32.4 C
Hanoi
Thứ Tư, Tháng 7 16, 2025

Đời nến

K ý ức con người là một thứ...

Những ánh trăng quê

N hìn ánh trăng chảy tràn trrên...

Chỗ dựa mang tên ba

Ba tôi có một thói quen lạ....
Trang chủ Blog Trang 65

Người nơi biên giới

“Không còn ghét người cha quá cố, nhưng thằng con vẫn không sao dứt thương mẹ, cái cảnh người đàn bà để nguyên bộ mình ướt sau khi kéo cá dưới ao đãi khách của chồng, bưng tô cơm nguội ăn với muối tiêu.”

     Tụi bạn tôi vẫn nhớ ông già cậu. Chịu chơi hết cỡ. Có bữa tôi đưa mấy thằng bạn đi chơi, tới khúc Láng Gáo thì gặp mưa, ghé nhà cậu đụt. Ai ngờ mới nói ba điều bốn chuyện, ông già cậu đi bắc nồi nước sôi vật con heo nhỏ ra mần, nhậu. Đám bạn tôi bị ổng xây chừng cho xỉn quắc cần câu, chục năm sau vẫn khen gặp đúng dân miền Tây thứ thiệt, nhiệt tình đến mức khách thấy không nỡ ra về”.

     Thằng con hay nghe người ta nhắc tới cha mình, mỗi khi nó trả lời câu hỏi quê xứ ở đâu. Cái tên Láng Gáo vừa nảy khỏi môi thằng nhỏ, họ kêu lên “ờ, khúc đó tôi có biết ông nông dân chơi được lắm”. Chơi được, móc ruột gan ra đãi khách, hết mình, phóng khoáng, hào sảng dễ sợ, những từ ngữ mà người ta mô tả ông già khiến thằng con chóng mặt, đôi khi. Những cái vỗ vai thân tình nó nhận được của lần gặp đầu tiên, đã được người cha nhóm lên đâu từ năm, mười năm trước.

“Mà lúc tụi tôi ngồi ở nhà cậu nhậu, cậu là đứa nào trong đám nhỏ nheo nhóc ở chái sau?”. Ờ, lúc đó mình làm gì, ở đâu, thằng con tự hỏi. Mình chắc đang giành cơm cháy rưới nước mắm với mấy đứa em gái, đang rượt bắt con gà mái đẻ cuối cùng trong bầy để hầm sả đãi khách. Hoặc mình phụ mẹ dọn mấy nhánh chà dưới ao để chài cá trắm cỏ. Cũng có thể mình đang khóc nức nở ngoài vườn, thương con Lá vừa bị giết thịt lúc trưa.

     Lá là con heo bảy tuổi, nhưng chỉ vừa với vòng tay trẻ lên mười của thằng con, khi đó. Con heo đèo đẹt lúc rã bầy không ai rước, mấy đứa nhỏ xin má giữ lại làm thú cưng trong nhà. Lá không chịu lớn, như món quà trời cho đám trẻ nghèo. Lũn đũn quấn theo chân tụi nhỏ, trò nào không có nó thì mất vui. Lúc cần thì êm mượt như búp bê nằm lim dim trên tay con gái, cũng có khi Lá xồng xộc lội càn qua kinh theo đám nhóc bắt chuột đồng. Một bữa tụi nhỏ đi học về, thấy con Lá nằm phơi bất động trên sàn nước, trắng phau như nhồi bằng bông, khoang bụng mở ra trống hoác.

     Nhà có khách. Nhà vẫn thường có khách. Có tới sáu bài báo mà thằng nhỏ còn giữ lại, viết ca ngợi gia đình nó, rằng đi tới miệt này mà không đặt chân đến vườn cò coi như chưa biết Láng Gáo, nhưng đi vườn cò về mà không ghé nhà Hai Võ ở đầu kinh thì không biết nết chơi của dân miền Tây. Hỏi huyện trưởng tên gì không nhiều người biết, nhưng hỏi người chịu chơi nhứt xứ này, cả xóm đều nói “Hai Võ chớ ai”. Nông dân, học không tới đâu, cũng chẳng giàu có, nhưng cha thằng nhỏ nổi tiếng vì hiếu khách. Nếu lá dừng vách nhà có thể ăn được, có khi ông dỡ ra đãi thiên hạ luôn. Ăn nói không tệ, ít thôi nhưng lời nào đáng lời ấy, kiểu như bẻ đuôi lươn cho khách, thể nào ông cũng buông câu “nhứt đuôi lươn, nhì cái lườn con em vợ”.

     Bầy trẻ lớn lên, quen với cảnh khách lảng vảng trong nhà. Có khi họ còn ngủ lại vài đêm. Cha tụi nó hay nói “ở đời phải duyên mới gặp, chớ đâu mà dân tuốt ngoài thủ đô cũng ghé chơi”. Hồi đầu tụi nhỏ còn tiếc những thứ ngon bưng mời người dưng, sau sẵn sàng ăn cơm với kho quẹt nhường vịt luộc phay cho khách, như thường.

     Những đồ ăn dư sau buổi họ ra về, tụi nhỏ háo hức vét dĩa bất kể chúng phảng phất thứ rượu đổ tháo khi cụng ly cụng chén. “Khách ăn thì còn…”, câu đó bà mẹ vẫn nhắc đám trẻ hoài, bằng sự nhẹ nhõm của chính bà. Chồng kéo khách về nhà, dù nửa đêm, vợ vẫn vui vẻ đốt lửa nướng cá khô. Chưa bao giờ trong nhà cạn thứ rượu thơm dịu bà tự nấu. Chồng biểu làm gà bà trói gà, kêu làm cá thì te te đi lưới cá. Bữa tụi nhỏ khóc con Lá quá, bà mẹ kêu ra vườn mà khóc, đừng để khách nghe, họ buồn.

     Đó là lần đầu tiên thằng con oán cha, ghét những người khách trong nhà mình. Nó thường bỏ đi mỗi khi có người lạ ghé. Có lần trèo cây me trên đường, người ta hỏi nhà ông Hai Võ, thằng nhỏ chỉ qua bên đình Gáo.

     Mớ danh thiếp khách để lại, người cha tưng tiu đem cất trong tủ áo mỗi năm mỗi dày thêm. Một bữa thằng con tính hốt đem đi đốt. Ngồi coi từng miếng, nhận ra những người từng làm khách nhà nó, họ ở khắp nơi, làm đủ thứ nghề. Lúc đó thằng con đang thất nghiệp, buồn tình gọi vào một số điện thoại hú họa chơi, ngờ đâu đầu dây bên kia hồ hởi, “Ai chớ con của Hai Võ Láng Gáo là tao chịu liền. Công ty đang tuyển lính giao hàng nè, đem hồ sơ tới ngay. Ờ mà, thằng cha mày còn mạnh giỏi?”.

     Ông già đã về đất hồi đầu năm. Đám tang đông người đến tiễn. Ở tỉnh người ta còn gửi mấy vòng hoa tươi xuống, khiến cuộc tiễn đưa thường dân Hai Võ ngang hàng với chủ tịch xã vừa đột tử trước đó. Ai đó làm thơ trật nhịp đọc trước khói nhang, “Anh mở lòng ra với đất trời/Chịu chơi đâu có sợ mưa rơi/Anh đi chỉ tụi này ở lại/Láng Gáo về đây chơi với ai”

      Nhưng ông già vẫn sống theo nghĩa nào đó, thằng con nghĩ vậy. Đó là những lúc nó nhận được cái vỗ vai, cái bắt tay mừng tủi như người thân thiết, nghe họ nhắc “hồi tao tới chơi, ông già mày hồi xưa vét lúa giống đi bán để mua mồi nhậu”. Thằng con thấy mấy chữ “khách ăn thì còn…” không phải không có lý.

Chỉ là, nó không sao quên được bữa cháo gà còn dư đám nhỏ ăn xong xỉn queo vì rượu khách đổ trong ấy, không quên chót đuôi con heo Lá còn phất phơ lông trên sàn nước. Mẹ nó kể lúc bị bắt Lá giãy dữ quá, cây mác vót xớt đứt đuôi. Thằng con không quên cảnh mình ngồi bờ vườn, khóc thôi là khóc.

Không còn ghét người cha quá cố, nhưng thằng con vẫn không sao dứt thương mẹ, cái cảnh người đàn bà để nguyên bộ mình ướt sau khi kéo cá dưới ao đãi khách của chồng, bưng tô cơm nguội ăn với muối tiêu..

Hoa và người Hà Nội

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An…

Ai mà chẳng biết câu ca xưa ca ngợi nét đẹp thanh lịch của người Hà Nội và truyền thống văn hoá ngàn đời của người dân thủ đô. Lại có câu “ Người là hoa của đất…” để nói về hoa  và con người Hà Nội. Mong sao hoa cứ đẹp như người và con người sẽ mãi được tôn vinh cùng hoa.

                         Sau 10 năm sát nhập và mở rộng địa giới của Thủ đô Hà Nội, nét đẹp thanh lịch của người Tràng An và Xứ Đoài có bị pha tạp? Chắc chắn sự lịch lãm và tinh tế sẽ luôn gắn với vẻ đẹp văn hoá cổ xưa và nét đẹp hiện đại của Hà Nội để nét đẹp truyền thống được kế thừa và nâng cao thêm. Vẻ đẹp ấy hội tụ cả sự hào hoa, lãng mạn xưa và nay cùng những giá trị nhân văn ngàn đời của thủ đô. Khi nói tới sự tinh tế, yêu đời và tính nhân văn của người Hà Nội, đặc biệt là những giá trị tinh hoa, thơm tho, tinh tuý và hồn cốt của con người Tràng An và Xứ Đoài ta không thể không nhắc tới vẻ đẹp của hoa.

                                                     Nói đôi lời về hoa và người Hà Nội như vậy để ta hiểu thêm vẻ đẹp và sự tinh tế của mỗi loài hoa. Bạn có bao giờ quan sát kỹ về nét đẹp của từng loại hoa trên phố Hà Nội và hoa trong mỗi căn nhà khi mùa về? Bạn cảm nhận như thế nào về mỗi loại hoa trên phố và nghĩ về thân phận mỗi con người đều gắn bó với nhau và với hoa ra sao? Tôi muốn chia sẻ những suy ngẫm và chút cảm xúc trước vẻ đẹp của hoa trong ngày xuân này.

Không chỉ khoe sắc thắm trong những khu vườn tít xa tận ngoại ô, nơi Hà Tây, Xứ Đoài, hay tận Sóc Sơn…Mỗi loài hoa trên phố Hà Nội cũng rất đẹp. Chúng mang theo hơi thở của mùa và lặng lẽ làm duyên làm dáng cho thành phố trở nên bớt căng thẳng ngột ngạt và dường như bớt đi cả sự ồn ào và bụi bậm. Hoa phượng vĩ đỏ rực, hoa sữa trắng xanh mơ màng, hoa bằng lăng tím mộng mơ, hoa điệp vàng sang trọng, hoa ban đỏ nhớ xuân Tây Bắc, hoa sấu từng chùm nhỏ nhớ tuổi thơ và mùa hè…Mỗi loài hoa gợi nhớ mot sắc màu của yêu thương và hoài niệm.

                      Hoa trên những con phố Thủ đô luôn nở rộ trên những đại lộ, bên khoảnh hiên của những ngôi nhà hay thấp thoáng trên từng ô cửa sổ, thậm chí trên cả những vòm ban công chật chộinhất Mỗi loài hoa đều thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam chúng ta và mỗi người hãy nâng niu, chăm sóc và hãy biết thưởng ngoạn những vẻ đẹp của chúng.

                                                    Hoa trong mỗi căn nhà còn được chăm sóc và nâng niu hơn. Đằng sau vẻ đẹp của mỗi loài hoa, ta thấy như thấp thoáng bóng hình của những người phụ nữ. Người chơi hoa phải biết trân trọng và nâng niu chúng như nâng niu người phụ nữ của mình. Chẳng thế mà nhiều nhà thơ đã dâng đầy cảm hứng trước hoa. Nhà thơ Đàm Khánh Phương là một ví dụ, ông đã có những câu thơ hay để “ Tạ lỗi trước hoa”:

Không chỉ là hương thơm nồng nàn của “Hoa Sữa” dìu dặt trong ca khúc của nhạc sỹ Hồng Đăng, mỗi khi nhắc tới Hà Nội, còn có bao loài hoa khác rất phong phú đủ các sắc màu đang hé nở và rộn ràng báo hiệu mùa đã về trên phố.

                  Đêm Hà Nội trở nên thi vị hơn với bao làn hương quyến rũ mà từng loài hoa vẫn phảng phất tỏa hương trong đêm như hương ngan ngát của dạ lan hay thiết mộc lan… Mùa hè dường như cũng đỡ oi bức hơn.Sau những ngày mưa kéo dài, mùa hè lại về với cái nắng vàng đổ lửa chói chang .

                                                    Từng chùm phượng vĩ đỏ rực cùng tiếng ve ngân như báo hiệu mùa thi cùng những ngày nghỉ hè đang tới. Những hàng Bằng Lăng mới trồng trong nhiều năm gần đây đang phô sắc tím tưng bừng trong tán lá xanh mát. Còn những cây phượng vĩ thì dường như nhiều tuổi hơn và cũng trầm tư hơn với thân hình xù xì mang đậm những dấu vết thời gian.

                               y thế, nhưng khi sắc đỏ của chúng cháy rực trên nền trời cao xanh thì chẳng có loài hoa nào sánh kịp. Có lẽ chúng có tính cách mạnh giống như những phụ nữ tuổi trung niên bởi sự cháy hết mình cho tình yêu chăng? Sự mặn mà của loài hoa rực lửa ấy càng đẹp hơn khi ta nhìn xuyên qua tán lá xanh mỏng manh của phượng vĩ để ngắm bầu trời.

 

Mùa hoa Điệp nở vàng rực từng chùm cũng rất đẹp.Những cây Điệp Vàng được trồng rất nhiều trên các con phố đang dịp được bùng nổ những chùm hoa thật bắt mắt Loài hoa Điệp Vàng dưới nắng hè như đang nở bung lại được thiên nhiên điểm xuyết thêm những dãy nụ xinh xinh màu nâu, hai gam màu tạo thành sự đặc trưng rất đặc biệt. Chúng cứ khoe màu vàng rực và như khắc khỏa cháy hết mình trong nắng. Kìa, bạn hãy nhìn bầu trời mùa hạ trên đầu, có vẻ như cao xanh hơn và từng cụm mây trắng cũng trở nên bồng bềnh hơn.

                                                     Dạo quanh Hồ Gươm ta sẽ thấy những sắc hoa ven hồ với đủ các gam màu bắt mắt như tím, đỏ, vàng, trắng …càng trở nên nổi bật giữa nền trời xanh với bồng bềnh từng cụm mây trắng. Có một người trẻ tuổi đang ngồi thả hồn bên giá vẽ, chắc là sinh viên trường Nghệ thuật hay hội họa nào đó. Thiên nhiên và con người Hà Nội nơi đây chắc chắn sẽ là nguồn cảm hứng cho những bức tranh của anh thêm sống động và thêm phong phú khi phác họa về vùng đất Thủ đô. Hoa và người dường như đang rực rỡ trong nắng chiều.

