảo hán” của Mao, qua Malaysia gặp lau nấp sau bức tường đổ của pháo đài Malacka, … tôi không thấy ngạc nhiên lắm. Thì những chốn xưa xưa khuất nẻo thế ấy vốn là nơi trú ngụ của lau mà. Còn cái lần gặp lau ở Mỹ, thì tôi thực sự ngạc nhiên. Đó là hôm đến New York, ra đảo tượng Nữ thần Tự do. Ở cái nơi hiện đại tối tân, nơi được chăm sóc cẩn thận bậc nhất thế giới này, mà phía sau tòa tháp tượng sừng sững ngất trời lại có hoa lau. Lau thầm trắng những bông ẩn nhẫn. Tất nhiên, du khách đều đổ xô vào thần tượng. Đến đây đâu phải để ngắm lau. Nhìn những bông lau bạc lạc lõng, lơ ngơ ấy, tôi bỗng ngộ một điều : phía sau mỗi thần tượng đều có những đời lau….

                                            Và lần vừa rồi, về Lao Cai, đúng cái nơi con sông Hồng nhập mình vào đất Việt, tôi lại thêm một lần ngỡ ngàng về lau. Cả một bãi nổi giữa sông, dài đến hàng dặm, ngập tràn lau trắng. Từng bông trắng xóa, cả bãi bạc xóa, toàn đảo cứ lấp lóa lên như đang phơi tơ bạc ròng dưới cái nắng hiếm hoi của ngày đông. Dòng nước hồng thì vờn quanh đảo trắng. Còn lau trắng cứ bồng bênh soi bóng xuống mặt sông hồng. Chẳng phải kia là Thiên Thai trong cõi thực sao ? Chẳng phải kia là chốn dành cho những mối tình ngư phủ sao ? Tôi bỗng thèm thấy bóng một chiếc thuyền không, chủ nhân của nó bỏ lại bên bến lau. Và ước sao khi ấy, giữa ngàn lau xôn xao kia, họ đang thầm thĩ với nhau những lời chỉ có họ và lau mới biết. Khung cảnh trữ tình đó cứ xui tôi tin rằng : hẳn là thuở xưa, Chử Đồng Tử và Tiên Dung cũng đã gặp nhau rồi bén duyên nhau trong đám lau như thế ! Thì trong lau vẫn ẩn cái nhịp sống đời đời trên mặt đất này thôi.

Là thứ hoa đạm bạc vào bậc nhất, lau mang trong mình một chút thiền ý. Thiền ý về cái lẽ sắc không của tồn sinh. Không màu mè, không hình nét. Có sắc mà vô sắc. Là hoa mà như không phải hoa. Có mà như không có. Hoa lau nhắc ta nhiều nhất về sự chập chờn mong manh của phận người. Cũng là nhắc về cái bạc lý bạc nghĩa của sự tồn sinh. Có lẽ vì thế mà thiền nhân bao đời thường thấy nhân gian trong một thoáng hoa lau. Nhiều khi cứ ngắm mãi cái bông trắng hiu hắt bất định ấy, chính tôi cũng từng lâm vào nghi hoặc : nó là hoa hay không phải hoa ? nó là hoa lau hay chỉ là cái bóng nhòe mờ, phôi pha của một loài hoa nào khác ?

                      Nhưng nó cũng nhắc ta về ý nghĩa bền bỉ của sinh tồn. Mỗi tồn sinh trên cõi này chỉ là một bóng hiu hắt, một thoáng chập chờn, thế thôi. Có nghĩa gì lắm đâu. Nhưng mà vẫn cố. Vẫn thản nhiên. Vẫn cứ mỉm bông lau. Nên lau đâu có giấu mình. Trái lại, luôn vươn mình. Mọi loài hoa đều sợ gió. Gió làm phai sắc, nhạt hương, rã cánh. Gió thành kẻ thù của hoa. Nhưng riêng lau thì không sợ gió. Lau chung tình cùng gió, nô giỡn, cợt cười cùng gió. Lau chờ gió để được tung bờm. Lau nương gió để cùng khiêu vũ. Đứng rủ bờm trong sương sớm, nhưng một khi nắng lên, gió dậy là nó lại tung những chỏm bờm ánh bạc, rúng động, náo nức như muốn tung mình tề phi cùng gió. Chỉ mình nó nô giỡn với lãng quên, làm cho lãng quên đỡ phần cô tịch…

Song, có lẽ phải trong canh khuya mới thấy hoa lau nhẫn nại thế nào. Nó gục đầu vào sương khuya. Nhưng sương khuya đâu phải là điểm tựa. Sương khuya lại từng giọt đậu lên đầu nó, dụi mình vào nó. Nó tìm nơi tựa, rốt cục lại phải làm chỗ tựa cho kẻ khác. Nó chỉ còn biết tựa vào chính mình. Đành tìm sự vững vàng trong thế chon von. Lấy cái chênh chao để làm sự cân bằng. Cứ thế, nó yên phận làm lau để an ủi mặt đất này.

Có tình cờ không, khi theo nhau suốt bao năm, mà phải đến lần này, khi về đất Hoa Lư tôi mới có thể viết về lau. Có phải đó là ý muốn của lau ? Có phải lau muốn tôi phải viết những trang lau này trên đất cờ lau ? Thực ra, nơi chúng tôi ở và làm công việc soạn đề thi suốt hai tuần, nhìn ra xung quanh đến hàng cây số đồng ruộng, có bóng lau nào đâu. Nhưng, Hoa Lư là hoa lau. Đồn rằng xa xưa chốn này là ngàn lau rậm rạp. Rậm rạp đến mức người ta ngỡ lau đã độc chiếm toàn bộ vùng này làm căn cứ của mình. Lau đồn trú trên mọi triền đồi, vách núi của cái xứ sở lắm núi nhiều non vẫn được xem là vịnh Hạ Long trên cạn này. Cứ vào cữ đông này đây là lau nhất loạt phất cờ trên toàn xứ. Lau rợp đất, lau rợp trời khiến người nay cứ mơ hồ thấy bóng đội quân cờ lau của Đinh Bộ Lĩnh hàng ngàn năm trước vẫn thấp thoáng đâu đó trong lau.

