27 C
Hanoi
Chủ Nhật, Tháng 10 19, 2025

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...

Hát những giai điệu yêu thương

T huở còn thơ dại, tôi là...
Trang chủ Blog Trang 65

Xóm cũ

Những gương mặt người. Những nóc nhà thưa. Những cây cầu khỉ. Mỗi khi nhớ về xóm cũ, hiện lên ngay trong đầu cái phác họa giản dị đó, cùng những cánh đồng, mảnh vườn xanh xanh đậm nhạt bọc quanh. Một con đường khấp khểnh băng qua xóm, bên lối đi lau sậy chập chờn.

Và hai cái ti vi trắng đen, niềm vui, nỗi xao xuyến không tan của đám trẻ con nghèo, khi những rạ rơm, ao đìa, những trò nghịch trèo cây hái trái đã tạm khép cùng ánh sáng mặt trời. Chỉ còn đêm dài lắm. Nhiều lúc ngó mưa sụt sùi nhớ cũng mưa vầy, cũng những tối nhão ướt như vầy, mình ngoi ngóp trùm cao su đi coi ti vi. Lội bộ cũng xa, mò mẫm trong màu trời nhập nhoạng mà hớn hở như đi hội. Tối nào tụi trẻ con trong xóm tối nào cũng xúm lại hai nhà giàu sang nhất xóm (vì có… ti vi), dán mặt vào cái ánh sáng trắng lung linh kỳ ảo.

Có đứa cứ hết chương trình hoạt họa là ngủ khò, ngáy pho pho mà không đêm nào vắng. Vài đứa khác mơ mộng thật thà, cứ khóc òa khi vở cải lương tới khúc đoạn trường, cô Nguyệt bồng con tới nhà người yêu cũ. Đường về khuya lơ khuya lắc, bạn bè lần lượt tới nhà, cứ qua mỗi ánh đèn là vắng đi đôi bước chân. Rồi chỉ còn lại một mình, đi qua những lùm trâm bầu, lùm tre hình thù kỳ dị bên đường, tưởng tượng bao nhiêu chuyện ma quái, đêm nào cũng quắn đuôi bỏ chạy. Vậy rồi chiều lại, vẫn xao xuyến lặn lội đi hẹn hò với cái… ti vi.

Nên xóm thêm một nóc nhà, trẻ con mừng hơn cả. Đường bớt vắng, thêm một ngọn đèn, thêm bạn, cùng những điều lạ lẫm. Dì Tư sinh tố quảy thùng kem về xóm, với bảy đứa con gái môi đỏ tóc dài, mớ tiếng Huế rặt của nhà dì như mở ra một chân trời mới, cả xóm mừng rơn khi biết o đi mô, có nghĩ cô đi đâu vậy.

Trưa nào dì Tư cũng quảy thùng kem ngang qua xóm, dì gầy, đi hai hàng, cảm giác nếu chân dì mà thẳng thớm, thì sức nặng của thùng kem sẽ khiến dì té nghiêng té ngửa. Cứ xà bát hai hàng, dì rung chuông , sau tiếng chuông rung là tiếng chó sủa giòn tan, tiếng người lớn nạt mấy con chó, tiếng trẻ con xin tiền. Nghe như tiếng chuông của dì chọc nguậy vào một cái chảo âm thanh, khuấy nó lên, đảo đều rộn rã cho tới khi dì đi khuất.

Thêm một tiếng cười, lau sậy cũng bớt dày, đi vắng ba ngày đã thấy bên đường cặm một ngôi nhà mới, thấp tủn. Đất ven đường chỉ cỏ hoang mọc chen trong đá, bỗng thành cái rẫy dưa, bắp xanh rì. Ông Sáu Rẫy lại mở ra chân trời khác, làm bọn trẻ xóm nghèo há hốc với Bến Te, con cá zô bỏ vô zổ, nó nhảy nghe zột zẹt. Bà Sáu thì điếc đát, hỏi chiều nay ăn cơm với gì, bà nói zẫy không trồng khoai mì. Hỏi bà ơi bồ ngót bao nhiêu một bó, bà nói ừ, nhà có nuôi bốn con chó. Ông Sáu cuốc đất ngoài hè, nói vọng vô, “cái bà này, điếc mà hay nói…”, bà ngỏn ngoẻn cười, “tối đâu mà tối, còn mặt tời mà…”.

Ngày ông Sáu tới, rồi lại nhổ chòi tha vợ con về xứ, cả xóm vẫn chỉ gọi ông, nhớ ông vận theo nghề rẫy mà gia đình ông gắn bó. Như tên dì Tư gắn với thùng sinh tố, cà rem. Như quên luôn tên thật của bà Tám Bánh Cam, ông Mười Cốm Bắp. Gọi tên một người xóm cũ là gọi cả hình ảnh bàn chân chai, vết sẹo dài, bàn tay khô, màu da sạm… và tên những đứa trẻ đã theo cha mẹ đến đây, kết bạn kết bè. Bỗng một sáng vài đứa đi mất, mù mịt như chưa từng có ở trên đời.