Ngắm hoa để nghĩ về người. Hà Nội thiếu hoa dù chỉ một ngày cũng là tẻ nhạt. Hoa cũng có số phận riêng và mang hồn của chúng đến với muôn loài xung quanh. Nếu bạn lặng im ngắm nghía và trân trọng từng vẻ đẹp của chúng, bạn sẽ thấy mỗi loại có hình dáng, màu sắc, hương vị và tính cách của chúng rất khác nhau.

Chúng đều có thân phận và sự hấp dẫn riêng trong vũ trụ này sau những dâng  hiến hết mình, thậm chí  ngay cả từng bông hoa dại mà bạn hờ hững bước qua. Thử nghĩ xem, cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên khô cứng, nhạt nhẽo, buồn tẻ nếu thiếu vắng các loài hoa hay thậm chí chỉ là vài bông hoa cỏ.

                                     Có thể bạn sẽ nghĩ rằng tôi nói quá lên chăng hay sẽ cười nhạo tôi vì sự quá mơ mộng ở thời buổi kinh tế thị trường với nỗi lo cơm áo gạo tiền này. Nhưng ngẫm kỹ lại mà xem, bạn sẽ thấy có lý vì chẳng có nhà ai trong thời buổi này mà trong nhà lại không có ít nhất một cành hoa, chí ít cũng là một bông hoa, như nụ cười thân thương nở trong mỗi nhà….

Tiếc thay những làng hoa Hà Nội có tự bao đời nay đã dần mai một. Còn đâu một làng hoa Ngọc Hà với nghề truyền thống trồng hoa với rực rỡ sắc màu của đào, quất, cúc, hồng mỗi độ xuân về? Ngay cả những làng hoa Nghi Tàm, Nhật Tân cũng đang dần bị thu hẹp và có nguy cơ xóa sổ trong nhịp sống đô thị hóa và những công trình xây dựng cao ngất ngưởng.

                                           Còn đâu những gánh hàng hoa trên vai những người đàn bà dịu dàng và tần tảo vẫn thong dong đi trên hè phố, các chị đâu còn được chở hương sắc bốn mùa của thiên nhiên vào trong nỗi nhớ của những người đi xa Hà Nội như một hình ảnh nên thơ? Nỗi nhớ da diết ấy không chỉ xa xót với những người trồng hoa, mà như cồn lên trong lòng những người yêu hoa và những người thích thưởng hoa như một thú tao nhã rất đặc trưng không thể thiếu của Hà Nội- Tràng An và Xứ Đoài ngày nay.

Thiên nhiên và con người đã tạo ra bao loài hoa đẹp cho đời nhưng tâm hồn người Việt  còn đẹp hơn hoa. Chắc hẳn ai cũng biết câu:“Người là hoa của đất” để nói về vẻ đẹp của con người Việt Nam gắn bó với thiên nhiên và vũ trụ nói chung và gắn với vẻ đẹp của những người phụ nữ nói riêng.

                                                            Mùa về mang theo những loại hoa đặc trưng rất khác nhau được những người bán hoa chở vào trong phố bằng những chiếc xe đạp. Bây giờ hầu như rất ít khi ta thấy lại hình ảnh những chị thôn nữ gánh hàng hoa thong dong trên hè phố Thủ Đô như ngày xa xưa.Nhịp sống đô thị hóa đã làm mất dần những hình ảnh dịu dàng và thơ mộng ấy. Nhu cầu về hoa trong thành phố thì lại tăng lên và hàng loạt những cửa hàng bán hoa tươi gói sẵn được dịp lên ngôi ở khắp nơi trong thành phố.

                   Có lẽ vì mỗi loại hoa đều mang một thông điệp riêng, một vẻ đẹp riêng, một hương sắc riêng và mang cả sự hoài niệm, mong manh nhất cho dù có cả một loài hoa mang tên là Bất Tử. Hoa đẹp đến mấy rồi cũng sẽ lụi tàn, điều đó âu cũng là quy luật vốn có của tạo hóa và vạn vật trên đời. Mong sao người thưởng hoa biết nâng niu và không vùi dập hoa…

                                              Con người khi đứng trước một bông hoa đẹp đều ít nhiều xao động và yêu thích. Ngay cả cái chết cũng đẹp hơn, trang trọng hơn vì có hoa. Rồi thì sẽ đến ngày mà bất cứ ai cũng được viếng thăm phút cuối bằng hoa để giã từ thế gian. Có lẽ hoa cũng như con người, luôn mang vẻ đẹp của sự hiện hữu mà vô thường. Thử hỏi cuộc đời này nếu không có hoa thì cuộc sống sẽ trở nên nhạt nhẽo và cô đơn đến đâu?

Mùa xuân đang về bên thềm nhà. Người bên hoa và hoa bên người. Yêu lắm, tinh tế lắm, hoa và người Hà Nội. Ngoài kia, mỗi loài hoa xinh xinh đang chở mùa về trên phố.

Cái bóng của hoàng hôn

Tôi nhanh nhảu tuổi thơ, như quả na dại khờ ngỡ mình mở mắt. Tôi vắt va đầu hạ, tôi vắt vẻo chừng thu, tôi lập lù đầu đông, tôi mưa giông phố cổ, tôi chậm rãi ba mươi, tôi đi tìm cái bóng của hoàng hôn. Sau những lời thật như đồn. Ba lăm. Bốn mươi…bao nhiêu…

            Có những buổi hoàng hôn Hà Thành. Phố đổ lên hương bằng mùi sấu non. Phảng phất dư vị thanh thanh, mát nhẹ gan ruột, như bàn tay cô gái vuốt lên vòm tóc. Trời chiều đổ vào phố cổ, bóng cột cờ chin đỏ những trái tim yêu thương.

Có những buổi hoàng hôn giữa đường quê vàng rơm rạ. Xứ lúa. Thái Bình. Mái tranh rầu rầu. Khói bếp chao nghiêng bóng mẹ. In hằn lên tường những ngọt bùi thổn thức. Đồng xa. Con trâu trễ nải sáo diều.

            Có những hoàng hôn Hải Phòng bến cảng. Những con tàu rúc còi nhấn nhá luồng khơi. Người công nhân tan tầm, buông tay, đánh rơi mặt trời xuống dòng sông Cấm. Rười rượi phù sa.

Có những hoàng hôn thành Vinh. Phượng Hoàng Trung Đô chau mày núi Quyết. Sông Lam cười hiền giấu nỗi buồn lên gác bếp. Ủ những tiếng gươm khua. Hồn bay phách lạc quân thù.

             Có những hoàng hôn dấu chân không mỏi. Huế, mượn câu Nam Ai Nam Bằng dẫn dắt hương sen ngan ngát đến nẻo thiên đàng. Ngư phủ băng thuyền xé rách mập mờ đầm phá Tam Giang. Một điệu hò thôi mà mỏi gối sương chùng.

Có những hoàng hôn đi qua Hội An. Lòng chật chội tưởng nhớ những hẹp hòi phố lắng. Ánh đèn lồng dìm cả thinh không, vào chút nắng cuối ngày le lói vắng, trên chiếc Chùa Cầu, trên những vó xưa xe ngựa, phố Hoài, phố nhớ thâm u. Lục lạc tứ bề giục khói bay lên, ấp ủ đêm thiền.

Có những buổi đón hoàng hôn Đồng Tháp Mười, mặt trời nín sau những cánh chim, đàn ong vò vè giữ tổ, con cá quẫy đành đạch trong lạch, con sâu ngoe nguẩy trong kèn, hương tràm vật ngã những ánh sáng cuối ngày vào đất. Mê man. Bay lên.

            Lại có những hoàng hôn bầm dập bóng Đồng Văn, cao nguyên đá thở dài, bậm bọe đàn môi, phập phòe khèn Mông. Hoa mơ hoa mận bưng cánh hứng sương, phả vào núi, phả vào gió, phả vào ánh mắt người Mông ánh chiều lẳng lặng. Có cô gái đang nhen lửa trong xó bếp, cười một mình, khúc khích giật tối vào đêm.

Có những hoàng hôn mềm môi Sài Thành. Bia chan chứa bia. Rượu lặc lè rượu. Mặc ánh chiều say khướt. Mặc cơn mưa dông dài. Mặc phố thị hổn hển. Mặc xe ôm, xích lô, tắc xi nói cười. Người người chen chen. Nhà nhà đổ bóng. Đường đường lên đèn. Phố phố êm đềm me bay. Hoàng hôn vui thú mà quên. Chập choạng. Lảnh lót người thương.

            Có những hoàng hôn ngả bóng Vũng Tàu, biển trả về cho người ta con cá nục căng tròn, con tôm he búng nước, con cá mú đỏ lừ màu gấc và xa khơi nhấp nhổm những giếng dầu. Nơi ấy, anh công nhân giàn khoan cay mắt nhớ bờ, gạt làn sương mờ che mắt, che miệng hắt xì hơi. Tay chằm chặp điện thoại dò sóng. Hoàng hôn cạn lời…

Có những hoàng hôn ở Melacka, tôi đi qua những dãy nhà trọ ọp ẹp, một nhóm người Việt vào rừng lấy củi, gác lên bếp vọng khói lam chiều. Quê hương xứ sở run rẩy trong cái nồi rượu cất tạm bằng thứ men nhà. Hoàng hôn ở xứ người, lam lũ, cơ cực, đói khát một miếng tình, lòng người chẳng thể hào sảng bao dung. Bởi vậy mà nhơ nhớp ráng chiều.

                    Lại có những buổi tôi đi qua hoàng hôn xứ Voi, người ngợm bươn dài những dòng sông Bangkok, món ăn cay xè cười xòe mặt trời, vài cô gái Việt dụi mắt quê hương. Hoàng hôn ở đây chẳng thể nào hiểu được tiếng Việt, nên nó lầm lụi lặn xuống làn nước ngờ ngợ Mekong.

Lại có những buổi, cái bóng của hoàng hôn tràn phè trên mặt biển, mặt trời thè lè cái lưỡi xích đạo, tôi băng qua nóng, tôi băng qua nắng, tôi băng qua mồ hôi cơ thể đổ xuống thân xác mùa hè. Làm một anh thủy thủ, thiếu gì những hoàng hôn mẫn cảm, thiếu gì những hoàng hôn mượn xác đoạt hồn.

Lại có những hoàng hôn, khi con người ta đủ lớn, đủ nghĩ, đủ thao thức, đủ mặn nồng, đủ đau thương, đủ những thứ hầm bà làng cuộc đời, người ta nhớ về một hoàng hôn tuổi trẻ, và nghĩ, và tiếc, mà mải miết bới tìm. Hoàng hôn ở đâu? Sắc màu ở đâu? Tình yêu ở đâu? Vụng dại ở đâu? Than thở ở đây?

            Rồi có nhiều những hoàng hôn, chẳng cần phải ở nơi đất khách quê người, có khi ở ngay trong chính căn nhà của mình, ở nơi quê hương mình, ở nơi tổ tiên mình sinh ra lớn lên, người ta trân trối một thứ hoàng hôn bóng mẹ hình cha. Đấy có lẽ là thứ hoàng hôn thương cảm nhất trong cuộc đời trăm ngàn vạn bóng hoàng hôn.

Nhiều ngày, ngày ngày, một ngày, một chiều, tôi nhìn hoàng hôn manh nha trong những làn khói bếp từ nhà ai vươn lên. Thoạt tiên nó màu xám bạc. Không phải, nó là màu tím lam. Cũng không phải, nó là màu trắng đục đùn lên trời thương nhớ. Cứ thế, cứ thế nhá nhem vào cuộc đời tôi, cuộc đời bạn, cuộc đời muôn vạn kiếp người, cái bóng của hoàng hôn.

Cây cầu sắt nhiều tuổi nhất

Đó là cây cầu gắn liền với bao năm tháng lịch sử hào hùng của dân tộc và người dân Hà Nội. Cây cầu ấy  mang cái tên Long Biên còn vang dội như một địa danh lịch sử mãi không quên.

Cầu long Biên là cây cầu sắt  đầu tiên bắc  qua con sông Hồng, từ bến Bồ Đề, Gia Lâm sang phía nội thành Hà Nội. Cây cầu sắt ấy được thiết kế rất đặc biệt, vừa đẹp lại vừa nên thơ như một dấu tích luôn gắn liền với Hà Nội cổ kính và thanh lịch của nghìn năm văn hiến. Đó là cây cầu sắt nhiều tuổi nhất in đậm những dấu ấn lịch sử.

Đến bây giờ mỗi khi có dịp, tôi vẫn thích được tự mình phóng xe máy đi qua để nhìn ngắm sông nước nơi Bãi Giữa. Thả tầm mắt nhìn xuống bãi soi khi mùa về xanh mướt mải với  đầy  bóng lá của cỏ dại và ngô khoai, bạn sẽ thấy  những dải cát nằm thở sóng xoài bên dòng sông vẫn ngầu đỏ phù sa.

Ấy là những giây phút ta thấy thanh bình nhất. Nhưng cây cầu và  dòng sông ấy cũng đã từng ghi dấu bao khói lửa của trận mạc và binh đao tự  thuở xa xưa .Tôi chỉ biết cây cầu ấy từ những năm gần đây, khi nó gắn liền với những kỷ niệm của những năm tháng đang còn tuổi thanh xuân của mình.  Bây giờ mỗi khi qua cầu, tôi lại  bâng  khuâng chút hoài niệm và tiếc nuối về  những ngày xa xưa.

Thành phố đã ngàn năm tuổi và cây cầu Long Biên luôn là biểu tượng không thể tách rời.Cây cầu ấy đã được bắc qua ba thế kỷ của lịch sử dân tộc và vẫn đang tiếp tục cùng dòng thời gian mãi trôi chảy không ngừng.Cầu Long Biên được xây dựng từ thời Pháp thuộc trong suốt  những năm 1899-1902, được gọi tên là cầu Doumer, nhưng người dân Việt thường gọi một cách dân giã là Cầu Sông Cái hoặc Cầu Bồ Đề.

Cầu Long Biên là một địa danh lịch sử mang đậm tính văn hoá của ngưòi dân Hà Nội. Người nước ngoài khi đến thăm Hà Nội đều muốn tìm hiểu về cây cầu lịch sử này.Cây cầu còn là nhân chứng sống động nối liền giữa giữa cuộc sống  nơi đô thị hiện đại của  Hà Nội với bờ bên kia dòng sông Hồng. Đó  là những khu  dân cư đông đúc và cả ngôi chùa Bồ Đề cổ kính với đời sống tâm linh của người dân Hà Nội.

Với thiết kế độc đáo của kiến trúc Pháp, dáng dấp cây cầu khá thanh lịch, đẹp mắt  và ấn tượng. Nghe đâu thời đó người Pháp họ phải tuyển mộ hơn ba nghìn công nhân bản xứ và một đội ngũ kỹ sư, chuyên gia và đốc công người Pháp trực tiếp cai quản và điều hành việc xây dựng.