                  Nhớ lần tha thẩn vào Tràng An Bái Đính. Tôi muốn có cuộc hành hương đến ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á, nằm sâu trong non nước Hoa Lư, nơi mà thiên nhiên hoang sơ dường như vẫn còn bảo lưu trong nó màn sương khói thời vua Đinh vua Lê, cùng màn sương Dương Vân Nga, người đàn bà kì lạ, làm hoàng hậu của những hai vị hoàng đế, với hai triều đại khác nhau. Lại cũng muốn kiếm tìm cho mình một ngọn lau mang hồn vía chốn này. Nhưng cuối cùng, cái ấn tượng còn lại không phải về chùa, mà về lau. Chả biết do mải tìm lau hay lau dẫn lối mà tôi đã lạc đến một cồn lau ẩn sau một bến nước hoang hút, âm u. Rêu dày ngập gót, dây dại nghênh ngang chen đá lấn cây. Chốn rậm rạp và rờn rợn ấy mách bảo tôi rằng có lẽ bao nhiêu năm rồi chẳng có ai mò tới đây. Và, bất ngờ tôi gặp một vạt lau già có đến cả ngàn bông trắng muốt. Bông nào cũng như một chòm râu bạc phất phơ bên bến vắng. Cứ như vẫn phất phơ ở đấy tự bao đời. Chà, những bông lau ẩn dật ! Những bông lau tự tại, thích thảng ! Tôi nhớ đã kêu lên thế. Và đã đinh ninh đó là lau xưa, những cây lau vẫn ẩn mình ở đây từ thời Đinh Bộ Lĩnh.

Trong giây lát, tôi ngỡ mình đang ở ngàn xưa. Và khi bần thần bước ra khỏi vùng lau ấy, tôi thoáng thấy mình như vừa trở về từ xa xưa vậy. Tôi đã giữ riêng cho mình cái ảo giác hiếm hoi đó suốt bấy nay và thầm biết ơn những bông lau đã tặng cho mình khoảnh khắc thi vị ấy. Và, biết ơn cả cái ông vua Đinh Bộ Lĩnh nữa. Có lẽ ông cũng là vị vua độc đáo nhất trong những đấng quân vương. Bởi ông là người đầu tiên mà cũng có thể là người duy nhất đã nhìn thấy trong lau một lá cờ. Người nhìn thấy trong lau tiềm ẩn ngọn cờ, người ấy là hoàng đế. Càng xứng là hoàng đế khi nghiệp vương của người ấy cũng là sự nghiệp biến cờ lau thành một ngọn quốc kì.

       Vậy là cái lá cờ Đại Cồ Việt sau này được trương lên khi Đinh Tiên Hoàng Đế đăng quang đã được phất lên lần đầu trong cờ lau Hoa Lư rồi. Nó là những bông lau trắng xốp này đây. Nhưng, sau khi lên làm vua, liệu Đinh Bộ Lĩnh có còn quý lau, nhớ lau nữa không ? Khi hoàng đế là thằng bé con, thì mới nhìn thấy cờ trong lau. Chỉ có con mắt trẻ thơ mới có cái nhìn ấy. Còn khi đã ngự ngai vàng, có lẽ vua chỉ còn thấy cờ trong những tấm vóc đại hồng. Lá cờ lau xưa thì gửi trả lại cái thời chỉ xem là ấu trĩ thôi.

Vậy là chỉ có con trẻ và giống nghệ sĩ là đoái hoài đến hoa lau. Đám trẻ con thì thấy cờ trong lau. Đám nghệ sĩ thì thấy mình trong lau. Cầm trên tay bông lau lúc ấy, một kí ức lau cũng lộn xộn kéo về. Tôi nhớ cái bến lau của Phan Huy Vịnh đã chuyển một không gian rặt thảo mộc Tàu trong câu Tầm Dương giang đầu dạ tống khách / Phong diệp địch hoa thu sắt sắt thành một không gian rất Việt, trong đó phận tài hoa lận đận bên trời đã lẫn vào lau lách đìu hiu : Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách / Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu.

                      Tôi nhớ đến thứ lau nặng duyên nghiệp Nguyễn Du gửi vào nỗi tương tư của chàng Kim, vào nỗi hoang vắng của nàng Kiều trong cái đêm nàng đành thả phận mình theo gã Mã Giám Sinh Vi lô heo hắt hơi may / Một trời thu để riêng ai một mình, cũng như bố trí Tiền Đường thả một bè lau cho Vãi Giác Duyên cứu Kiều. Sau này, Thích Nhất Hạnh đã tựa vào chiếc bè ấy mà đọc Kiều bằng cái nhìn thiền quán để chỉ ra ở đó bao nhiêu là Phật lí cùng những công án Thiền. Tôi nhớ góc nhìn lau vượt đầu núi Phú Sĩ của Hokusai.

Nhớ ngàn lau hào hoa vẽ tranh trong nhạc của Văn Cao Ngàn lau thấp thoáng bóng kinh kì sầu bao la. Nhớ đến hồn lau đa tình của Quang Dũng Người đi châu Mộc chiều sương ấy / Có thấy hồn lau nẻo bến bờ. Và nhớ phận lau của ý niệm phôi pha đầy se xót về cõi tạm của Trịnh Công Sơn Chập chờn lau trắng trong tay … Nhưng, nhớ nhiều hơn là lần đến viếng Hoàng Hữu tại nghĩa trang Việt Trì.

                         Chiều muộn hôm ấy, sau khi thắp hương, tôi có hóa ngay bên mộ cho anh bài mình viết về Hai nửa vầng trăng. Lúc hóa xong, ngước lên, bất ngờ tôi thấy bảng lảng sau làn khói một bóng hoa lau trắng. Thứ hoa bạc mệnh từng nhập vào thơ anh, ám vào đời anh Người xa phơ phất hồn lau gió / Thổi trắng chân trời như khói pha đã theo anh về đây chăng ? Tình cờ hay là vận vào ? Bấy giờ, đọc trên mộ chí, thấy bạn văn đã chọn khắc cho thi sĩ một câu hoành tráng Bến bờ anh tim dội sóng khôn cùng. Tôi nghĩ, ừ, đành rằng đó cũng là một câu hay. Nhưng khoa trương chưa hẳn đã là Hoàng Hữu. Câu thơ xuất thần nhất, Hoàng Hữu nhất phải là cái câu đem hồn mình nương náu vào lau gió kia..