Cuộc đời lại cặm vào mảnh đất bỏ trống một ngôi nhà mới, những đứa trẻ mới, một số phận mới. Người đàn ông đi chân giả lúc nào cũng bước cắm cúi, thằng bé con chú vác cái bụng to vèo đằng trước, chắc là nó ăn đất quá nhiều. Chiều đi ngang qua gặp nó đang gặm mớ rễ tranh – ba má nó đào bật lên để lên giồng gieo cải. Nó chìa tay ra, khoe “ngọt lắm!”, sau này nhớ lại, mắc cười, trẻ con có thể tiệc tùng kết bạn từ mớ… rễ cây.

Người lớn chậm rãi hơn, họ sẽ rề lại hỏi cư dân mới của xóm, anh thứ mấy, quê quán ở đâu mà tới đây, và ngó cái chân giả cứng đờ, hỏi anh bị thương ở trận nào. Phước Long hả ? Tui cũng bị cái thẹo bự này, ngay trận đó. Câu chuyện bỗng trở nên ngượng ngập, họ đã từng cầm súng đối mặt nhau, cùng nhau mang về những vết thương, vết thấy được đã lành, vết lòng vẫn rịn máu.

Nhưng người lớn biết cách chữa lành, bằng những điều đơn giản. Đem cho tô chè đậu xanh, nửa mục măng tre, phụ giúp nhau lợp mái nhà, cất chòi vó, sẻ nhau vài gánh nước mưa uống trong mùa nắng, mớ củi chụm qua mùa mưa. Ba của thằng Rễ Tranh đã thôi giấu mình trong lầm lũi, ánh mắt không còn ủ dột cặm xuống chân. Chiều chiều, ông còn vui vẻ tấp tểnh qua bên xóm uống trà.

Con đường xóm lông chông đá, lổn nhổn những ổ gà, hai mươi năm qua với tôi, vẫn là con đường đẹp nhất. Nó đưa đón những bàn chân tần tảo, nó chứng kiến những tấm lòng thơm thảo. Thỉnh thoảng tôi vẫn để nhớ dắt tay về chỗ ngồi yêu thích, vắt vẻo trên ngọn cây cao, ở đó, tôi thấy cô bé bưng dĩa bánh lá mít chan nước cốt dừa đang đi dưới mưa lất phất, tay nó cầm cái nón nhỏ lóng ngóng che đầu thì sợ bánh ướt, che bánh thì ướt đầu, cuối cùng, nó che nửa này nửa kia.

Đi một đỗi đường, cô gặp một thằng bé khác đang đứng chơi, cô sượng sùng nói, “má tao cho má mầy bánh”. Ở đó, tôi nhìn thấy chị hai mình, lúp xúp đội thúng rau muống, ngò gai đi chợ sớm mai, tôi nhận biết từng người quen trong xóm, qua nón, áo, qua cái dáng đi cắm cúi, xấp xãi, hớt hãi, tất tả, hay thong thả…

Họ mới là linh hồn của xóm. Sau này đi đây đó, đôi khi gặp lại vài khung cảnh y hệt như xóm-của-mình, nhưng xúc động chỉ thoáng qua rồi tạnh, bởi không có những gương mặt, dáng đi quen.

Bây giờ, xóm còn nguyên chỗ cũ, nhà tôi vẫn còn chỗ cũ, chỉ láng giềng không còn. Người đã dời đi tản mác. Người vẫn ở đó nhưng không phải là người của những năm xưa. Đôi lúc trên đường về, qua những ngôi nhà cao tầng kín cửa, qua những cãi cọ đôi co từng tấc đất, qua những bon chen háy nguýt, bỗng nghĩ, nơi đây từng có những người đàn bà, lúc xay bột làm bánh, họ không quên đong thêm vùa gạo để thơm thảo với láng giềng.

Bây giờ họ đã về đâu?!

Thương nhớ Thành Vinh

               Tôi vốn không sinh ra ở Vinh, cũng chẳng phải Nghệ An, nhưng gốc tích về một dòng họ luôn mách bảo tôi cúi đầu nguồn cội. Ấy là khi tôi mang Nghệ An như một mạch nước ngầm âm thầm xứ sở và đã bao năm bao tháng bao ngày chảy vào thương nhớ Thành Vinh.