Cầu Long Biên dài 1682 m bắc qua sông và 896 m cầu dẫn, bao gồm 19 nhịp dầm thép được đặt trên 20 chiếc trụ vững chãi có chiều cao trên 40 m tính cả móng. Cầu được phân thành luồng cho xe cơ giới và đường đi bộ ở  hai bên, còn đường sắt đơn chạy ở giữa.Có lẽ lối thiết kế ấy vẫn còn phù hợp đến bây giờ, mặc dù Hà Nội bây giờ đã có khá nhiều cây cầu hiện đại khác và đẹp nổi tiếng như cầu Thăng Long, cầu Vĩnh Tuy, cầu Chương Dương được bắc qua sông Hồng nhưng tôi vẫn rất thích cây cầu Long Biên cũ kỹ ấy.

Tôi nhớ lại những năm tháng khi còn là sinh viên, chúng tôi đã từng ngồi trên chiếc xe đạp cà tàng  đi qua cầu Long Biên để lên trường học nội trú ở Vĩnh Phúc. Thời ấy được đạp xe đã là hạnh phúc rồi và có đi hàng chục cây số cũng là chuyện bình thường. Nhiều khi chúng tôi phải nhảy xuống tàu ở  cạnh Ga Yên Viên vì toàn sinh viên đi học xa nhà phải trốn vé.

Mặc dù cả lũ chúng tôi  phải phải đi bộ  qua Cầu Long sang nội thành  nhưng ai cũng rất hào hứng và thú vị. Vào thời điểm ấy, cầu Long Biên với chúng tôi đã là  biểu tượng thật hoành tráng của Hà Nội với một cây cầu dài nhất, lớn nhất, đẹp nhất  mà tôi từng được chiêm  ngưỡng.  Lúc ấy chúng tôi cảm thấy chiếc cầu sắt ấy sao lại dài đến thế và con sông Hồng kia sao cũng rộng lớn  thế.

Cho đến bây giờ, cầu Long Biên không còn được như xưa nhưng bạn vẫn có thể ngắm được hình dáng chiếc cầu với mỗi đoạn được uốn lượn nhấp nhô theo từng nhịp và hắt bóng thơ mộng trên sông Hồng. Ngay cả luồng đường phân cách đi trên cầu hồi ấy cũng thấy rất hợp lý thành từng đoạn rộng hẹp khác nhau cho cả người đi bộ và các phương tiện xe cơ giới. Mặc dù luồng đường đi bộ ước chừng khoảng  0,40 m nhưng mọi người vẫn nhường nhịn nhau, không thấy sự chen lấn ồn ào.Có lẽ lưu lượng xe cộ và mật độ giao thông hồi ấy cũng không khủng khiếp như bây giờ và con người cũng hiền hòa hơn chăng?

Nhiều lần đi qua, tôi còn dừng lại đứng trên cầu và trầm ngâm ngắm dòng sông Hồng đang uốn mình và cuộn chảy bên dưới những trụ cầu. Nhìn dòng nước trôi khi lững lờ, lúc hối hả vẫn như mải miết dâng cho đời những mật ngọt phù sa. Dòng chảy lịch sử vẫn cuộn trôi bên chứng nhân cũ kỹ tự xa xưa là cây cầu Long Biên. Bao lớp người đã ra đi từ đây.

Hà Nội ngàn năm còn mang đậm dấu tích Thăng Long xưa  và  “trùng trùng quân đi như sóng” khi  tiến quân vào giải phóng Thủ Đô với những bước chân thần tốc năm nào còn in dấu trên dòng sông lịch sử.  Cây cầu vẫn đứng hiên ngang như một chứng  nhân hào hùng giữa quá khứ, hiện tại và tương lai và nhắc nhở bao thế hệ không được quên những trang sử ấy..

Cầu Long Biên với mười chín nhịp bắc qua sông Hồng không chỉ nối liền giao thông giữa khu ngoại thành Thăng Long với nội thành mà còn là cây cầu hoài niệm nối liền giữa hiện tại với quá khứ của Thủ Đô.Thật đau xót khi cầu Long Biên ngày càng xuống cấp và đang dần bị quên lãng. Cây cầu đó đã đi qua chiều dài lịch sử  của dân tộc và đi qua cuộc đời của bao con người với những thăng trầm buồn vui khác nhau. Không hiểu sao khi nhìn vẻ già nua cũ kỹ  của những nhịp cầu ấy, tôi cứ liên tưởng đến  một ông già đang gù lưng khổ hạnh trước năm tháng để chống chọi với cái chết đang đến gần kề.

Mặc dù thành phố đã có dự án và chủ trương khôi phục lại cầu Long Biên cùng với các nhà kiến trúc người Pháp để tái tạo lại cây cầu như xưa nhưng nghe ra không phải việc dễ dàng. Nếu được như vậy, cầu Long Biên hẳn sẽ là một địa danh lịch sử và du lịch cho du khách và bạn bè quốc tế  được chiêm ngưỡng  vẻ đẹp của chúng khi đến với thủ đô Hà Nội.Cầu Long Biên bây giờ vẫn  đang cố gồng mình trước gió bão và có nguy cơ bị quên lãng nếu không được chúng ta sửa sang và khôi phục. Hãy làm ngay hỡi các nhà chức trách, đừng để cầu Long Biên hấp hối!

Mỗi khi có dịp qua cầu, tôi vẫn có cái thú hoài cổ là được ngắm nghía cây cầu già nua  mặc dầu đã rất cũ kỹ  và bám đầy rỉ sắt cùng năm tháng. Bây giờ cũng ít người còn thích đi qua chiếc cầu này bởi đã có nhiều chiếc cầu khác thay thế đẹp hơn, lớn hơn và hiện đại hơn.Tôi nhìn sang phía Chùa Bồ Đề bên kia sông Hồng mà nghe trong không gian như  phảng phất tiếng chuông chiều cùng những bảng lảng khói sương và  lòng thầm  mong ước một cuộc sống thanh bình cho Hà Nội.

Ngàn năm Thăng Long đã qua với bao chứng nhân lịch sử. Cây cầu Long Biên vẫn khắc khổ đứng đó, dường như ngạo nghễ thách thức với thời gian mặc cho sông nước phù sa sông Hồng vẫn đỏ ngầu và trôi chảy bên đời với bao bước chân qua.

Cây cầu cô đơn

A Đam sông Hồng

Ảnh: Ralph_rybak

Sông Hồng và những câu chuyện thú vị về cuộc sống của những người dân Hà Nội lưu vực sông Hồng và dân cư sống ven con sông này sẽ luôn là những điều bí ẩn mà tôi và nhiều người nặng lòng với Hà Nội thích tìm hiểu và khám phá.

Một trong những cái thú của người dân ven sông Hồng là thú tắm sông. Cái thú tắm sông này đã lan đến cả cư dân Hà Nội hay cả dân ngụ cư sống trong thành phố, đặc biệt là những người đàn ông yêu sông nước.

“A Đam Sông Hồng “ là cách tôi gọi những người đàn ông yêu thích tắm sông và mê đắm sông nước và thứ phù sa mát lịm của sông Hồng. Họ yêuthiên nhiên và luôn muốn được thoải mái trần trụi giao hoà cùng thiên nhiên, để được thả sức vẫy vùng và thoả mãn khao khát tự do cùng bản ngã. Bởi vậy “A Đam và cát mặn” cũng là cái tứ cho một bài thơ về chủ đề sông Hồng của tôi. Bởi các A Đam thích được khoả trần trên cát trước khi xuống nước. Cát mặn là tất nhiên. Cát còn mặn bởi cả máu, mồ hôi và nước mắt bao đời của con người.

Hình ảnh cát và phù sa sẽ đẹp hơn và ám ảnh hơn khi có thêm các A Đam ở đó. Cát và phù sa nâu non của sông Hồng không chỉ mặn mà còn rất mát, rất êm, rất mịn màng và óng ả nữa. Vẻ đẹp ấy lung linh hơn dưới con mắt các thi sỹ khi liên tưởng đến sức sống giữa vũ trụ bao la và sự phồn sinh của con người. Tất nhiên sự liên tưởng ấy sẽ không thể thiếu hình ảnh các thôn nữ mặn mà với làn da nâu non và nụ cười lúng liếng dưới cái nắng nhiệt đới của miền châu thổ sông Hồng.

Các nàng có tắm sông thì cũng luôn phải che giấu dưới bóng tối hay áo quần nên khó mà thành những E Va tự tin như các A Đam sông Hồng. Có thể bạn sẽ cười mà bảo rằng: “ Ôi giời, các nhà thơ chỉ hay vẽ chuyện, cát mặn và phù sa thì dòng sông nào mà chẳng có…”. Đúng là cát và phù sa thì ở đâu cũng có, nhưng cát mặn ở ngay dòng sông mang cái tên đặc trưng là sông Cái và nơi ấy có cây cầu sắt mang tên Long Biên cổ xưa vắt ngang bờ bãi và dòng chảy đỏ ngầu này thì chỉ có một và rất khác đấy, hơn nữa các A Đam sông Hồng ở giữa Thủ Đô, tụ nhau về nơi Bãi Giữa này tắm sông thì vẫn là điều đặc biệt.

Họ là ai? Họ không phải là những đứa trẻ nhỏ cởi truồng tắm sông, mà là những người đàn ông trưởng thành và cũng không còn trẻ, họ thường từ trung niên trở lên  nhưng không quá già. Họ yêu sông Hồng và gắn bó với dòng sông từ nhỏ và đã tụ tập nhiều năm nay ở đó, thành lập Hội “ Những người yêu sông Hồng” đã tìm về nơi Bãi Giữa sông Hồng để vùng vẫy và sung sướng thả mình trước thiên nhiên cùng cây lá trong sự tự do gần như tuyệt đối.

Các “ A Đam sông Hồng” của Hà Nội, thường tụ nhau về nơi Bãi Giữa sông Hồng để tắm sông, để hò hét hay thậm chí để tự do mơ màng hay trầm tư suy ngẫm một mình trước thiên nhiên bờ bãi cùng nắng, gió, cát bụi và phù sa. Những người đàn ông này thường là đang sống ở nội thành, có thể là một  bác xe ôm, hay xích lô phố cổ, một cán bộ hưu trí thích sông nước, cũng có thể là một trí thức, doanh nhân nào đó đang bề bộn công việc ở văn phòng nên muốn tìm về bãi sông này để xả tres, một chàng văn nghệ sỹ có chút tiếng tăm hay một bậc trí giả nào đó, thậm chí là những giai phố cổ khá lạnh lùng và đôi chút có máu tay chơi với lủng lẳng xích vàng trên cổ nữa…

Họ giống nhau ở chỗ luôn háo hức được ra sông như trẻ nhỏ, họ có khát vọng được trở lại thời trẻ con như ngày xưa khi họ từng được tắm truồng cùng chúng bạn và chơi những trò nghịch ngợm của  trẻ con trước dòng sông tuổi thơ của mình. Bởi trong hầu hết mỗi chúng ta, ai cũng mang trong tâm hồn mình một miền quê và dòng sông với hương phù sa nồng nã và miền quê ấy sẽ còn sống mãi trong ký ức tuổi thơ của họ.

Tôi thích hình ảnh những người đàn ông mình trần hiên ngang, trông rất  manly khi họ đang đứng trước dòng sông với bờ vai rắn rỏi và vòm ngực căng phồng hứng gió. Các chàng đứng đó, “hai dải phù sa nâu đổ bóng xuống lưng chàng…”. (Tôi từng viết về họ như vậy trong những câu thơ mang chút ngưỡng mộ và trìu mến của đàn bà). Họ trở nên gần gũi và hoà nhập cùng sông nước và đất đai châu thổ phù sa hơn bao giờ hết. Mùa nước lũ tràn về, những người đàn ông này tỏ ra bình tĩnh trước cơn lũ cuồn cuộn và sự giận dữ của dòng sông.

Khi ấy dòng nước lũ đục ngầu đang dâng lên, làm tràn đầy cả tâm hồn và thân xác họ. Trên đầu là mưa bay và bầu trời bao la ướt đẫm, dưới chân là cát mặn và phù sa sông Hồng. Tôi hay liên tưởng đến vẻ đẹp của những người hùng trong phim ảnh xưa và những câu chuyện truyền thuyết. Chợt nghĩ, hình ảnh này thật thơ mộng và không kém phần tráng lệ khi ta nghĩ tới hào khí Thăng Long xưa hay vẻ đẹp của các chàng trai dũng mãnh như Đam San xưa kia…Tôi đã viết mấy bài thơ về những  “A Đam sông Hồng” trong cảm xúc dạt dào ấy.

Nắng, gió, cát, bùn và phù sa…và sự tự do trở nên thi vị hơn. Thứ “ đặc sản” này chỉ các A Đam sông Hồng mới cảm nhận đầy đủ và họ thưởng thức nó trong niềm hân hoan riêng của mình. Tôi cũng may mắn quen biết vài người bạn trong số đó, họ luôn yêu dòng sông này và luôn nói nhớ sông Hồng mỗi khi đi xa và họ “nghiện “ thứ phù sa nâu mát lạnh ở đó. Có lẽ về bên dòng sông Hồng mang tên con sông Cái này, chính ở nơi này, họ được trở về với mẹ thiên nhiên trong sự gần gũi và thân thương nhất.

Đó là sự vô tư mà trần trụi và dời sống này có những người ta cần được như thế, không có cái gì phải giấu giếm và che đậy, cũng chẳng có gì phải giả tạo và che giấu, sự thật là họ rất hạnh phúc khi có được những giây phút tự do gần như tuyệt đối. Không nên ngăn cản niềm sung sướng của họ. Tôi nghĩ thế bởi tự do là mục tiêu cao cả của con người.

Hà Nội nay không chỉ có duy nhất một bãi tắm tiên ở nơi đó. Bây giờ các A Đam sông Hồng còn kéo nhau lên tận nơi bờ bãi vùng Phú Thượng, quận Tây Hồ nữa. Nơi này gần kề với khu vực Bến Bạc, có phong cảnh sông nước hữu tình và vườn rau non xanh mướt và những rặng táo mới trồng khá đẹp mắt và tươi tốt. Điểm tắm sông này có biển cấm tắm, nhưng các A Đam vẫn lặng lẽ tụ nhau ở đó để thoả mãn khát khao với dòng nước đỏ nặng phù sa của sông Hồng. Nơi này còn thuận tiện cho việc ăn uống, chụp ảnh và gặp gỡ bạn bè vì không gian rộng rãi và thảm cỏ xanh bắt mắt cùng bãi lau sậy nở hoa trắng xoá ở ven sông luôn gợi nhớ ký ức tuổi thơ xa vắng và ngọt ngào.

Các “A Đam sông Hồng “ yêu và đắm mê dòng nước mát lạnh này với thứ hương thơm nồng và vị ngai ngái của phù sa nâu non như một thứ bùa gây nghiện. Họ – những A Đam sông Hồng chủ yếu coi trọng việc tắm sông và thư giãn hơn là việc đến đó để ăn uống. Nơi này, có thể vì lý do ấy mà nhà hàng ẩm thực ở 144 An Dương Vương, Hà Nội là một địa chỉ rộng rãi, khá bắt mắt nằm liền kề ở đó nhưng vẫn cứ vắng vẻ.