Thì ra, người có thể hờ hững với lau, lau đâu hờ hững với người. Chẳng thế mà một trong những nơi quần cư của lau là nghĩa địa. Hầu như nghĩa địa nào cũng ẩn hiện những lau. Có phải ở đó, nó mới sống cái sứ mệnh bí ẩn nhất của loài hoa được gọi là lau : sứ mạng lau xóa hệ lụy nhân gian và an ủi những vong hồn. Nó hảo tâm hiến mình làm giá thể để cho mỗi linh hồn đậu lại. Nó là đội quân thiện nguyện, tìm đến an trú nơi nghĩa địa để an ủi những vong linh. Mỗi bông lau cứ như sự hiển linh của một cô hồn. Trước khi Phật bà vẩy nước cành dương để hóa giải cho mỗi kiếp người, thì lau đã an ủi cho họ bên từng nấm mộ.

                  Khi bông hoa cuối cùng của những vòng hoa phủ quanh mộ tàn úa, rã rời, thì lau mọc. Lau lặng lẽ đến và cúi đầu mặc niệm. Bấy giờ nó mới thực sự là lau. Nó lau đi những vết hoen cuối cùng trong dương gian. Nó lau cho hư vô thêm trong suốt. Nó túc trực bên ngưỡng cửa hư không để đón đợi, để an ủi những vong hồn, lau khô những khổ lụy cuối cùng, rồi tiễn đưa từng vong linh vào sâu cõi hư bằng cái vẫy tay phơ phất. Có hoa lau người ta mới biết, thì ra, hư không cũng bám bụi, cũng cần lau xóa thường xuyên. Hoa lau cứ lầm lụi lau đi những lớp bụi vô hình, vô minh. Lau cho cả gió, cả mây, cả trời…

Và, chỉ khi nào bước vào đến chốn ấy, may chăng, mỗi chúng ta mới thấy giật mình: con đường của phận người là đường tới hoa lau.

Giấc mơ của gió

Tôi mải miết đi tìm giấc mơ của gió, một đời tôi, nhiều đời ai. Tôi vươn vai hát lời của sóng một đời tôi vạn đời ai. Tôi thênh thang đi tìm khát khao của biển để nghe gió thầm thì ngày xưa.

Biển mênh mông biển chẳng vô bờ
Con sóng nhỏ vu vơ đời phiêu lãng
Dã tràng đa mang xe cát vào vô hạn
Cánh buồm mơ tìm mãi bến thời gian

Đó là bốn câu thơ tôi cảm thán trong một chiều thơ bé, lang thang dọc triền đê, con đê biển vạm vỡ bao bọc lấy quê tôi Thụy Trường – Thái Thụy – Thái Bình. Buổi chiều hôm ấy, giống như bao buổi chiều hoa mắm, hoa vẹt chan chát ngọt ngọt mời gọi bầy ong, nhìn ngọn thủy triều len lỏi dâng đầy trong những con lạch luồn lách ra phía khơi xa, tôi hình dung về một cánh buồm mà thủy tổ của tôi đã căng từ làng Quỳnh – Nghệ An để đến nơi đây gửi gắm ước mơ. Tôi gọi đó là giấc mơ của gió.

                             Giấc mơ của gió, đời người ai không một lần gửi những khát khao. Biết bao nhiêu câu hỏi cứ mông lung nhảy nhót trong trí não ngây thơ của một đứa trẻ: phía xa kia là gì, đằng sau những con sóng, đằng sau những cánh buồm, đằng sau những cơn gió, làm thế nào để vượt những đại dương… Mỗi một ngày giấc mơ về đại dương, về những bờ bến xa mờ cứ xanh thẳm hiện hữu và lớn dần trong tôi và nó trở thành thứ tôn giáo của riêng tôi mà tự khi nào tôi không nhận ra.

Mùa hè năm ấy tôi được đi chơi trên một chuyến tàu của gia đình, con tàu xuất phát từ cảng Hải Phòng và cảng đích là Cam Ranh – Khánh Hòa. Ra khỏi luồng Hải Phòng tàu bắt đầu bươn mình vào Vịnh Bắc Bộ, bờ bến sau lưng nhạt dần, lần đầu tiên con mắt tôi được thỏa thê nỗi niềm vô cực. Vịnh Bắc Bộ vào thời điểm ấy với tôi đã là một đại dương đầu đời cho tôi hình dung và cảm nhận được câu mà nhiều người đi biển từng nói: ra đến biển con tàu cũng chỉ như chiếc lá tre mà thôi…

                                       Thuyền viên trên chuyến tàu buổi ấy ai cũng nói với tôi rằng số tôi đỏ, đi biển đúng vào dịp biển không còn thể êm hơn, lại đúng vào mùa trăng. Buổi chiều lịm dần trên vịnh, con tàu bình thản như đang trườn trên một đĩa thạch màu xanh khổng lồ, mặt trời ngẩn ngơ nhấp nhổm rồi giấu đi chút hào quang cuối ngày vào thâm cung thủy tận. Tôi như một chú ếch xanh bợt da thiếu nắng thiếu gió một ngày bỗng nhảy ra khỏi chiếc giếng sâu đời mình, cuộc sống ngoài kia còn có cả mặt trăng tròn hơn và trong hơn cái vòm giếng bấy lâu tôi ngồi. Vành trăng hôm ấy chẳng phải là một thứ ánh sáng dối lừa đã dẫn dụ tôi vào dạo chơi cuộc đời. Cuộc dạo chơi ấy có tên giấc mơ của gió.

Tôi đã từng nghe nói về hải đăng nhưng thú thật chưa thể hình dung cảm giác khi nhìn thấy hải đăng từ phía biển nó ra sao. Đêm ấy, qua một cơn mưa, trăng trốn vào trò chơi thị giác, biển tối đen và ẩm ướt, bầu trời thêm một lần nữa đẩy tôi vào những bí mật. Khi chúng tôi vừa bắt được tín hiệu: ” Đà Nẵng radio gọi các đài tàu…” cũng là lúc tôi thấy le lói hải đăng mũi Sơn Trà. Quả thật lúc đó tâm trạng của tôi khác hẳn tâm trạng của một người nhìn thấy ánh hải đăng từ phía đất liền, dường như ngọn đèn biển mà tôi đang thao thức đã có một linh hồn. Sau này sau này và sau này cùng biết bao nhiêu trải nghiệm những tuyến đường trên biển, đi qua biết bao những chớp sáng linh hồn, nhưng mỗi lần tôi đều có những tâm trạng khác biệt. Tôi gọi nó là mắt biển.

 

Qua chuyến đi biển ấy, giấc mơ của gió, hình dung về thủy tổ của tôi một ngày đã vượt sóng làng Quỳnh để ra khơi cứ nhen nhóm và thôi thúc tôi về một ước mong thủy thủ. Tôi cần phải làm gì đó, tôi cần phải đi xa hơn, tôi muốn ngắm nhìn thế giới này bằng con mắt của chính mình chứ không phải là con mắt của người khác. Nhưng để làm được điều đó thì phải là kỹ sư điều khiển tàu biển, phải theo học đại học hàng hải, trong khi tôi lại học khoa quốc tế học trường đại học khoa học xã hội và nhân văn. Quả là một sự thật trớ trêu.

                                           May mắn thay, mấy năm sau tôi đã có đủ điều kiện và tiêu chuẩn của một người đi biển chuyên nghiệp, với bằng cấp và những chứng chỉ quốc tế giúp tôi có thể làm việc trên những con tàu lớn và đến bất kỳ một hải cảng nào trên thế giới. ” Không có mảnh đất nào xa lạ. Chỉ có kẻ lữ hành là người lạ” – Robert Louis Stevenson. Tôi luôn tâm niệm điều đó.

              Có hai bài hát về biển về thủy thủ đã ảnh hưởng rất lớn tới sự trưởng thành và nuôi dưỡng tâm hồn tôi. Ấy là Tâm tình người thủy thủ của nhạc sỹ Hoàng Vân và Xa khơi của nhạc sỹ Nguyễn Tài Tuệ. Có nhiều hải trình đằng đẵng sóng gió và hiểm nguy hay ở những phương trời xa lạ, nỗi cô đơn làm cho tôi thấy mình trở nên bé nhỏ, khi ấy cây guitar luôn mang theo bên mình vỗ về bầu bạn:

“… Nhổ neo ra khơi, anh biết rằng dẫu ở cuối trời
Dù có những hòn đảo thần tiên đầy châu báu
Hay có người thiếu nữ với đôi môi hồng như san hô
Cũng không thể làm anh xa được em yêu
Nhưng em ơi, nếu có chàng trai chưa từng qua sóng gió
Nếu có chàng trai chưa từng vượt qua nhiều thử thách gian lao
Có lẽ nào xứng với tình em.”

Hay có những kỳ nghỉ trở về nhà, biển và vô vàn sắc màu lại dập dềnh trong nỗi nhớ, tôi lại như một người cuồng chân ngứa cẳng, chỉ muốn bật dậy đi ngay, âm hưởng Xa khơicủa Nguyễn Tài Tuệ làm trái tim tôi muốn vỡ:

“Nắng tỏa chiều nay
Chiều tỏa nắng đôi bờ anh ơi
Gió lộng buồm mây ươm chân trời
Biển lặng sóng thuyền em dong khơi
Khoan giọng hò thương anh cách vời
Kìa biển rộng con nục, con măng
Lướt sóng liền đôi bờ tung tăng
Con chuồn còn bay nơi nơi
Con giang chiều gọi bạn đường khơi
Nắng tỏa chiều nay
Thuyền về mái động chiều nay
Nhìn phương Nam con nước vơi đầy thương nhớ
Nhớ thương anh ơi …”

                Duyên nợ với Nghệ An như một thứ tình thân mến thương cứ đeo đẳng vấn vít lấy cuộc đời tôi. Chuyến đi biển quốc tế đầu tiên của tôi xuất phát từ cảng Hải Phòng nhưng lại ghé qua cảng Cửa Lò để tiếp nhiên liệu. Khi tàu rời cảng, rời đất mẹ yêu thương tôi hăm hở như một cánh buồm ngoan gió và tất nhiên hình ảnh tổ tôi trong tâm can dòng tộc lại bừng sáng trở về. Khát vọng ra khơi và giấc mơ của gió…

Cảm xúc cần phải luôn mới mẻ, nếu cảm xúc không tìm đến thì hãy nghĩ cách để gọi mời nó đến. Cuộc sống của một người thủy thủ đã tự vinh danh nó với những cung bậc cảm xúc, đi và đi, đến và đến, tâm hồn bạn như những dòng hải lưu mà hồng cầu nuôi dưỡng nó là khao khát và đam mê. Tôi đã dừng chân ở bao nơi, đã đi qua bao con đường vô danh, ai mà nhớ được chỉ biết rằng tôi là một người giàu có.

                        Biết bao kỷ niệm rối rít hoan hỷ ùa về, băng qua Malacca, buổi chiều réo rắt, đàn cá voi bày tiệc ở Vịnh Bengal, chúng chổng mông nhào lộn rồi phun những cột nước thân thiện lên bầu trời phóng khoáng. Lại nhớ những ngày nhạt mồm nhạt miệng, đi mua rượu ở xứ sở Hồi Giáo len lén lun lút, môi môi giới giới như kẻ tội đồ tìm cái chết trắng ở Việt Nam. Có những buổi dừng chân ở Kemaman, cả thủy thủ đoàn cùng nhau đi săn chó hoang, lên núi đào giềng dại hái lá mơ hoang mang về bày biện quốc túy quốc hồn.