Câu chuyện tắm sông của những người đàn ông ở Bãi Giữa Sông Hồng và bãi tắm sông nơi vùng quê Phú Thượng Hà Nội vẫn luôn là những bí ẩn. Nơi ấy, với dòng chảy lúc lững lờ, khi cuộn xiết của sông Hồng, khi miệt mài bồi đắp phù sa cho cả lưu vực châu thổ, đã làm nên những bờ bãi tốt tươi. Bãi sông trù phú và những người đàn ông tắm sông mà tôi trìu mến gọi họ là các “A Đam Sông Hồng” đã làm nên nét chấm phá khác lạ cho dòng sông. Bên cạnh những cây cầu vắt qua sông Hồng ngày càng lớn hơn và đẹp hơn thì con người cũng khác xưa. Dù Hà Nội có thêm bao nhiêu cây cầu mới thì cây cầu Long Biên cũ kỹ và cổ xưa cùng với Bãi Giữa sông Hồng vẫn đẹp mãi trong ký ức của những người yêu Hà Nội.

Tôi yêu dòng chảy của những con sông, đặc biệt yêu thứ cát mặn và phù sa nâu non của sông Hồng và vẫn muốn lưu giữ mãi hình ảnh các A Đam sông Hồng như một vẻ đẹp riêng có của Hà Nội. Có thể tôi thuộc tuýp người lãng mạn nhưng thử hỏi rằng tại sao bạn không tìm cho mình vài điều thú vị mang tính “phát hiện “ khi những vẻ đẹp bình dị và mới lạ ở kề ngay cạnh chúng ta nhưng ít người quan tâm hoặc  nhìn nhận nó như một sự khác thường.

Nếu bạn coi đó là một sự điên rồ thì cũng không sao cả. Tôi nghĩ, trong cuộc sống bức bối này, thật cần biết bao những con người yêu quê hương đất nước, yêu thiên nhiên sông nước và châu thổ phù sa. Khát vọng tự do của con người là điều đáng được tôn trọng. Họ thực sự là những người rất yêu Hà Nội, yêu sông Hồngvà khao khát tự do.

Bởi tôi nghĩ rằng những cư dân Hà Nội, không chỉ mang cốt cách thanh lịch, chút kiêu bạc của người Tràng An mà sẽ còn muốn được lưu dấu hình ảnh gần gũi rất đời thường của họ- những người đàn ông nơi phố phường thủ đô về sự yêu thương, gắn bó với dòng sông, với thiên nhiên và khát vọng tự do. Những người đàn ông không còn trẻ nhưng không chịu già hơn và đam mê một dòng chảy trong tâm hồn, tự do trước mênh mang châu thổ phù sa và dòng sông lịch sử luôn cuộn đỏ phù sa của một thời.

Du hành xứ Huế bằng thơ Khơi nhạc Hồ

               Tôi đã đến Huế như bóng chim, như tăm cá và như những sân ga biền biệt mưa chiều. Còn Khơi đến Huế bằng ảo vọng thơ ca, được Hồ dung dị thêm đôi cánh âm nhạc. “Vần thơ gửi Huế” bắt đầu từ đó.

Dù lăn lê phiêu bạt cuối trời đầu bể nhưng tôi thấy chưa ở đâu  quyến rũ với vẻ hiền hòa, thanh bình đầy lãng mạn như mảnh đất này. Ấy vậy mà tôi chưa viết nổi một bài về Huế. Thế nhưng một người tàn tật cả đời xe lăn chốn quê vàng rơm rạ lại có thể du hành đến xứ Thần Kinh bằng một bài thơ ngọt ngào. Tôi gọi đó là ảo vọng thi ca Đỗ Trọng Khơi.

Nghe điệu hò là nhớ
Dù chưa một lần thăm
Ơi miền quê đến lạ
Tình như tự trăm năm

Thơ Khơi vốn không phải là phong cách bình dân. Ngôn ngữ của ông được nhào nặn nổi chìm đau đáu trong cõi hư miền mộng vô hình trung mang theo những triết lý nhân sinh ám ảnh con người.

            Không hiểu sao Vần thơ gửi Huế lại mộc mạc giản dị đến vậy, nó như một lời tự sự được viết ra cho chính bản thân mình. Có lẽ điều đó đã giúp nhạc sỹ Hồ Thùy phổ nhạc rất thành công bài thơ này bởi nhạc của Hồ vốn là hơi thở bình dị âm hưởng dân ca trữ tình sâu lắng miền châu thổ.

Đặt chân lên đất Huế tôi đã cảm thấy rất ấn tượng không chỉ vì vẻ đẹp của những thắng cảnh thiên nhiên sông Hương, núi Ngự, sự cổ kính của những đền đài, lăng tẩm…Tôi còn bị cuốn hút bởi con người Huế với tính cách dịu dàng, dễ thương pha lẫn sự kín đáo e ấp, với giọng nói “dạ, thưa” đến say lòng.

Nhưng tôi đã say như người ta say rượu cần khi nghe bài hát Vần thơ gửi Huế khi lần đầu phát trên sóng của đài Tiếng Nói Việt Nam qua sự thể hiện của ca sỹ Minh Huyền.

   Hồn tôi nhịp cầu lỡ
Mơ Tràng Tiền nối sang
Thời gian tôi ly rượu
Rót từ dòng Hương Giang

Huế nổi tiếng với vẻ đẹp đượm buồn và ấn tượng. Điều đó càng sâu lắng khi bạn đón hoàng hôn trên Phá Tam Giang, cách thành phố Huế khoảng 15 km. Cái cảm giác thật nhỏ bé, vui sướng khi ngồi thuyền dạo chơi giữa sóng nước mênh mông, thỉnh thoảng đón những cơn gió mát lạnh ào tới. Phá Tam Giang là phóng khoáng bụi hồ, có thể đứng ngoảnh mặt lên trời mà cười, vin hai tay chống sào mà hiền, quên đôi chân đạp nước mà đi. Tam Giang phá cách như một nét sổ dài trong bức thư họa mặc trầm cố đô, thương lạ thương lùng trời Nam ngàn thủa.

            Để rồi theo ánh nắng chiều buông dần phía chân trời, đôi mắt lữ thứ choáng ngợp trước bóng đầm phủ một màu tím sẫm. Chính màu tím chiều hoàng hôn hiếm hoi ấy đã khơi nguồn cảm hứng cho những sáng tác thơ, ca, nhạc, họa, nhiếp ảnh và để lại trong lòng kẻ đến người đi một nỗi nhớ da diết, khôn nguôi.

Du hành xứ Huế bằng thơ Khơi nhạc Hồ, một thủa cố đô thâm u kín cổng cao tường như thiếu nữ khuê son lầu vắng và ngỡ mình trên Phá Tam Giang mở nắng đón gió phô trương khí khái đầm phá muôn trùng. Có lúc Tam Giang như một người con gái tắm phải dòng nước lợ mà da thịt nhan nhát phù du. Có lúc Tam Giang lại như người đàn ông đi hỏi vợ nhiệt thành đến quê mùa quá lố, oang ổng cái mồm, thở nắng phả gió, vỗ nước táp sóng mà yêu mà thương. Bước qua vẻ mặc trầm đài các vốn có của Huế.

Tôi đã từng trò chuyện nhiều lần với nhà thơ Đỗ Trọng Khơi mỗi dịp mình đi xa về. Ông nằm trên chiếc giường nhỏ, tứ bề là sách. Khi thì trà, khi thì rượu, khi thì một vài bài thơ, khi thì một quẻ Kinh Dịch. Nhà thơ thường hay hỏi tôi về những miền đất mà tôi từng đi qua. Và tôi biết trong lòng ông là một khát vọng trải nghiệm, khát vọng được đi, khát vọng được tan chảy vào câu Nam Ai Nam Bằng. Bởi vậy mà trong ” Vần thơ gửi Huế ” có gì đó như rụt rè, khẽ khàng và hơn tất thảy là một tình thương yêu dâng tràn. Nó cũng giống như tình yêu đầu của một người nghệ sỹ, chẳng nỡ vồ vập nhưng thẳm sâu và thẳm sâu.

Thật quá đỗi ngạc nhiên khi nhà thơ Đỗ Trọng Khơi chưa một lần đến Huế mà lại có những cảm xúc gan ruột như vậy. Có lẽ đó là chốn vô cùng của thi ca.

Quả thật, ai đã từng đến Huế, đều đọng lại trong tim vẻ đẹp trầm mặc của Huế, giọng nói sâu lắng đến lạ kỳ của người dân Huế. Huế nhẹ nhàng, duyên dáng nên thơ, không ồn ào xô bồ, vội vã tấp nập như những nơi tôi đã từng đi qua. Đặc biệt phố cổ ở Huế trang nghiêm và quí phái, như thấy đâu đây còn phảng phất ngựa xe âm tướng hồn binh…

           Biết bao thi nhân đã miêu tả Huế bằng ngòi bút ngọc ngà và những lời văn yêu kiều, diễm lệ… Nhưng đến với Huế bằng thơ Khơi và nhạc Hồ là một chuyến du hành sâu lắng nhất mà tôi từng trải nghiệm.

Huế ơi nặng lòng nhớ
Sớm chiều tôi Đông Ba
Ngóng bước người Vĩ Dạ
Tình ai về thiết tha…

Mỗi lần nghe lại bài hát này lòng tôi lại chộn rộn cảm xúc, không phải bởi Khơi là một ông chú và Hồ là một người cha mà bởi thơ và nhạc đang vi vu trong tâm tưởng. Thiết tha, thiết tha…

Thương nhớ sông Hồng

Mãi sau này, tuy không còn ở đó nữa, mỗi lần có dịp đi qua cầu Long Biên, tôi đều muốn nấn ná dừng lại ngắm nhìn dòng sông và những cây cầu. Thương nhớ sông Hồng.

Rất nhiều người gắn bó và yêu quý con sông Hồng ngay từ khi còn nhỏ. Tôi cũng vậy. Sông Hồng đẹp mềm mại như một dải lụa đào vắt ngang cầu Cốc Lếu, nơi ấy lòng sông nhỏ bé giao hoà với dòng Nậm Thi chảy từ Trung Quốc sang và chảy xiết lắm. Tuy thế ở nơi giao hoà biên giới hai nước, sông Hồng vẫn cứ mãi chảy thành hai vệt nước có hai màu rõ ràng. Màu đỏ và màu xanh dù chung một dòng, màu tạo hoá hình thành nhưng không hề pha trộn. Những ai từng sống ở Lào Cai đều biết rõ điều đó như một vẻ đẹp kỳ vĩ mà thiên nhiên ban tặng và coi đó như một sự tất nhiên.

Sinh ra và lớn lên nơi đầu nguồn con sông Hồng chảy vào đất Việt tận biên ải Lào Cai từ những ngày gian khó, tôi và rất nhiều thế hệ các bác, các anh chị em ở Lào Cai đã được lớn lên bên dòng sông này và có những ký ức đẹp đẽ và đau buồn mà mãi mãi vẫn không thể quên. Bao nhiêu nhà văn, nhà thơ, nghệ sỹ tài năng đã trưởng thành từ dòng sông này và hầu hết họ từng là cựu các thầy cô giáo đáng kính đã làm nên tên tuổi như Ma Văn Kháng, Mã A Lềnh, Bùi Nguyên Khiết, Pờ Sảo Mìn…và rất nhiều con người đáng kính nữa mà tôi không kể hết được.

Sau này khi về Hà Nội lập nghiệp và trưởng thành, rat nhiều năm tôi lại được sống ven con sông Hồng, dù chỉ là ngoài đê, gọi là bãi Phúc Xá. Chứng kiến bao trận lụt lội của Hà Nội những năm 80 , tôi lúc ấy đã từng bế con lên thuyền chạy lụt khá nhiều lần, mà sao ngày ấy chúng tôi không hề có cảm giác sợ hãi chút nào.

Mãi sau này, tuy không còn ở đó nữa, mỗi lần có dịp đi qua cầu Long Biên, tôi đều muốn nấn ná dừng lại ngắm nhìn dòng sông và những cây cầu. Đặc biệt khi tuổi càng cao, càng yêu sông Hồng hơn, càng thích đi trên con đê dài bao quanh thành phố và ngắm nhìn bờ bãi và cây lá ven sông, thích ngắm bốn mùa phản chiếu trên dòng sông Hồng, thích mùa hoa lau nở trắng, thích những vạt ngô non và khoai lang, thích từng đám lau lách và những người nông dân làm lụng ở đó.

Thích nhất là được ngắm mùa hoa cải nở vàng bên sông…Tôi đã viết khá nhiều bài thơ và những câu chuyện từ cảm hứng với sông Hồng.Thi thoảng sau này, mỗi khi có dịp tôi lại rủ bạn bè đi ăn, đi chơi lang thang dọc theo ven sông Hồng để hương phù sa ngấm vào hồn mình, để tha hồ ngắm nghía, để mơ mộng hay chí ít cũng bồi đắp thêm cảm hứng thi ca cho mình.Khi bạn được ngồi bên dòng sông để ngắm hoàng hôn và ráng chiều đỏ rực thì rất tuyệt. Tôi mông sao dự án cải tạo cầu Long Biên thành con đường đi bộ mau thành hiện thực.

Có một điều bí mật nữa mà bây giờ mới kể. Ấy là nơi Bãi Giữa ở sông Hồng, khi dừng xe giữa cầu Long Biên, rẽ xuống phía dưới ấy, có một con đường nhỏ dẫn vào Bãi Tắm Tiên. Tôi đã tò mò về các câu chuyện bí ẩn ở đó từ lâu và đã khám phá nó, đi xe máy ra đó vài lần nhưng không dám xuống, vì nơi ấy toàn là các Tiên Ông, he he…Tuy nhiên, tôi vẫn khám phá những câu chuyện ấy bằng cách khác, đã viết vài bài thơ về chủ đề này và đã đăng trên báo, tạp chí…Đó là những bài thơ về “A Đam Sông Hồng” và sự đam mê, ước mơ vẫy vùng và khao khát tự do của những người đàn ông yêu mến sông Hồng…

Khi sang Pa ris và có dịp đi vài nước châu Âu, chấu Á, Úc…tôi càng thấy thương cho dòng sông Hồng lắm lắm. Sông Hồng và những cây cầu cùng hai bờ của nó đáng ra có thể đẹp hơn, sạch sẽ và hoành tráng hơn, lãng mạn hơn, thi vị hơn, làm cho khách du lịch mê đắm Thủ đô “ngàn năm Văn Hiến “ yêu dấu của chúng ta từ lâu rồi.

Thật đáng tiếc.Tôi đã viết nhiều thơ về quê hương Lào Cai và dòng sông Hồng, nhiều bài ký kể nhiều câu chuyện từ nguồn cảm hứng với dòng sông Hồng, đến những câu chuyện và cảm xúc từ Parisvà dòng sông Seine, cả những dòng sông đẹp đẽ khác nữa ở châu Âu mà tôi đã may mắn đi qua và trải nghiệm trước đây.

Nói dông dài thế để muốn khoe rằng mình sẽ còn yêu mến, đắm đuối và viết tiếp câu chuyện liên quan về những dòng sông và những dòng chảy vô tận trong tâm hồn…

Đà Lạt và tôi

Tôi chẳng vay gì Đà Lạt. Đà Lạt cũng chẳng nợ gì tôi. Chẳng có cái mất nào sắp phải đối mặt, cũng chẳng có cái được nào đang ngóng chờ. Không cố nhân, chẳng tân nhân. Những chỗ đáng đi thì đều đã tới. Đà Lạt có còn xa lạ gì đâu.