Sau này trong những chập chờn mộng mị yêu thương, con giang chiều gọi bạn, con nục con măng tung tăng, tôi lại thấy mình đè sóng cưỡi gió lướt đi trong thủy triều đỏ.Cánh buồm của tổ tông lại vẫy gọi, tôi nghênh ngang nổi chìm, tôi săn đuổi mặt trời, tôi tìm kiếm hải đăng, tôi lặn lội vào gió, vào sóng, vào những đam mê đời mình. Tôi mải miết đi tìm giấc mơ của gió, một đời tôi, nhiều đời ai. Tôi vươn vai hát lời của sóng một đời tôi vạn đời ai. Tôi thênh thang đi tìm khát khao của biển để nghe gió thầm thì ngày mai.

Người đàn bà say trăng

              Trăng còn non chiều, đêm chưa trở dạ, gió thổi cầm canh, biển chòng chành màu mắt. Vinh như cây đèn biển cổ thành dắt dìu những đứa con ngoan khơi xa tấp bờ cập nhà. Còn cô cũng tên Vinh đến và ở lại thành phố này như một người đàn bà say trăng.

Chỉ ở biển người ta mới tường tận thời khắc giao ca nhịp nhàng giữa ngày và đêm, còn trăng là thứ báu vật dành tặng những tâm hồn ngưỡng vọng ánh sáng. Đàn bà mà không say trăng là thứ đàn bà hư hỏng. Bởi vậy mà Nam Cao đã bạo tay ném sự hư hỏng của Thị Nở vào một đêm trăng cuộc đời, không thế sao Thị trở thành đàn bà, Thị trở thành cái đẹp. Không thế Thị muôn đời chẳng được viết hoa. Thị trở thành phù sa đàn bà

                        Vinh dấn thân vào cát mềm, trăng như một tấm đậu non mịn màng, người ta không nỡ cắn mà chỉ đành lướt qua trên bờ môi để xem kẻ nào mềm hơn kẻ nào. Cô mỉm một nụ cười hại não vì nghĩ trăng vẫn đang đi theo mình, như đã từng đi theo những triền đê, đi theo dòng sông Diêm cửa biển thiếu thời.  Nơi mà cô đứng từ làng mình mỗi đêm và tự nhủ nó chính là một quầng sáng phù hoa.

Trăng trong veo. Trăng khỏa thân lõa luề dưới nước rồi chẳng phải bẽn lẽn cứ thế mà tràn lên mặt biển rồi bước nhẹ lên khoảng không nín thở thế gian. Đời trăng đã vốn đẹp từ khi cô còn chưa hiểu mình là ai. Có lẽ trăng đã trốn ra từ vùng sáng tạo của một gã họa sỹ gàn dở, cả đời bất mãn vì không pha nổi màu trăng. Giống như cô đến bây giờ vẫn còn hay tự hỏi sau những tinh tú lấp lánh trên kia là gì, đi mãi thì đến đâu hay cũng chỉ là nhiệm màu cổ tích.

Đã ngỡ đời mình là ngọn sóng rong chơi
Là lang bạt một cánh buồm mê mải
Mà ánh mắt, trên biển đêm hoang dại
Lại neo ta thảng thốt bến bờ này

Xác thuyền nào thăm thẳm giữa trùng khơi
Kể câu chuyện về tình yêu bất tử
Con ốc nào âm u lời lữ thứ
Trăng rắc tràn khát – nhớ những đôi môi

Trăng chói ngời xưa cũ của tôi ơi!

Người đàn bà say trăng, say những chói ngời, say những xưa cũ để lòng dạ bớt hẹp hòi bản ngã. Cô đặt lữ thứ xuống đôi chân mình, một nỗi cô đơn hãnh tiến, nỗi cô đơn muốn dẹp bỏ những thói đời những khuôn khổ tối bưng chật hẹp. Ánh trăng đôi khi làm con người ta thèm nổi loạn. Nhưng đó là sự nổi loạn của ánh sáng. Nếu như trăng núi man dại đến rùng mình khiến bầy sói hoang tru lên thanh vắng thì trăng biển lại suồng sã đến quê mùa khiến con giang chiều phải ấm lòng gọi bạn đường khơi.

                Người đàn bà say trăng, tự chất vấn cảm xúc, chỉ có sóng, dẫu đã bạc đầu vẫn còn nông nổi. Nên biển, dài rộng thế vẫn chả khi nào lặng yên. Cô ném một con dã tràng vào lòng biển, khi chúng chưa kịp xe cát vì không muốn đứng trông những thành quả bị sóng dập vùi. Cô muốn nói: Dã tràng, mày cũng ngu ngốc lắm. Nhưng biết đâu, con dã tràng nhỏ bé cô tưởng chừng đáng thương tội nghiệp đó lại đang thầm mai mỉa cái ngu dại của cô.

Cô muốn bơi vào dòng trăng kia, muốn thử một lần chảy vào thứ ánh sáng ấy vĩnh hằng bởi khác xa lắm những khi đi về dưới vòm khuya sương lạnh, có cảm giác như nỗi buồn treo mình như những cánh dơi đêm. Có thể im lìm, cũng có đôi khi quẫy đạp, nhưng rồi sau đó lại rơi thăm thẳm vào bóng đen đặc quánh, bí hiểm. Nên đàn bà không say trăng cũng đáng sợ và hồ nghi bí hiểm như cánh dơi chùng đập tối vào đêm.

Cô cứ đi theo triền cát, theo triền gió, theo bờ trăng xóa nhòa ranh giới hư thực đảo điên, quẫy động trong giấc mơ, quẫy động trong ký ức, là những mảng màu như thế. Là cuộc sống chậm trôi như thế. Như chưa từng có bão gió nào qua. Cứ như thế rồi khuất chìm…

                Nhưng thế nào, rồi trên bãi biển mặn ánh vàng kia, trong những ô cửa sáng đèn kia, lại chẳng có những nụ hôn, lại chẳng có tình yêu, lại chẳng có hạnh phúc hay khổ đau, dằn vặt? Thứ ánh sáng tưởng chừng có thể bỏ vào miệng kia rồi chảy khắp hồng cầu có làm người ta say, người ta ngất ngây, người ta lại muốn là một gã họa sỹ gàn dở nghiêng cây cọ mà khua lên trời đóng khung một chữ Đẹp.