                                              Lần này vào, cũng không vì công to việc lớn, chỉ là một cuộc tập huấn rồi nghỉ cuối tuần. Tự trích ngang ra thế, tôi ngờ mình bay vào đây cũng như bay đến bao chốn khác thôi… Cớ gì khi màu thông xanh chợt xao động dưới mây, tôi vẫn nhoài ra ? Cớ gì khi thấy hồ Xuân Hương lươn lướt dưới cánh máy bay, tôi vẫn cứ nghển cổ trông theo mãi? Có cái gì như xốn xang, như chực tràn bờ. Sao thế nhỉ ? Tôi kì vọng điều gì ở dưới ấy ? Tôi định kiếm tìm gì ở Đà Lạt ? Chẳng nhẽ chỉ vì một tuần được bứt khỏi Hà Nội, được nghỉ, được quên đang đợi mình dưới kia thôi sao ? Hay Đà Lạt thầm ám tôi mà tôi không hay biết ?

Ôn đới gần

                                        Tôi đồ rằng, do bất bình trước cái việc tạo hóa đã ném mình vào nắng nung khiến thân nhiệt lúc nào cũng nồng nã vã sáng, xứ nhiệt đới này đã gồng mình cướp lại bằng được một phần ôn đới rồi đem về cất giấu tận trên cao nguyên Di Linh làm của để dành. Vì thế mà có Đà Lạt. Đà Lạt được giấu kín như thế hàng kỉ nguyên sau mây mù và rừng núi rậm rạp. Kín đến nỗi chính xứ nhiệt đới cũng từng quên mất nó. Chỉ đến khi một người Pháp tốt bụng là Yersin kiên nhẫn dò tìm và phát hiện ra, thì Đà Lạt mới được khua dậy, được dắt tay ra khỏi lãng quên. Lập tức người Pháp ở Đông Dương chọn đây làm nơi nghỉ dưỡng khi không thể về bản quốc.

Lên đây, họ cảm thấy được hồi hương ngay tại xứ người. Người Việt xem Đà Lạt như một ôn đới gần, một ôn đới nằm gọn trong vòng tay nhiệt đới. Từ Hà Nội bay vào hay Sài Gòn bay ra, họ đều cất cánh từ mùa hạ, sau vài tiếng đồng hồ, đáp cánh xuống mùa thu. Người bị ngập đầu trong guồng quay công việc tìm về đây cho ngày cuối tuần thư giãn, y như thỏi sắt nung được nhúng vào nước lạnh.

Người cầm tù trong nhịp sống tĩnh tại, thời gian biểu quẩn quanh, tìm về đây như một dịp thau chua rửa mặn, được sống những nhu cầu khuất lấp trong mình. Có phải ngàn thông là một bộ lọc tận tụy vô tư cho Đà Lạt không ? Bao bọc Đà Lạt trong lòng mình, ru vỗ Đà Lạt trong cái nôi xanh đời đời của mình, thông cao nguyên cứ lặng thầm lọc nóng thành mát, đục thành trong, tục thành thanh, ồn ã thành êm ả, nhiệt đới thành ôn đới.

Người đến Đà Lạt ngỡ như được làm mát, làm trong lại mình. Ôi, người Việt Nam những thế hệ trước, chỉ một mực sống cho người khác, đầu tắt mặt tối một đời. Các thế hệ ấy thường chia cái đời mình làm hai chặng. Chặng đầu, nai lưng làm lụng tích cóp như một con lừa. Chỉ sau khi mọi chuyện lớn bé của bổn phận người đã hòm hòm, họ mới cho phép mình sang chặng hai, ấy là hưởng đời một chút, thăm thú chỗ nọ chỗ kia một chút.

                                  Nhưng khốn nỗi, chặng trước đâu có chịu dừng, nó thường nuốt gọn cả chặng sau, khiến đời tàn lực kiệt. Lúc hưởng được thì không được hưởng, lúc được hưởng lại không hưởng được. Thế, họ cũng chẳng lấy làm tiếc. Đà Lạt thế kỉ trước là chốn xa xỉ, viển vông ngay cả với người không thiếu điều kiện. Một ôn đới ngay trong tầm tay mà họ cũng không thể đến. May thay, quan niệm về chất lượng sống cũng khác dần.

Người Việt nay có vẻ hiện sinh hơn. 7X, 8X bây giờ ứng xử khác : vừa làm vừa hưởng. Địa chỉ xanh cho ngày nóng ở xứ mình đâu có ít, nhưng xem ra Đà Lạt vẫn là lựa chọn sâu kín nhất cho mỗi chuyến ngao du. Vẫn biết, gió tươi cao nguyên có thể làm dịu đời một lát, chứ không thể làm dịu mát một đời. Nhưng dù ngắn vẫn hơn không! Chẳng đổi đời thì đổi gió. Mà cứ gì 7X với 8X, chuyến bay lánh nóng này của tôi cũng đang tìm về Đà Lạt đây thôi. Chẳng phải miền ôn đới quốc nội này đang mê dụ tôi sao ? Chẳng phải lúc nào tôi cũng thèm được làm tươi, làm trong lại đời mình sao ? Thảo nào, lúc máy bay chớm vào miền thông xanh, mình cứ nhấp nhổm hoài.

Xứ tình yêu

                                   Với những người yêu, Đà Lạt là xứ tình. Cái mát mẻ thiên phú làm cho cỏ cây non nước chốn này thảy đều gợi cảm, gợi tình. Đà Lạt khác nào một vườn địa đàng được tạo riêng cho những cặp uyên ương. Huyền thoại tình yêu ngày ngày vẫn vẽ lại thiên nhiên xứ sở. Cái ngọn núi cao nhất Đà Lạt là Langbiang vốn mang trong nó truyền thuyết về một tình yêu bất tử. Ngày đêm từ cao vời dõi trông xứ sở, hẳn Langbiang đã thành vị thần bảo trợ đất này. Uy của thần đã khiến các thắng cảnh kì thú nhất nơi đây kết nối với nhau chung tay biến Đà Lạt thành cõi tình. Một cõi tình luôn để ngỏ mời mọc mọi lứa đôi.

          Cứ thế tạo vật được design theo bản đồ tình yêu. Hay tình yêu tự lập bản đồ cho tạo vật theo ý mình? Chả biết, chỉ biết lần theo những địa danh nổi tiếng xứ này, người ta như bị dẫn dụ vào non nước của ái tình : Thung lũng tình yêu, Đồi Mộng mơ, Thác Cam ly, Hồ Xuân hương, Hồ Tuyền lâm, Hồ Than thở, Đồi thông hai mộ… Còn từng địa danh thì ngập trong thế giới của hoa yêu: dã quỳ, mimosa, foget me not, hoa đào, hoa hồng, lay ơn, bất tử…

Chỉ sau hơn một giờ bay, từ chốn phồn tạp, những người yêu đã hạ cánh xuống địa đàng. Uyên ương hẹn hò lên đây như lên chốn Thiên Thai. Phu thê tìm đến đây như tìm về vườn Eden cho tuần trăng mật. Người vội đánh mất quãng son trẻ tìm về đây mong một dịp tái son, truy lĩnh chút nào phần lãng mạn thất thoát. Người tơi tả những vết thương sâu tìm về đây với hi vọng được băng bó, rịt lành. Người thất lạc nhau trong quãng đời trước lặn lội về đây để trao nhau những gì chưa kịp trao, nhận những gì chưa kịp nhận, như một đền bù muộn.

                                Ai cũng mong tìm ở xứ sương rơi này một chút lãng quên, xin mây mưa chút vui vầy và nghe từ thông xanh một lời độ lượng khi nhịp tim đập loạn. Rồi thì về lại đời mình sống tiếp phận mình. Đà Lạt bí mật mở những Khau Vai, những hội chen Nga Hoàng, Giã La cho dân gian. Cùng với cái mát mẻ ôn đới, đây chính là nét quyến rũ mà Tuần Châu, Cát Bà, Sầm Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu, Phú Quốc không thể có được, thậm chí Tam Đảo, Sa Pa, Bà Nà cũng không sánh được.

Bao kẻ yêu cứ thế đổ bộ xuống Đà Lạt. Nhưng khốn nỗi, thời gian ở cõi yêu bao giờ chẳng trôi nhanh. Trăng mật bao giờ chẳng ngắn. Vài ngày trôi qua chóng vánh, làm sao đủ thỏa lòng nhau. Với những tái hồi muộn, đôi khi, đến bên nhau rồi, gần nhau là thế, nhưng chắc gì đã có thể tỏ bày. Biết đâu lại chẳng ngọng nghịu, khờ khạo, chẳng dấm dớ, vu vơ như cái thuở não nào… Rồi lại giã từ, về lại phận mình mà chưa kịp trao gửi nhau bất cứ điều gì. Háo hức mang đến lại lủi thủi mang về.

                              Nhưng, dù sao Đà Lạt vẫn là một cơ hội vàng. Bay cùng tôi trong chuyến bay này, có bao nhiêu trái tim đang hồi hộp trong những lồng ngực có vẻ điềm nhiên kia ? Làm sao tôi biết rõ. Riêng anh bạn đi cùng chuyến tập huấn với tôi đây, thì ngay từ lúc kéo va li vào check in đã khó điềm nhiên rồi. Ba ngày nữa vợ anh cũng sẽ bay vào. Họ đã chọn Đà Lạt cho sự kiện mong chờ : sinh nhật vợ và 20 năm ngày cưới. Dù trước đó họ vừa có một kì cuối tuần Phú Quốc, và ngày tròn của con số 20 thực ra còn ở tháng sau.

Nhưng, chả cản trở gì. Kỉ niệm như thế phải thuộc về Đà Lạt thôi. Họ sẽ cùng lượn xe đạp đôi ven Thung lũng tình yêu và những gương hồ Đà Lạt, sẽ lượn trên những con dốc mềm qua các vườn hoa, quầy hoa đẹp nhất, rồi sẽ cùng lên đỉnh Langbiang… Ba ngày nữa, chiếc xe đạp đôi nào dưới kia sẽ có may mắn được chọn, loài hoa nào, bông hoa nào sẽ gặp hên đây ?… Hèn chi mà chẳng bồn chồn ? Phần mình, đến Đà Lạt lần này, dù biết không còn trẻ, tôi vẫn mong có những hồi hộp như thế !

Những hồi hộp sẽ thì thầm bên tai rằng đời chưa phải đã hết, dù mất mát rụng rơi vẫn có cơ tìm lại, những ngày Đà Lạt này sẽ vẫn là những ngày đôi lứa, như thuở mới yêu, thuở chưa đắng cay gì. Bên cửa sổ máy bay, tôi miên man nghĩ tới những bông hoa Đà Lạt, ở dưới xứ thông kia có sắc hoa nào ứng với tôi không ? có bông hoa nào sẵn lòng chia sẻ với tôi không ?

Xứ Trịnh ca

Nếu đi sâu vào Đà Lạt, bạn sẽ gặp những con phố vắng. Đi sâu vào từng phố vắng, bạn sẽ gặp những quán cà phê. Đi sâu vào mỗi quán cà phê, bạn sẽ gặp Trịnh Công Sơn. Để được chìm đắm với xứ này, tôi đã đôi lần tìm uống cà phê. Khi ấy, tôi thường trầm ngâm với những cái tên mà người đời đã dành cho Đà Lạt. Nào xứ sương rơi, xứ thông reo, xứ ngàn thương, xứ ngàn hoa, xứ tình yêu, nào thành phố buồn, rồi Pa ri nhỏ (Le petit Paris)… Cái tên nào cũng muốn gọi ra hồn vía Đà Lạt… Một đêm, trở về từ quán nhạc, lững thững ven hồ Xuân hương, tôi đã gọi Đà Lạt là “xứ Trịnh ca”, vì chợt nhận ra Trịnh là một chiều sâu khác của xứ này.

                                              Nhạc quán ấy là Diễm xưa, một không gian thuần Trịnh. Đêm nào diễn, họ cũng thắp nến, dâng hương trước chân dung Trịnh Công Sơn. Sơn được bái vọng thờ phụng, được tri ân. Cũng phải thôi, họ đã gắn đời với Sơn, được hưởng lộc từ Sơn. Sơn giúp họ nuôi họ, cũng giúp họ thành họ. Đam mê ca hát dành cho một mình Sơn kể cũng là đặc biệt.

Những kiếp cầm ca nương nhờ vào Sơn để phiêu du phận mình trong cái đời người dài dặc và hoang hoải này. Nếu không có Sơn, đời nhạc của họ rồi sẽ ra sao ? Ngày nào cũng hát Trịnh, nhưng người nghe không khi nào hết chăm chú nghiêm trang. Lời bình phẩm bên li cà phê chỉ thầm thì, ý nhị. Vì ca sĩ ? Vì nhạc sĩ ? Hay vì một nhã thú, một nghi lễ đang diễn ra trong không gian nhạc này? Thật khó mà tách bạch. Ở Đà Lạt, đâu đâu cũng ngân thầm nhạc Trịnh. Khi ấy tôi thấy dường như cả Đà Lạt đã thu nhỏ mình thành nhạc quán Diễm xưa.

Nhân duyên nào đã gắn Sơn với xứ này ? Sao không là Huế hay Sài Gòn ? Huế là quê Sơn, người Huế rất yêu Sơn. Nhưng không gian nhạc Huế đã đặc kín những Nam bình Nam ai, những nhã nhạc cung đình. Ở đó, Sơn đành khép nép thôi. Hầu như cả đời Sơn gắn với Sài thành. Nhưng Sài thành có một dạ dày nhạc khủng, ngốn tất tật các thứ nhạc trên đời.

Dù được yêu, Sơn cũng chỉ là một thị phần. Có lẽ không ở đâu Sơn được thiên vị như Đà Lạt. Không sinh ở Đà Lạt, cũng không mất ở Đà Lạt, thời dạy học ngắn ngủi, thì ở Blao, cách thành phố này cả trăm cây số, không sống nhiều ở đây và dường như cũng ít sáng tác ở đây… những mối liên hệ thường thấy để một người có thể thuộc về một vùng đất dường như vắng bóng trong quan hệ của Sơn với Đà Lạt. Ngoại trừ một lí do không mấy trực tiếp : Khánh Ly. Đà Lạt là nơi Sơn gặp Khánh Ly. Nhưng đây hẳn là lí do của mọi lí do, liên hệ của mọi liên hệ chăng ? Mối duyên nhạc, duyên đời, đã nảy nở ở chốn này. Vì thế, nó là chất keo để kết dính một hồn nhạc vào xứ sở chăng ? Ấy là Đà Lạt qua Ly mà có Sơn.