      Không hiểu sao chốn này khiến cô thấy mến yêu, gần gũi. Có lẽ vì nó giống với một bờ đầm trong ký ức, nhất là khi chiều tím đã buông, và ánh đêm dần xuống. Cô cứ hy vọng sẽ nhìn thấy chúng, những ngọn đèn chai thắp trong những con đó, dải đăng…mà ánh sáng của nó lan ra mặt sóng. Giống và gần gũi lắm với những ngọn đèn cô đã nhìn thấy trên con sông Diêm của mình, ao đầm tuổi thơ mình…

                 Ánh trăng thực tình chẳng bao giờ lừa dối, một tâm hồn đẹp sẽ thấy những dòng trăng ngôn tình, một tâm hồn cạn sẽ thấy bờ trăng hoang vu. Đừng bao giờ đem thứ ánh sáng hào nhoáng vô cảm vô hồn vô thực ra để lừa dụ đàn bà, nhất là những người đàn bà say trăng…

  • Tản văn:    Hồ Huy
  • Thơ:        Thùy Vinh
  • Ảnh:        Thùy Vinh – Thanh Nguyen – Minh Nguyễn
  • Nội dung: Viết về Thùy Vinh

Lời nguyện cầu Bùi Chu

Bùi Chu là tên một giáo phận, cũng là tên một nhà thờ cách làng Nghĩa Xá của tôi không xa. Cùng với Phú Nhai, Bùi Chu là niềm tự hào của tôi mỗi khi dẫn bạn bè về thăm quê nội…

                                 Hơn 100 năm, trầm mặc rêu phong, vẻ cổ kính của nhà thờ Bùi Chu, những vết dấu thời gian mưa nắng chính là giá trị lớn nhất mà tôi cảm thấy ở đây. Vùng quê tôi có bao nhiêu nhà thờ mới lộng lẫy mọc lên, nhưng chỉ có Bùi Chu, rồi Phú Nhai, hay nhà thờ đổ ven biển Hải Lý…, là khiến tôi có cảm giác run run, linh thiêng mỗi khi bước vào, chạm tay trên những bức tường, ngồi trên băng ghế, nhìn những vết rêu, vết nứt, nét chạm trổ và nghe tiếng chuông ngân…

Tôi tin mỗi viên gạch nơi đây là một trầm tích, chứa những linh hồn… Trên gác chuông này, bao nhiêu thời khắc đã qua. Bao nhiêu người gác chuông đã cần mẫn công việc ấy mỗi ngày mỗi đêm, và bao nhiêu người gác chuông đã chết. Trên mỗi băng ghế kia, bao nhiêu người đã quỳ xuống ngước nhìn Thiên Chúa, cảm nhận đến tận cùng phận người mỏng manh, để xin ơn trên che chở…

                                                Có bao đôi lứa đã bước ra từ giáo đường để rồi con cháu họ lại bước vào nhà thờ này trong ngày lễ hôn phối giữa thánh thót tiếng ca đoàn…
Nơi ấy, người ta đã trọn vẹn một niềm tin dâng lên Chúa, gửi gắm tâm hồn mình cho một đấng cao siêu. Cái khát vọng được bày tỏ, đươc hiểu thấu…chính là khi con người quỳ xuống ở đây, trên những viên gạch lát, trên những băng ghế lim đen bóng. Trên thế gian này, khi tuyệt vọng nhất, khi không ai thấu rõ, thì vẫn còn có Chúa!

Bao nhiêu cư dân giáo phận, những xóm đạo trong vùng lớn lên cùng âm thanh của tiếng chuông đổ, cùng tiếng thánh ca cất lên mỗi dịp cuối tuần, hay ngày thánh lễ… Bao nhiêu người giản dị, bình tâm đã sống cuộc đời an lạc trong niềm tin ấy. Và ngôi nhà thờ đã nghiêng bóng xuống phận đời họ- mỗi con người nơi đây- một máu thịt thiêng liêng.

Có lẽ vì thế chăng, mà mỗi viên gạch nơi đây đã cất lên tiếng nói khi cái tin nhà thờ sẽ phải hạ giải? Và may mắn thay, quê tôi vẫn sẽ còn một ngôi nhà thờ hơn trăm tuổi đủng đỉnh tiếng chuông đếm nhịp thời gian… (Phạm Thùy Vinh)

Tôi không có cái may mắn của Phạm Thùy Vinh. Quê nội tôi không có một Bùi Chucàng không có những hồi chuông ngân Chúa về cứu rỗi linh hồn. Dẫu vậy cuộc đời nơi tôi cứ mải miết đi qua những tòa thánh trên bước  giáo đường chiều không em. Kể cũng lạ, tôi luôn bị ám ảnh bởi những tòa tháp nghiêng hỏi trời, những đoạn chuông bay hỏi đất và bàn tay Chúa hỏi khắp thế gian… Có những khuya vắng trên lối dắt tôi về nhà, đôi khi tôi trong veo tan chảy vào những bồi âm xứ đạo.

Tháng 12 năm 1998 về quê một người bạn chơi, tôi hăm hở mang theo một chiếc Zenit để ghi lại hình ảnh một nhà thờ mà bấy lâu tọa lạc trong tâm hồn như một niềm ngưỡng vọng. Bùi Chu phong rêu cổ kính và yên lòng như một lời nguyện cầu.

Nhà thờ Bùi Chu được xây dựng theo phong cách kiến trúc Baroque dưới thời Pháp thuộc bởi giám mục Wenceslao Onate Thuận (1884) người Tây Ban Nha với chiều dài 78m, rộng 22m, cao 15m, hai tháp chuông cao 35m. Nhà thờ có chiếc đồng hồ cổ kính, sản xuất đơn chiếc theo đơn đặt hàng ở Pháp từ năm 1922. Máy đồng hồ có kích thước 1,2m x 0,7m, hoạt động theo nguyên tắc sử dụng thế năng. Ðồng hồ dùng ba quả tạ bằng kim loại, mỗi quả chừng 50 kg.