           Nhưng, đâu chỉ thế. Ít có xứ nào trên dải đất này lại nhạy cảm như Đà Lạt. Y như một cô gái đa cảm, hễ ngoài biển Đông động bão, dù là bão tít mù phía vịnh Bắc bộ, hay bão dạt mãi tận cực Nam, thì Đà Lạt cũng lập tức rơi mưa. Người ta thấy màu hoa mimosa hay dã quỳ vào những ngày ấy cũng ngùi ngùi biến sắc, nước hồ Xuân Hương khi ấy cũng khác màu. Tiếng thông vi vút quen thuộc trên những ngọn núi kia vào ngày ấy cũng xao xác khôn nguôi. Và rồi, người ta cũng nói: đến Đà Lạt thì ngay cả sỏi đá cũng động lòng yêu.

Bởi vạn vật khắp xứ đều thầm thì vào tai người cùng một câu hát thôi “hãy yêu nhau đi”. Nó khiến người đã đến đây sẽ thấm thía cái nghĩa lí của tình yêu trong cuộc nhân sinh này. Một mảnh đất như thế không thể không chọn Sơn. Còn ai hơn Sơn trong linh cảm về nỗi yên hàn mong manh của mặt đất này. Còn ai hơn Sơn trong linh cảm về những giấc mơ đời hư ảo. Và thế là như một lẽ tự nhiên, Đà Lạt thấy ở Sơn một hồn đồng điệu. Sơn là người hát lên linh cảm của mình, cũng là linh cảm của Đà Lạt.

                                    Đà Lạt mượn Sơn để bày tỏ. Những viên sỏi, hòn đá của xứ ngàn thông đã níu nhạc Trịnh lại với mình. Và, cũng chỉ có ở cõi tình Đà Lạt, trong màn sương thơm phấn thông, bên li cà phê đơn hay đôi, nhạc Trịnh mới ru mê thế. Phải, chỉ Đà Lạt mới là xứ Trịnh Ca. Xưa thành Nam từng hãnh diện với “ăn chuối ngự đọc thơ Xương”, thì nay Đà Lạt cũng có thể kiêu sa với “uống cà phê nghe nhạc Trịnh”. Ngồi cà phê trong quán khuya ở xứ này, nghe Trịnh da vàng hay Trịnh tình ca, đều sẽ thấy âm thanh như những giọt mưa gieo xuống miền thông, lại như những hạt mầm nảy trong đêm Di Linh, thấy mình được vỡ vụn, được phiêu diêu, lại được lắng, được nguôi, được băng bó, nương náu vào một cái gì.

Xứ thiền

Trúc lâm thiền viện là một chiều sâu khác của Đà Lạt. Gốc gác tận Yên Tử từ tít đời Trần với vị đầu đà danh lừng khắp cõi là Trần Nhân Tông, thiền phái giàu chất Việt này như dòng nước ngầm bền bỉ, qua năm sáu thế kỉ đã chảy vào tâm linh Đà Lạt. Nhưng phải cuối thế kỉ trước, thiền viện này mới được lập nên. Và đến nay, thiền viện Đà Lạt lại đang làm một hành trình chảy ngược ra phía bắc. Đến đâu, các thiền viện theo mô hình Đà Lạt lại mọc lên đến đấy. Giờ, nó đã ra đến nơi phát tích của mình rồi.

                                Sau khi thắp hương, vãng cảnh như một kẻ hành hương, tôi ra ngồi trước hồ Tịnh Tâm. Trong phút giây thư thái hiếm hoi bên hồ, tôi mới thấm thía về cái được cái mất đáng giá vào bậc nhất của đời người. Thư thái là gì nếu không phải là trạng thái bình thản bên trong, khi tinh thần bằng an, không bị xô đẩy. Và đó là tĩnh tâm. Tâm tĩnh như gương nước tĩnh, cho ta thấy rõ mặt mình. Chỉ trong thư thái mình mới thật là mình. Ba động là lúc nội tâm chòng chành chao đảo nhiễu loạn, hình bóng mình bị vỡ ra muôn ngàn mảnh. Vọng động có được dẹp yên, hình và bóng mới không còn tranh chấp, mới nhập vào nhau mà nên bản thể mình.

Bởi thế, thư thái trong nội tâm chính là hạnh phúc. Đánh mất sự thư thái cũng là đánh mất gương mặt mình, đánh mất cái hạnh phúc được là mình. Nhưng, một nội tâm thư thái chỉ được nảy nở và nuôi nấng trong một không gian sống bình yên. Mà cuộc sống hiện đại lại đang đánh mất dần sự bình yên. Không gian sống luôn bị tra tấn đầu độc bằng đủ mọi thứ bát nháo của công nghiệp, phố xá và thị trường. Thế giới thành cái chợ mất rồi.

Cái yên ả êm đềm bị bài xích xua đuổi dần khỏi những chung cư phường phố. Sự yên bình đành rời bỏ chốn đô hội để tìm về nương náu trú ngụ ở những chốn xa. Và những ham hố, thù hận, u mê, những phụ bạc, thất thoát, phản trắc, những vết thương bị gây ra và tự gây ra cũng luôn băm nát lòng mình, chiếm đoạt mất thư thái trong tâm mình. Bất an là thường hằng, thư thái chỉ thoáng chốc. Hành trình kiếm tìm hạnh phúc trong bề sâu là tìm kiếm thư thái mà có phải lúc nào mình cũng hay biết đâu.

                                            Tôi đến Đà Lạt, mong tìm kiếm gì đây ? cái cảm giác ôn đới ? cái cảm xúc yêu và được yêu? cái trạng thái được quên rất nhiều, được an trú trong ảo mê cùng cà phê và nhạc Trịnh ? Tất cả Đà Lạt là đó sao ? Những tra vấn khôn nguôi khi đứng trước Thiền viện đã đẩy tôi tới bên hồ Tịnh Tâm này. Mặt ai đang vỡ dưới hồ kia ? Hình ai đang quay cuồng loạn múa ? Mặt hồ khi ấy đâu đã lặng gì !… Thôi, ngồi xuống, thiền đi, thở đều, thật đều, dù giờ đây tìm lại được bình lặng cho gương hồ thật mong manh mờ mịt làm sao !

Tôi đâu phải một thiền sư. Cõi riêng tôi cũng tựa như Đà Lạt này: đỉnh là Langbiang và đáy là Tịnh Tâm. Tôi cần bình yên và cả tình yêu. Có thể cầm giữ bình yên bằng tình yêu được không ? Bình yên nuôi dưỡng tình yêu hay tình yêu nuôi dưỡng bình yên? Đà Lạt có thể là một trái tim cho những lứa đôi tìm về nương náu được không ? Dường như, câu trả lời của Đà Lạt là “có”. Bình yên có thể tưới tắm cho tình yêu, làm dưỡng chất của tình yêu. Mà cho dù không, thì Thung lũng tình yêu, đồi Mộng mơ vẫn có thể xoa dịu, chí ít, thì hồ Xuân hương, hồ Tuyền lâm là những đền bù.

Hằng ngày, trời thả bình yên vào mây trôi, sương ướp bình yên vào  ngàn thông, thông thả từng thoáng bình yên biêng biếc vào gió, còn gió thì đem dải xuống mặt hồ. Mặt hồ không đành hưởng hết mà đem lại quả một phần bình yên cho hoa lá cỏ cây qua từng viền sóng. Bao lứa đôi đang chụm môi cà phê thủy tạ, dún dín xe đạp đôi bay lượn ven hồ, hân hoan du thuyền mặt hồ, chẳng phải đôi nào cũng đang căng tất cả giác quan để cảm nhận hương vị tình yêu và dưỡng khí bình yên đó sao?

Chốn bình yên sâu khuất

                                  Sinh ra ở trên cao, ngỡ Đà Lạt đã được phú cho một bình yên vĩnh viễn. Bình yên mới là gia tài lớn nhất của Đà Lạt. Để cầm giữ sự bình yên quí giá ấy, Đà Lạt đã phải đánh đổi phận mình, lùi sâu vào ẩn dật giữa sơn dã lâm tuyền. Đà Lạt đã nâng niu sự bình yên của mình bằng một nhịp sống chậm, bằng cách sống sâu, gắng gỏi cách li với những hối hả phiền tạp của các đô thị lớn mạn dưới.

Nhưng những hàng thông giàu tiên cảm kia, những vạt hoa đồi quá mẫn cảm kia dường như hằng đêm vẫn trăn trở, lo âu, vẫn nơm nớp với linh cảm về một ngày nào đó bình yên có thể bị tuột mất, đoạt mất. Với người đến từ chốn náo động xô bồ, Đà Lạt là tỉ phú của êm ả, là nơi cư trú muôn đời của bình yên. Nhưng chỉ có Đà Lạt mới thực sự biết rằng sự bình yên ấy mong manh thế nào, và Đà Lạt phải ráng mình để chắt chiu vun góp cho bình yên ấy ra sao.

Mối nguy cơ đến từ vùng thấp đang lan tràn và lăm le đánh chiếm nốt miền cao này. Cái xô bồ, hỗn tạp, nhiễu loạn, quay cuồng chả đời nào chịu buông tha cho những chốn êm đềm yên ả. Sự cách li có là phòng tuyến lâu dài? Sự ẩn dật có thể là trường thành chống đỡ ? và cách sống chậm nữa, liệu có thể là lá mộc che giữ cho sự bình yên này mãi không ? Tôi đọc ra niềm lo âu trong mỗi tiếng thở dài của rừng thông về đêm và những thoáng rùng mình kín đáo từ những đóa hoa hồng, lay ơn, cẩm tú cầu khi những tia nắng đầu tiên gọi về một ngày mới.

Nỗi lo âu dường như cũng tỏ mờ ngay cả trong những làn hương từ mỗi li cà phê trong quán nhỏ. Chẳng thế mà, đang nghi ngút tỏa lên yên ả vậy, sao chốc chốc làn hương lại chợt ngừng, chợt ngơ ngẩn bởi những thoáng gió lạ lúc nắng mai? Chỉ Đà Lạt mới biết hằng đêm, mỗi khi tiếng chuông điểm canh trên thiền viện ngân trong thanh vắng, thì cũng là lúc ngàn thông vào thiền định trong một lễ cầu an mênh mông thầm nguyện cầu cho xứ sở yên hàn.

Khi đêm qua đi, tôi như chợt nghe thấy tiếng nói tỉnh táo từ những cây thông tham thiền sâu nhất trong đêm Đà Lạt. Rằng: khi lòng khánh kiệt bình yên, những mất mát, đổ vỡ có không được hoàn nguyên, thì cũng được băng bó ràng rịt. Ít nhất thì cũng được quên. Đôi khi, quên là một liệu pháp để có một bình yên ảo. Nhưng dù sao nó cũng giúp rịt lại những vết thương thật. Dẫu chỉ là cầm máu trong ngày. Không có cuộc đời hạnh phúc, chỉ có những khoảnh khắc hạnh phúc. Không có những cuộc đời bình yên, chỉ có những khoảnh khắc bình yên. Sống là chi chút từng khoảnh khắc, dành dụm từng khoảnh khắc. Chắt chiu được càng nhiều khoảnh khắc, thì chuỗi bình yên hạnh phúc càng dài. Vậy thôi. Đừng ảo tưởng.

                                              Và tôi nhận ra, trong chúng ta ai chẳng thèm một Đà Lạt, ai chẳng giấu một Đà Lạt. Có phải bình yên trong chúng ta đang gọi tên Đà Lạt không ? Đến chốn này, nhìn vào lòng ta, ta mới thấy rõ, lỗ hổng lớn của đời mình trong nhịp sống này là Đà Lạt. Đà Lạt là nỗi chắt chiu trong đời sống nháo nhào của ta. Về Đà Lạt, ta đang về với chốn bình yên sâu khuất trong mình…

Tái bút:

Chiều nay, tôi đã cố hít đầy lồng ngực một Đà Lạt, trước khi bước vào trong máy bay rời mảnh đất này.

                                                                                             Hà Nội, 8-2012

Ở đầm Vạc, viết cho cò

                                           Mộ tiếng đầm Vạc đã lâu, qua lại đường này dễ cũng đã trăm lần, vậy mà tôi chưa lần nào ghé được. Hè này, do một cơ duyên, tôi có cả tháng trời về sống bên đầm Vạc. Lạ. đầm Vạc mà không có vạc ! Vạc đã bỏ cả đi, hay không còn con nào sống sót ? Mấy ngày, ngó mọi nẻo bờ đầm quanh quất, khắp cả mặt nước bạc mênh mông, chỉ thấy tới lui những bóng cò. Đành vậy. Còn cò là may rồi.Tôi tưởng mình đã mất hẳn những bóng cò cùng với tuổi thơ xứ Thanh.

                                  Hồi ấy, chiến tranh, trường nào cũng phân tán nhỏ, trong làng tản hết ra giữa đồng. Lớp vỡ lòng của tôi ra cây đa đồng Màng. Lớp ba của anh tôi ra tận đồng Vải. Đề phòng máy bay, trẻ con phải mũ rơm, túi thuốc, khăn choàng phòng không, lũn cũn lội đồng đi học lúc sương hãy còn dày đặc, mặt trời còn chưa lên. Cũng chỉ chung một đoạn đường, rồi thì anh em mỗi đứa lủi thủi một đằng. Lúa thì cao vượt đầu, đường bờ thì trâu xéo nát, chi chít, lầy thụt những hố rõ sâu. Chả hôm nào chân tôi không thụt xuống một hố chân trâu ngập đến bẹn.

                              Loay hoay lụi hụi rút chân mãi, mà bùn quánh cứ mút chặt. Muốn cầu cứu, mà chung quanh chả còn ai. Rút được ra thì bùn phọt lên đầy mặt. Lần nào cũng phát khóc. Tôi nhớ như in một lần như thế mình đã hoảng hồn té ngửa. Số là, đúng lúc sa chân, đang tủi lòng muốn gào tướng lên, thì bất thần tối mắt tối mũi, vì một bóng trắng bay vụt sát mặt. Thần hồn nát thần tính. Cứ tưởng ma nạt mình. Té ra, là cò. Lũ cò lặn lội tôm tép quanh đấy mà tôi không để ý. Thấy động, thì hốt hoảng bay lên. Bùn sương lấm láp khắp mình nó được lúc văng tung toé.

                                                          Chả biết con này đi từ đêm chưa về, hay cũng vừa rời tổ ra đây kiếm ăn. Định được thần, tôi bật cười với sự dớ dẩn của mình. Rồi thì dồn sức rút bật được bàn chân lên, lượm mấy cuốn vở lấm lem, gột bớt bùn vào cỏ, đội lại chiếc mũ rơm bê bết, cả quyết bước tiếp. Dặn mình cẩn trọng hơn. Từ đấy, hôm nào đến lớp, tôi cũng ngó tìm cò và trêu tròng chúng. Mà cò cũng dạn người. Chỉ đến sát, chúng mới né mình, hoặc lật phật bay tránh, rồi xà xuống liền, cặm cụi mò tiếp.

                              Cứ thế. Người đi học. Cò kiếm ăn. Đồng đỡ phần hoang lạnh. Tôi nhớ, bờ máng bờ mương, bờ vùng bờ thửa nào dẫn tới lớp cũng vãi trắng cứt cò. Ghê hết cả chân, muốn tránh, mà chân dại, bước ngắn, biết tránh vào đâu. Cứ dẫm ào lên vậy. Thế mà, trưa tan lớp trở về, thì từng dấu chân mình nắng gió đã hong khô. Và, hình từng ngón chân in trên cứt cò cũng đã se dần, bạc phếch, nét rõ như in lên khuôn thạch cao, trông cứ như một thứ phù điêu chìm ngộ nghĩnh vậy.Cứ thế. Suốt cả tuổi thơ tôi.