                                            Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu là một trong những nhà thờ cổ kính nhất ở các tỉnh phía Bắc, có lịch sử tương đương Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn (ra đời năm 1880) và Nhà thờ Lớn Hà Nội (ra đời năm 1886). Đây là nơi lưu dấu ấn lịch sử truyền giáo, giao thoa văn hóa Đông – Tây ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ, là công trình có giá trị đặc biệt về phương diện lịch sử, văn hóa, nghệ thuật kiến trúc.

Trải qua hơn 100 năm, ngôi nhà thờ này vẫn đứng vững với những cột gỗ lim và những đường nét hoa văn mang dấu ấn kiến trúc phương Tây. Hàng năm vào ngày 8 tháng 8, ngày lễ quan thầy của giáo phận, có nhiều giáo dân tập trung về dâng lễ. (wikipedia)

               Buổi ấy, tôi đứng trước Chúa với trái tim của chàng trai chưa tròn 20 tuổi, cái bóng của Chúa thêm hồn cốt của Bùi Chu đổ vào bóng tôi mà bay bổng mấy giọt chuông ngân. Thánh đường Bùi Chu như một cuộc đời hay ngàn vạn cuộc đời, rêu phong Bùi Chu như một bài thánh ca kể về những phận giáo dân thăng trầm dòng trong dòng đục, dòng đầy dòng vơi, dòng sáng dòng tối, nhưng hơn tất thảy là những tâm hồn hướng về cái đẹp. Yêu thương vẫy gọi thiên thần.

                                     Lạ kỳ thay những tháp chuông ngân, run rẩy thay những mái vòm cũ kỹ, thời gian xô đẩy những mái ngói Bùi Chu lớp lớp xếp chồng lên nhau, xếp chồng lên những ký ức bốn mùa, xếp chồng lên những buổi chiều nguyện. Ai đó ngang qua Bùi Chu, ai đó ở lại Bùi Chu, ai đó đã đặt bàn tay của Chúa lên trái tim mình, còn tôi hơn hai mươi năm sau lặng lẽ Lời nguyện cầu Bùi chu. (Hồ Huy)

Cơm nắm muối vừng

     Giá có thể trốn phố về quê, tựa lưng vào những thành quách cũ, là gió rách dậu tre phên nứa, là bão bùng chớp bể chiều hôm. Ơi bà ơi, lại cơm nắm muối vừng…

Bạn đã ăn mù tạt bao giờ chưa, quết thật nhiều, bằng đầu ngón tay á, rồi đừng pha xì dầu, cứ để nguyên chất thế mà đè ra bằng đầu lưỡi, di lên vòm ếch. Nào bạn thấy gì? Cái hương cải hăng nồng sục sạo vào khoang miệng, đánh sập mắt sập mũi rồi thốc lên đỉnh não. Nước mắt giàn giụa, đừng có nhắm mắt lại mà hãy trừng trừng mắt ra, nếu không bạn sẽ đâm đầu vào tường.

Tôi đã nhớ bà tôi bằng những cảnh tượng như vậy, có khác chăng là những dòng cảm xúc đi ngược từ não xuống để vỡ đê mắt và lụt lội bờ môi.

                 Mỗi năm cứ vào cuối tháng sáu đầu tháng bảy khi những cơn bão di cư từ vùng bình yên đến xứ sở hoang tàn. Khi nghe tin bão sắp về bà tôi lại rục rịch thổi lửa, rang lạc chao vừng, bắc nồi đổ gạo mà chuẩn bị cho thứ lương thực dự phòng ngày bão.

Những ngày ấy tôi còn bé lắm, bé như con kiến càng loanh quanh bò xó bếp, bé như bộ tam cúc xòe ra mỗi khi trưa, bé như hòn than hồng trong bếp lửa của bà mỗi khi nhặt dành dụm mùa đông lạnh lẽo.

                      Những bình minh chớm hạ ông tôi thường thức dậy sớm, sớm hơn cả con vạc đi ăn sương về, cùng với những người cao tuổi ra đầu bến mà nhìn về hừng đông chân trời, ông nhìn gì tôi chẳng rõ, chỉ biết ông sẽ mang về cho bà tôi câu trả lời: năm ấy có bao nhiêu cơn bão.

Tài! Sau này tôi học cao, nhìn rộng, cái trường mà người ta gọi là dạy cho chúng tôi: trên thông thiên văn, dưới tường địa lý cũng chẳng làm nổi điều hãi hùng như vậy. Thời của chúng tôi, thanh niên mới võ vẽ một chút đã nghĩ mình tài lắm, giỏi lắm nhưng có biết đâu: tầm nhìn xa chỉ từ nhà xuống bếp…

Trẻ con chúng tôi hồi ấy thích bão vô cùng. Đêm nằm trong nhà nghe gió hú gió giật, gió đổ, gió vật vật vã vã ngoài hiên. Sớm dậy, bão tan, nào bòng nào bưởi nào cam nào ổi cứ tan hoang ngõ xóm. Lũ chúng tôi ăn những trái bưởi non đắng ngòm vào miệng mà không biết người lớn lại đắng ngòm từ trong ruột đắng ra.

Bão ư? Bão là một đứa đồng lõa để tôi có những sở thích khác người. Bão ư? Đừng nói với ai nhé, đây là bí mật của tao với mày. Tao lại được ăn cơm nắm muối vừng bà cho. Mày là bão hả bão, mày về đi tao lại rỏ dãi cơm nắm tao lại nuốt nước miếng muối vừng.Thứ cơm trắng gạo dẻo bà tôi nấu, thứ nước mưa trút bể bà tôi trong, thứ lạc rang tới lửa ủ giấy báo bà tôi dập, thứ hạt vừng béo béo ngậy ngậy bà tôi rang sẩy.