Rõ buồn cười là, tôi chẳng hề nuôi chúng, mà lòng lại cứ coi cả bầy cò kia là của mình. Còn tin rất đinh ninh nữa. Và, chả hiểu sao, cho đến tận bây giờ, ngoảnh lại thuở ấy, sắc trắng phau của cò tôi nhớ cũng nhiều, nhưng sắc trắng như vôi của cứt cò tôi lại nhớ nhiều hơn.

                          Phải rất gần đây tôi mới hay ngắm nhìn vẻ đẹp trên một gương mặt già lão. Có phải do u tôi ngày một già đi, tôi biết yêu thương nhiều hơn, hay đó là vẻ đẹp cần phải trải đời đến độ nào đó mới thấm thía được ? Tôi không rõ lắm. Chỉ chắc rằng, giờ đây, trước một gương mặt người già, tôi bị chấn động mạnh hơn, và lòng cũng nhiều dư âm hơn. Vậy mà, vẻ đẹp của những cây lớn, cây cổ thụ, thì đã cuốn hút tôi từ bao giờ rồi. Nhìn một ngôi nhà nép dưới bóng những cây sum suê cao lớn, bao giờ tôi cũng có cảm giác cuộc sống ở đó đã lâu dài, trường cửu, dù có thể nếp nhà kia xây chưa được bao lâu. Cây lớn mang lại cho chốn ấy không khí cổ kính, trang trọng.

                         Quá khứ dằng dặc nắng mưa dông gió đã tạc nên những vè rễ kì dị, hốc hang bí ẩn cùng các mắt vấu lồi lên trên lớp vỏ nhăn nheo. Còn cây thì nhẫn nại qua hàng thế kỉ cứ tàng trữ thời gian trong bóng lá thâm u, cất giữ thăng trầm trong dáng hình điềm tĩnh, cho người sau đến dưới cây như đến viếng thăm một bảo tàng của cái sự sống đời đời lầm lũi vậy. Và, mỗi bóng cây lớn che rợp cả khoảng trời chính là một ốc đảo yên bình trên mặt đất bao la chang chang những khắc nghiệt và hiểm họa này.

Kẻ xuôi ngược đường đời, mỗi lần được dừng chân dưới một gốc cây như thế, nhúng mình vào cái bóng râm, mà nghe hơi mát tươi thấm rân rân đến tận chân tóc, khác nào như được nương náu chốc lát trong một niềm che chở bao dung thật lớn lao… Có phải cây đa đồng Màng đã đem lại cho tôi những ấn tượng đầu tiên chăng ?

Cây đa ấy mọc trên một cồn đất cao, trơ trọi giữa đồng không mông quạnh. Nó cổ quái, bí hiểm và cô độc. Thế mà, với lũ học trò, nó lại là cái cây thật thân thiện. Khi phụ huynh đào hào, đắp luỹ, dựng lán học cho con em mình tản ra đây, thì cồn đất sống động hơn nữa. Người lớn đi làm đồng thường giải lao uống nước dưới bóng râm. Còn trên cao, giữa tán lá um tùm, rậm rạp là những tổ cò. Bên dưới tán đa dày là lũ học trò chui ra chui vào lán như vào một cái tổ chìm. Còn trên tán đa già là những bóng cò trắng chấp chới ra vào những cái tổ nổi. Các vè rễ cao lút đầu thường là chỗ nấp cho chúng tôi chơi trốn tìm. Rễ phụ buông xuống từng chùm dài quết đất thì để bám vào làm đu. Riêng cái rễ phụ đâm thẳng vào đất to như một thân nữa, thì luôn là cái tháp để bọn trẻ đố nhau bám bíu mà trèo lên cao. Cứ thế, gốc đa thành cái sân chơi thiếu nhi tự tạo của lũ nhóc chúng tôi.

Tôi nhớ mùa đông toàn học buổi chiều. Lớp tan muộn. Lắm khi, sương đã phủ khắp đồng, tôi mới men bờ lúa ra về. Đó thường là lúc cò cũng từ khắp các ngả đồng mệt mỏi tìm về ngọn đa. Nhiều con vỗ cánh ngay trên đầu tôi. Có con còn cố tha cả những con cá tép bay về cho lũ con đói. Tiếng quào quào dậy lên khi chúng tụ đầy những cành đa. Không ít lần về đến nhà, cởi bỏ mũ rơm thấy dấu nước vãi tanh lòm, trút tấm vải choàng còn thấy trên nền màu phòng không, loang lổ những vết phân cò tươi nguyên nữa. Thế mà chẳng hiểu sao, những lúc như thế, tôi lại hay nhớ đến từng vệt trắng chảy dài trên thân đa già tựa như những dòng nhựa trắng đông cứng lại. Nhớ đến cái đám phân trắng như vôi vung vít vương vãi quanh gốc đa. Nhớ cả các đốm trắng bết trên nóc lán gianh.

Trong những năm bom đạn, màu trắng là màu không an toàn, cấm kị. Sao tôi cứ thấy ở đâu có cứt cò vãi trắng, là ở đó cò đông, là cây cối xanh um, sự sống yên lành. Nên tôi luôn yêu quí những cây già. Ngay cả vẻ cổ quái bí hiểm tôi thấy cũng thật thân thiện cuốn hút.

Thế mà cây đa ấy đã chết. Nó sống sót khỏi chiến tranh, nhưng lại chết vì bàn tay triệt hạ của chính người làng. Ấy là thời có chủ trương phá đình phá chùa. Người ta đã đốn gục nó, hồi tôi đi học xa. Mà tôi có ở làng lúc ấy, cũng không thể nào cản được. Cái nạn ấy đã khiến bao nhiêu đền chùa, bao nhiêu cây cổ thụ của làng đều tan hết, tiêu hết. Trở về, tôi có cảm giác như bị rơi hẫng xuống những khoảng trống không mà mỗi cây để lại.

                               Cái tầm cao lâu đời của làng thế là bị phạt mất ngọn rồi. Khi cây lớn bị hạ sát, mái nhà chung của cả làng không còn, thì làng cũng bắt đầu sinh ra biết bao nhiêu chuyện. Cây đa ngoài cồn có thuộc về đền chùa nào đâu, nó chỉ xoè tán che cho người nghỉ, cho đám học trò chơi, cho lũ cò nương náu, thế mà cũng thuộc danh sách triệt hạ. Lúc ấy, có phải cứ những gì trông cổ cổ một chút thì đều bị xem như nơi ẩn náu của phong kiến, của mê tín dị đoan, hay cần phải phá những cái cây cổ kia đi để trồng lên hàng cây ơn Bác, tôi cũng không rõ nữa. Chỉ biết là chúng đã bị triệt tất.Cây mất rồi, bầy cò khi ấy có con nào sống sót nổi không ?

                                                  Lớn lên, tôi mới thấm thía rằng không có loài chim nào gần gũi với người Việt như loài cò. Cò sống bên người ở khắp mọi làng mạc. Cò đi vào thơ ca nhạc hoạ, cả dân gian lẫn bác học, nhất là ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Cò trở thành hình ảnh tượng trưng lâu đời cho cả phẩm chất lẫn thân phận của người nông dân trên đồng đất nước Việt. Đến nỗi, trên biết bao nhiêu logo khác nhau về văn hóa Việt, cò đã thành một hình ảnh không thể thiếu.

Bản thân tôi cũng đã thuộc, đã bình bao nhiêu áng thơ ca đẹp viết về cò. Song, tôi cũng thấy, ít ở đâu cò bị giết hại dã man như ở nước mình. Để chim về, ở ta cũng thấy có làm sẵn cho chúng những tổ trên cây. Nhưng không phải tổ mời chim. Mà là tổ dụ chim. Chim mà rủ nhau về sinh sống thì sẽ bị bắt cả nhà. Mỗi cái tổ ấy là một cái bẫy thâm hiểm.

Nhưng, hiểm nhất vẫn là bẫy cò, thì phải ? Để bẫy cò, cách đắc dụng nhất là làm cò mồi. Đó là con cò được kẻ sát hại chim dùng làm mồi nhử để dụ cả đàn của chúng. Nghĩa là bắt cò làm việc phản phúc. Trong tiếng Việt, chữ dùng để nói loại người, loại nghề kiếm chác bằng cái chiêu dụ cho đồng loại vào việc, vào tròng cũng là “cò mồi”. Mà bây giờ, cụt hơn, gọn hơn, là “cò”: cò nhà, cò đất, cò xe, cò tàu, cò dự án… Không rõ cò có biết cái tên của loài mình đã bị hoen ố đi thế không ?

                                Và, dù đã qua nửa đời người, tôi vẫn không thể nào quên được hình ảnh những con cò người ta mang ra chợ bán hồi ấy. Như với gà, người ta trói chân chúng lại, xách đi. Nhưng cò nhẹ hơn, bé hơn, nên chúng thường bị buộc gom thành một túm lớn tới hàng chục con, quẳng lay lắt như mớ rau mớ củ. Khi sống thì bay theo đàn, khi bị bán thì cũng bán cả một bầy ! Kiếp cò là thế sao ? Tội nhất là con nào hai mắt cũng bị khâu tịt lại bằng một sợi lông của chính nó. Có con còn bị chọc mù bằng cái xiên. Người ta bảo làm thế để đề phòng nó mổ mắt người. Con người khi hành quyết nhau thường bắt bịt lên mắt một dải băng đen.

                       Con cò, trước khi bị hành quyết thì được người chọc cho mù hẳn ! Tôi cũng không thể quên cái cách chúng thường bị vặt lông sống. Người ta vặt trụi dần từ lông cánh đến lông măng. Gặp chỗ khó vặt thì giật những cú thật mạnh, thân cò cứ nảy lên, tướp máu, có khi còn bật cả da lên. Mình cò sưng phù như phải bỏng. Đám trẻ con thì chí choé tranh giành túm lông mịn màu vàng mà chúng gọi là lông cu li. Chúng kháo rằng lông ấy có thể cầm được máu khi người đứt tay. Rồi người ta còn đem cò thui trên lửa.

                                              Cũng nghe bảo: phải lửa mới thui hết lông vặt sót và mới hết mùi hôi, ăn mới ngon. Những con cò mù cứ lơ ngơ, tuyệt vọng trong đôi bàn tay vặt lông điệu nghệ và thản nhiên. Lông vặt đến đâu, thì thả bay đến đấy. Lông cò bay loạn, trắng như bông bám bíu vào bờ rào, rệ cọ, lơ phơ trong gió. Vậy là, trước khi bị xả thịt, ném vào nồi xáo măng, chết hẳn, cò còn phải chịu cái cực hình là chết từng phần, từng phút trong đau đớn thế. Nhìn thấy những cảnh ấy, liệu thi sĩ Chế Lan Viên đáng kính có thể viết được bài “Con cò” nổi tiếng để đưa ru tuổi thơ bao thế hệ nữa không, hay sẽ phải viết văn tế cho loài cò, cái mà hình như nhà thơ mượn họ Chế này chưa bao giờ viết ?

Hồi ấy, khi ngồi vào mâm, có bao giờ tôi nhớ đến những con cò xấu số kia không, tôi không chắc. Đói khát làm người ta chỉ còn chăm chăm vào bát xáo măng thôi. Nhưng bao năm qua, đi tới vùng nào, cứ thấy lông cò trắng phau tung toả là tôi lại rùng mình. Và tôi nghiệm ra: ở đâu lông cò bay, ở đó cò bị giết ; ở đâu cứt cò dày, ở đó cò xúm xít đông vui.

                            Sống ở phố bao nhiêu năm, thì cũng ngần ấy năm tôi không nhìn thấy những bóng cò bay. Hình ảnh những bầy chim di cư dăng dăng bay trên không trung về phương Nam lánh rét, đối với tôi, chỉ còn là kí ức tuổi thơ sao ? Đúng ra, có một lần, khoảng dăm bảy năm trước, khi lên sân thượng, tôi có thấy một đàn đang bay tới. Nhưng tôi chưa kịp mừng thì con đầu đàn đã vội vã đảo cánh dẫn cả đàn rẽ hướng khác mất rồi. Chúng đã xóa bỏ dần những đường bay qua bầu trời thành phố. Phố có ma lực với con người. Nhưng không có ma lực với chim. Ta bị choáng ngợp trước phố. Còn chim biết dị ứng với phố.

                              Phố càng sôi động, chim càng lánh xa. Ta bỏ thôn quê để vào thành phố trong cơn thèm khát đô thị. Ta nôn nóng tạo ra các đô thị, ngợp trong thế giới của tiện nghi và yên chí rằng đó là cuộc sống văn minh. Mê muội trong cái sướng vật dục nhất thời, ta đâu còn tỉnh táo nhận ra rằng như thế là đang từ bỏ cuộc sống trong lành thanh thỏa để trở thành tù nhân trong cái thế giới của những nhà tù bê tông hình hộp, hình ống. Chạy theo sự cám dỗ của đô thị, con người có thể phụ bạc thiên nhiên, phụ bạc màu xanh.

Nhưng chim thì không. Chim chỉ sống bởi tiếng gọi duy nhất: tiếng gọi của màu xanh. Mọi đường bay của chim đều theo chỉ dẫn của màu xanh. Trong khi đó, con quái vật bê tông nham nhở có tên là đô thị hoá kia với tốc độ phân bào kinh khủng đang nuốt dần những khoảng xanh của sinh thái này rồi.

                                        Tôi đến đầm Vạc trong niềm háo hức vì được đến một địa chỉ xanh nổi tiếng. Nghe nói, bao năm trước, đây là chốn nghỉ riêng của trung ương. Vĩnh Phúc mới đòi lại được từ khi tách tỉnh. Biết tôi thắc thỏm với chuyến đi này, một anh bạn thổ công ở đây đã ngán ngẩm cảnh báo: đầm Vạc giờ chỉ còn như một vốc nước xanh nhỏ nhoi bị vây giữa một đô thị trẻ đang say sưa với công nghiệp hoá, thị trường hóa thôi, ông ạ. Sau mấy ngày ở đây, tôi cũng buồn, nhưng không bi quan đến thế. Đầm Vạc hiện vẫn chưa đến nỗi nào, dù sinh thái bây giờ có phần xơ xác hơn xưa.

               Tôi cứ nghĩ sức hấp dẫn của chốn này là ở một đầm nước lớn nằm ngay giữa thành phố. Người ta vẫn dùng hình ảnh lá phổi của thành phố để nói về những hồ đầm như thế này. Đầm Vạc quả là lá phổi của Vĩnh Yên. Nhưng, chỉ vừa đặt chân đến khách sạn ba sao này thôi, là tôi đã thấy ngay, sức hấp dẫn của đầm không thuộc về diện tích rộng của mặt nước, mà thuộc về cây xanh. Ven hồ phía này còn cả một bờ cây rậm rạp cứ như một vạt rừng nguyên sinh được bứng nguyên về đây từ rừng Cúc Phương vậy. Toàn những loài đầy sức vóc như sưa, sữa, long não, chò chỉ, xà cừ, thông …

                                                  Cây nào cũng cổ thụ. Gốc nào cũng xù xì gân guốc, dây leo, tầm gửi bám quanh thân thiện như huynh đệ lâu đời. Đã vậy, cây lại mọc xúm xít ven đầm nước. Cái trong mát của nước đầm quanh năm âm thầm giao hoà với cái tươi mát của cây xanh đã tạo nên một sinh quyển dịu dàng trong lành. Đám chúng tôi được đưa đến đầm Vạc để làm đề cho cuộc thi tuyển sinh đại học năm nay. Vì dài ngày, nên chiều chiều sáng sáng, ai nấy đều lấy việc đi bộ quanh quanh để tập dưỡng sinh. Tiếc là không được đi rộng ra hết cả vùng.

                            Nhưng, dù ngắn cũng vẫn có thể cảm nhận được vẻ đẹp của các lối đi lượn qua những gốc cây cao vút, vòm giao nhau ken kín tầng không, lá vàng cứ từ đỉnh cây thong thả rắc xuống như những mảnh nắng vàng buông mình theo gió, khiến cho người tản bộ ngỡ mình đang bước giữa nẻo rừng thưa. Khi một mình bước trên lối ấy, nhìn xuôi theo những hàng cây tán rộng rì rào, mắt hoàn toàn bị hút vào những khúc quanh co thâm u, tôi đã cả quyết : chính cây mới là tài sản đáng giá nhất của cái khách sạn được coi là sang nhất Vĩnh Yên này. Cây mới là vốn liếng quí hiếm trời cho riêng đầm Vạc. Một khách sạn dù tiện nghi đến đâu, cũng không thật khó kiếm. Năm sao, ba sao, đâu chẳng có ! Còn cây cổ thụ, rừng nguyên sinh ngay giữa phố, thì hỏi có mấy nơi có được ?

Tuy nhiên, điều khiến tôi thích thú hơn cả chưa phải ở đó.

                                                  Một lần tới gần gốc cây sữa lớn, tôi bỗng thấy quanh gốc vãi trắng xoá một màu vôi. Thoạt trông, cứ nghĩ là thứ vôi thừa người ta hắt bừa bãi ra đấy, sau khi quét một nước bao quanh gốc để ngăn sâu bọ từ hồi đầu xuân. Nhưng, tôi ngờ ngợ ngay. Cái màu trắng quen quen này thật giống ở cây đa đồng Màng thuở nào. Nó nhắc rằng không phải vôi. Mà là cứt cò. Cứt cò thật ! Ôi, giữa chốn phố xá, giữa khách sạn khá sang này, lại có những lớp phân cò dày đến thế kia sao ! Nghĩ đến cứt cò có thể rơi thoải mái chốn này, tôi không khỏi ngỡ ngàng, khoái chí. Và càng khoái hơn khi nhận thấy, cùng rơi trong sắc nắng chiều không chỉ có những bóng vàng của lá, mà còn có cả những giọt trắng lấp lánh của phân cò. Có cứt cò dày, tất có cò xôm tụ. Hẳn là cò ở đây phải đông đúc đàn lũ.

                           Bấy giờ, tôi mới ngước lên, và giật mình : trên tán cây nào cũng lấp ló những tổ cò, thập thò những cổ cò, và chốc chốc lại thấy những bóng trắng vỗ cánh bay ra, bay vào, cánh vỗ làm xao động những cành xanh. Chi chít trên mọi tán xanh quanh đây là những tổ cò như vậy. Và vọng từ trên cao xuống là cái tiếng quào quào khàn khàn quê kiểng quen thuộc của loài cò. Chỉ chăm chăm đi dưới mặt đất này, thì không thể biết trên tầng cao có một thế giới cò.

                                                          Bỗng dưng, tôi nhớ ra, ở châu lục nào đó, có những bộ lạc cư trú trên cây. Họ cất nhà trên những cành cao. Họ sinh con đẻ cái trong những cái nhà như cái tổ ấy. Nhà này nối nhà khác bằng những thân cây mảnh bắc làm cầu. Cuộc sống của họ là chuyền cành. Quanh năm suốt tháng, chả mấy khi cần xuống mặt đất. Với họ, mặt đất dường như là nơi của hiểm hoạ. Sống trên cây, sống với cây, họ thấy an toàn hơn. Đời này sang đời khác, sống trên ngọn cây đã thành tập quán của bộ tộc này.

                  Thì cò kia cũng thế. Cò đã cư trú quanh đầm Vạc tự bao giờ ? Vạc đã nhường chỗ lại cho cò, hay cò chỉ đến tiếp quản vùng đầm này sau khi những gia đình vạc cuối cùng đã phải xuất dương di tản ? Hay chúng đều là nạn nhân của cuộc càn quét, nhưng cò bé hơn đã may mắn đựợc tạm tha nên còn sống sót thế ? Tôi không trả lời được những câu hỏi ấy. Chỉ biết, giờ đây, trên tầng cao của đầm nước, có cả một làng cò. Cò là cư dân của cái làng định cư trên cao ấy. Và, liên hệ giữa cuộc sống dưới mặt đất với cuộc sống trên cao kia là lớp phân cò này. Lớp phân ấy mang thông điệp về một cộng đồng sinh sống ngay bên trên đời sống của mình đây. Cộng đồng ấy ẩn khuất, hiền lành, thân thiện.

                    Cộng đồng ấy cũng nhọc nhằn, cũng lam lũ. Nhưng cũng ấm cúng, sum vầy. Ngày nắng ráo, cò bay ra đầm kiếm mồi nuôi con. Ngày dông gió, cò cũng lui cui ướt hết cả mình che chở cho lũ con nháo nhác. Trong những ngày ở đây, có đôi lần, dông lớn đã hất tung những chiếc tổ ra khỏi cành. Có con cò con đã văng ra khỏi tổ, rơi xuống đám phân đã bị mưa làm cho lõng bõng. Cứ lẩy bẩy, kinh hoàng, cầu cứu. Cò mẹ xà tới, bay liệng xung quanh, lên lên xuống xuống mà bất lực, vì chẳng làm thế nào để cắp được con lên tổ. Lúc ấy, trong đoàn tôi đã có người chạy ù ra ẵm về. Chẳng biết những lần khác, nó có được nhân viên nào đón về ủ ấm và cho ăn không ?

                         Một chiều kia, lại đi dọc những hàng cây cao vút ấy, bất giác tôi thấy mỗi cây cao như một chiếc cột. Cả hàng cây chạy dài như hàng cột chống cho một mái nhà lớn xanh miên man, ở tít trên cao. Và lập tức nảy ra trong tôi một liên tưởng ngộ nghĩnh: mái nhà ấy chẳng phải là một khách sạn xanh hay sao ? Khách sạn ba sao này nằm lọt giữa khách sạn xanh đó. Chúng tôi là đoàn khách tạm trú của cái khách sạn dưới này. Còn cò là khách thường trú trên cái khách sạn cao kia.

                                                         Dưới này, theo dòng năm tháng, từng đoàn người cứ đến, rồi cứ ra đi. Còn những cư dân thường trú kia thì ăn đời ở kiếp ngay trên đấy. Cư dân làng cò mới là cái bền vững, không di dịch của cuộc sống chốn này. Khi ấy, một niềm tin gần như chắc chắn đến trong tôi rằng: cái làng cò trên tán xanh kia mới là tương lai của đầm Vạc. Và những giọt phân cò trắng đang rớt xuống từ trên cao cùng với nắng vàng và lá vàng đó, hoá ra, lại là một đường link độc đáo kết nối hai cuộc sống với nhau : cuộc sống người và cuộc sống cò.

                   Nghĩ thế, tôi thấy chốn này thật thân thiện an lành. Còn gì an lành hơn thế khi sinh thái phố phường đang ngày một cạn kiệt, ô nhiễm, ô trọc, mà ở những chốn như thế này lại có một cuộc sống xanh êm đềm thế. Rồi người ta sẽ tìm về đầm Vạc chỉ vì mộ tiếng làng cò này. Họ đến đây để được nghỉ dưỡng trong bóng cây của làng cò, trong tiếng kêu xào xạc như từ ngàn xưa vọng lại của loài cò, để được hưởng cái điệu sống êm đềm của thiên nhiên mà mỗi bóng cò bay dập dờn như nhịp múa hoà điệu, một nhịp phách hoà âm. Nhờ làng cò ấy mà một khách sạn dầu chỉ ba sao cũng có thể thành nhiều sao.

                    Song, ra khỏi con đường nhỏ chỉ vài bước, tôi đã rùng mình vì thấy một đống rác lớn với từng đám lông cò trắng phau, gió đang thổi tứ tán. Từng chiếc lông bị thổi dạt cố bám bíu vào đầu ngọn cỏ lắt lay, cứ lơ phơ như những bông tuyết. Vậy là nguy rồi. Cuộc săn đuổi vẫn rình rập đâu đây. Vậy là những tổ cò trên kia vẫn chưa thoát khỏi cái nguy cơ giống như loài vạc rồi. Chao, nếu một ngày kia, cò cũng mất đi như vạc, thì đây sẽ ra sao ? Mỗi cây kia chỉ còn là những căn nhà trống không. Cả rặng cây cổ thụ như vạt rừng nguyên sinh này sẽ chỉ còn là một khu làng bỏ hoang của cò. Và cái khách sạn ba sao đây chắc chỉ còn là những xác nhà mất hồn, mất vía.

Nghe nói, năm mươi năm trước đầm Vạc vẫn còn vạc.Năm mươi năm trước, cây cũng nhiều hơn. Liệu năm mươi năm sau, rặng cây này có còn nữa không, hay chúng cũng phải chịu chung số phận với cây đa đồng Màng của tôi ?

Và ngày ấy tôi trở lại, liệu dưới mỗi gốc kia có còn vãi trắng những lớp phân cò, hay chỉ còn thấy những mớ lông lả tả ven đầm, mà khi nhìn kĩ, mỗi chân lông hãy còn nguyên một giọt máu ?

Đầm Vạc, 7-2013

Đừng bao giờ ngừng yêu

Đ ôi khi, chỉ là đôi khi thôi nhé, muốn chạm tay hái mặt trời. Muốn tất bật những ngày vui, muốn chiêm bao những ngày buồn. Mặt trời có khi nào cạn lời thế gian?
Mặt trời là kẻ cô đơn nhất đời. Băng qua tối tăm vượt qua hỗn mang, thân phận nó được lập trình hoàn hảo bởi nguồn năng lượng của chính nó, vỡ òa những màu xanh trên mặt đất này, nóng bỏng những sinh sôi ở vạn vật này. Vậy nhưng loài người yêu thương nó, muốn ngắm nhìn nó thì cũng phải đợi lúc nó hấp hối sau những núi đồi hay khi nó bắt đầu manh nha tái sinh trên những mênh mang vô cực.
Có những ngày nhức nhối gió mưa, loài người muốn tìm kiếm nó để yêu thương an ủi, để chia sẻ những tanh hôi nhơ nhớp bùn lầy, để ấp ủ hi vọng sự choàng tỉnh tinh cầu. Nhưng nó biệt tăm biệt tích trong những thế lực chớp giật mưa giông. Nên, nó là kẻ chỉ có thể cho đi mà không thể nào nhận lại. Đó là bi kịch mặt trời, bi kịch của ánh sáng.

Đừng bao giờ tin rằng ở đời người ta chỉ cần cho đi chứ không cần nhận lại. Nói không cần nhận lại là một sự giả tạo bác học. Mặt trời cũng thế, nó chẳng bao giờ muốn cô đơn và hơn tất thảy ai ai cũng ước thà là một thứ bình thường để sòng phẳng yêu thương còn hơn là một thứ chói chang chủ nợ cô độc. Tôi nợ mặt trời một cuộc đời, bạn nợ mặt trời một nhân sinh, dương gian nợ mặt trời một bầu sinh khí.

Một ngày, nhiều ngày, trăm vạn ngàn ngày mặt trời cày xới thế giới này, nuôi nấng thể xác, ban ơn minh bạch, tặng thưởng hào quang, định đoạt hưởng dương, dẫn truyền nhiệt huyết. Kẻ thù truyền kiếp duy nhất của mặt trời là hồn ma, đừng bao giờ nghĩ hồn ma dật dờ, hồn ma luôn vội vàng, vội vàng như thứ cà rồng run rẩy thối rữa chạm bình minh.

Cho nên những kẻ tối tăm thường nỗ nực và biết quý trọng thời gian hơn là đám người minh bạch. Bởi vậy đôi khi, thường khi, nhiều nhiều khi sự minh bạch chết một cách bất đắc kỳ tử, ánh sáng trở lại thì cũng chỉ phơi bày thêm một nghịch lý, đó là: bóng tối hồn ma đã nhiều lần bóp cổ quang minh, bức tử ánh sáng.

Mặt trời cứu thế, mặt trời cứ nô bộc trong cái vòng quẩn quanh sinh tử, nó cần cù tô vẽ màu xanh, nó vươn vai khấp khởi hình hài, nó miệt mài bao tường chắn lũy. Nhưng đôi khi, lại là đôi khi chỉ một đêm thôi loài sâu vô danh đã nuốt chửng đền đài, đã cạn kiệt mầm nhựa, đã nham nhở thiên thanh, đã tanh bành thế cuộc. Chạm tay hái mặt trời để treo ngược bóng đêm, chạm tay hái mặt trời để mang về làm thuốc chế bùa trừ yêu.

Cứ nghĩ, cứ tưởng, cứ thản nhiên rằng mặt trời là chủ nợ, là một kẻ luôn ban ơn, bố thí niềm vui, sự an lạc và ánh sáng đến thế giới này. Nhưng thực tình mặt trời lại cũng là một con nợ chúa. Bởi nó yêu thương thế giới này nên nó phải đa mang, đã yêu thì phải làm cho kẻ được yêu hạnh phúc. Cho nên mặt trời muôn đời cuồng nhiệt, giả sử nó không xuất hiện đều đặn như một nhịp sinh học thì nhân gian lấy ai đếm ngày tính tháng, làm gì còn sinh tử, làm gì còn cát bụi. Thế nên mặt trời biết mình mắc tội, mắc nợ với đời. Muốn thoát khỏi chữ nợ xin hãy ngừng yêu thương.

Một buổi tà dương, tôi lang thang trên những phố đời tẻ nhạt, bỗng thấy mình như một đứa thiếu dương khí. Thời gian nhợt nhạt trên những đôi môi cười, bóng tối bon chen trong những ánh mắt người. Dửng dưng cụp mi. Tôi cũng nhận ra sự cô đơn của mình, sự cô đơn mà biết bao những người cô đơn từng cô đơn như tôi.

Những sắc màu thẫm đỏ mà loài người thường gọi là hoàng hôn đang dìm những tinh khôi và luồn lách hòng bóp cổ dòng thủy triều đang dâng đầy ở đâu đó. Chỉ khi thiếu yêu thương con người ta mới thấy cô đơn, chỉ khi thiếu yêu thương vạn vật mới cảm giác hụt hẫng dương khí. Tôi mê man nhoài vào không gian, những tưởng chạm tay hái mặt trời. Mặt trời của tôi, mặt trời của bạn và của bao người đang yêu thương bạn. Đừng bao giờ ngừng yêu…