                   Chẳng ở đâu có cái kiểu xắt cơm thành miếng tròn tròn như cái bánh, chẳng xứ sở nào có cái vùn vụn muối trắng lạc vừng thấm lên môi. Chấm một nhát, cắn một nhát, thứ cơm nắm nén chặt, dền dền hạt gạo cứ đặc quánh mút chặt lấy hai hàm răng làm tôi cười dai dẳng. Cơm nắm muối vừng ơi, mày cũng chỉ như một mối thâm cừu.

Bà tôi bảo: món cơm nắm muối vừng từ thời xa xưa đã đi vào lịch sử dân tộc và trở thành thứ lương thực quan trọng trong những chặng đường hành quân dài gian khổ trong đó có bác Bình tôi, người đã ngã xuống cho nền độc lập của tổ quốc này, của quê hương này của gác bếp hiên nhà này. Chỉ là giản đơn vậy mà món ăn dân dã ấy đã là hố sâu tâm hồn dân tộc để mỗi người con xa quê chôn vùi những khắc khoải quốc túy quốc hồn.

Giá có thể trốn phố về quê,
Tựa lưng vào những thành quách cũ,
Là gió rách dậu tre phên nứa,
Là bão bùng chớp bể chiều hôm.
Ơi bà ơi, lại cơm nắm muối vừng…

Một chiều mưa Hà Nội tại số 13 phố Ngô Văn Sở lạnh căm rả rích những giọt buồn đến từ trống hoác tiêu sơ. Không có bão biển như thời trẻ trâu quê nhà, chỉ có bão từ lòng phố, từ những phồn hoa mà cuộc đời đã quẳng tôi vào bươn bả. Mấy cô cháu chúng tôi dọn dẹp chuẩn bị đóng cửa hàng vì ngày mưa ế ẩm. Bất chợt cô tôi bảo: Hui ơi Hui Ngố ơi Ngố có thưởng thức quà quê cơm nắm muối vừng không? Tôi mỉm cười thay cho câu trả lời.

                Cô tôi gọi một chị bán hàng rong vào và mua dăm ba suất muối vừng cơm nắm. Chỉ mới nhìn chị hàng rong trải tấm lá chuối ra rồi xắt cơm rắc vừng mà tôi đã long lanh khóe mắt. Tôi quay mặt đi không muốn để cô tôi và mấy đứa nhân viên cửa hàng biết mình mít ướt.

Cắn một nhát, chấm một nhát, lại cắn một nhát và chấm một nhát, tôi như kẻ đang đu dây điện làm xiếc, tôi chẳng nhớ mình là ai, tôi hấp hối để cho thứ ký ức trong veo được hồi sinh tái hiện khoảnh khắc này. Người ta làm muối vừng lạt quá, dân thành phố không ăn mặn đái khai như người quê nhà, hay là tại nước mắt tôi mặn đã xô đẩy cái vị vừng lạc béo ngậy ra khỏi miệng.

Điều mà tôi cảm nhận rõ rệt nhất lúc ấy là hình ảnh bà tôi, khom lưng bên bếp nhào nặn thứ cơm gạo trắng ngần mà gói, mà bọc, mà ủ những tinh túy hồn quê. Hình như có cả tiếng gầm gừ của cơn bão biển khi nào? Năm ấy tôi vừa tròn hai mươi.

           Bà tôi mất lâu rồi. Tôi mất đi một thứ thành quách để mà nương dựa. Bà tôi đi lâu rồi. Tôi mất đi bập bùng bếp lửa chiều hôm.Bà tôi vắng lâu rồi. Tôi mất đi trăm thứ quà quê quốc hồn quốc túy.

Ngẫm lại, ở đời có những thứ nhỏ bé vô cùng nhưng nó lại như những mạch nguồn sâu thẳm mà nuôi dưỡng hun đúc con người ta. Giống như cơm nắm muối vừng của bà tôi đâu có phải là thứ thực phẩm hàng ngày nuôi tôi khôn lớn, năm thì mười họa mới ăn một lần, chỉ xem đó như một thứ quà quê bình dị. Vậy nhưng cơm nắm muối vừng từ bàn tay của người bà đã là một thứ thảo thơm tâm hồn.

Lớn lên và lớn lên, tôi đi suốt chiều dài đất nước, đi qua những thành phố lung linh ánh đèn, chẳng ở đâu và ở đâu kiếm được một miếng cơm nắm muối vừng đủ vị và ngọt ngào như miếng cơm nắm muối vừng của bà tôi năm nào. Những điều đã ăn sâu vào máu đã trở thành cốt cách con người. Hơn nữa cuộc sống bây giờ người ta nghĩ nhiều tới vật chất, giá trị của cuộc sống được đong đo bằng những chuẩn mực khác. Cơm nắm muối vừng chỉ là một thứ vô danh trong suy nghĩ của con trẻ, bởi đã thưa vắng dần những người bà như tôi may mắn từng có.

Lại nhớ mỗi năm, khi những cơn bão đầu mùa lăm le chực về cũng là lúc lòng tôi phên nứa dậu tre. Hình ảnh người bà gần gũi lại hiện về với đầy đủ những yêu thương. Và cơm nắm muối vừng lại thêm những lần ngẩn ngơ bão tố. Có đôi khi tôi lo sợ dạ tôi nghèo, lòng tôi chật, những ký ức con con chẳng còn bến đậu nương nhờ. Có đôi khi tôi buồn bã, thế giới này đã đổi thay, tình người nhỏ bé, hồn quê vạ vật, một thứ cơm nắm muối vừng có đủ cho con người trắc ẩn bao dung.

Lại một mùa bão giông sắp nổi, ở một nơi xa xôi chẳng phải quê nhà, nghe gió mà biết thủy triều lại đang dềnh lên, lòng tôi như những thành quách cũ, cứ mở ra mà đón gió, đón mưa, đón bão, đón những hồn xưa hình cũ, cơm dẻo muối nồng. Và nếu một khi nào đó cánh cửa trong tôi đóng lại để tâm hồn tối bưng, có thể trong đời không còn ai biết cơm nắm muối vừng.

(Kính tặng hương hồn bà)