Nhằm ngày rằm tháng chạp mỗi năm, về quê cha giỗ tổ, tôi thường được nghe bác trưởng họ nói về thủy tổ của mình. Gốc gác của tôi ở mãi làng Quỳnh nơi sóng mê mải hát, nơi gió mê mải nói về dòng họ Hồ ngàn năm. Thủa ấy tổ tôi đã giương buồm vượt khơi đến khai hoang lập ấp ở một vùng ven biển mà bây giờ là Thụy Trường – Thái Thụy – Thái Bình. Nói như vậy để phần nào bao biện cho cái vị thế Nghệ An và những khi tôi neo đậu Thành Vinh để mà nhớ thương khắc khoải.

Tôi là kẻ ham đi, ham vui, ham những chân trời xa lạ, một phần ba cuộc đời tôi đã bỏ lại sau lưng những hải cảng muôn trùng, những con người không nói tiếng Việt, những thành quách cũ, những đền đài gọi bão táp thời gian. Bởi vậy thương nhớ Thành Vinh có gì lạ đâu.

               Hà Thành có vẻ gì đó kiêu kì, cố đô Huế lại quá ư cổ kính thâm nghiêm còn Thành Vinh có chút gì đó khiêm nhường nhưng lại quá ư nồng hậu, hơi hướng cởi mở thân thuộc như phố Hoài phố Nhớ Hội An. Tôi từng viết ở đâu đó : Phố cổ ở Huế trang nghiêm và quí phái, như thấy đâu đây còn phảng phất ngựa xe âm tướng hồn binh, bởi vậy lại thấy kiêu sa hơn là thân mật. Nhiều những con phố tỉnh lẻ dọc đường ngang qua tôi lại thấy quá nhạt nhòa bởi thiếu vắng linh hồn… Nhưng chắc hẳn một điều sự vồn vã Nghệ An cái mặn mà Thành Vinh đều khiến những bước chân trở về. Lạ thật, sao ngày xưa tôi không yêu đổ một cô gái Thành Vinh.

Tôi đến xứ Nghệ lần nào cũng vội, có khi chỉ băng qua một đêm với những ánh đèn bàng hoàng sân ga, có khi dìu dặt trong gió để thoảng nghe mơ hồ từ phía dấu chân người đi biển. Vội vã và vội vã nhưng cơ hồ tôi đã mắc nợ xứ Nghệ mắc nợ người Vinh quá nhiều. Đôi khi chỉ là nợ một cái hẹn thôi mà mỏi mòn không gặp. Ấy cũng như một sự bất tín ở đời.

Thế nhưng cái duyên Nghệ tình Vinh cứ xoắn xuýt lấy cuộc đời tôi như một sân ga nườm nượp đi, bộn bề nhớ, ngổn ngang về, mà muôn trùng sấp bóng, mà hổn hển giăng tơ đợi chờ.

          Trở về quá khứ tôi là một sỹ quan hàng hải lại kiêm cái chức danh đại diện chủ tàu, bởi vậy mà tôi có cái quyền riêng: chiêu mộ nhân tài. Không hiểu thế nào những người thân tín bên tôi thường là người miền Trung, Nghệ An, Quảng Bình và đặc biệt là mấy anh đầu bếp.

Nhớ mùa hè năm ấy, phía bên kia bán cầu, nóng tới mức độ ở trong phòng điều hòa chúng tôi vẫn cởi trần một bầy, vậy nhưng các món ăn hàng ngày bếp trưởng vẫn không hề giảm ớt, giảm cay, đặc biệt là thứ ớt bột màu đỏ nồng tới hốc mắt, cay tới hốc mũi. Thủy thủ đoàn phàn nàn: anh ạ, anh xem thế nào, mọi người mọc đèn pin kín mặt rồi.

          Tôi gọi bếp trưởng lên phòng riêng nói chuyện phải quấy. Thế nhưng ngày hôm sau và ngày hôm sau nữa tình hình chẳng có gì thay đổi, đời vẫn cay và mặt vẫn đèn pin. Giữa buổi, tôi lẻn vào bếp và bắt gặp ngay lúc bếp trưởng ( anh Hùng ) tay cầm bịch ớt bột miệng vừa huýt sáo thẩy vào chảo thịt.

Quay ra nhìn thấy tôi anh giật mình rơi bịch ớt bột xuống sàn, ớt bay lên làm tôi chực khóc. Anh nói như mếu phân trần: em ạ ớt nó ngấm vào máu thịt anh rồi, bảo anh nấu nướng không cho ớt anh không làm nổi. Tôi đấu dịu: em không bảo anh phải từ bỏ, chỉ cần anh giảm bớt đi thôi.

             Vậy đấy có những thói quen tưởng chừng có thể bỏ đi dễ dàng nhưng với người Nghệ cái gì đã ngấm vào máu thì nó là của máu.

Đầu mùa gió năm ấy chúng tôi từ 3 độ nam ngược lên phía Bắc. Càng lên phía trên bầu trời ngày đêm xám xịt, sóng bổ nhào vào gió, gió bổ nhào vào tôi, con tàu lầm lũi bò như một ả rùa rụt cổ. Sáu ngày đêm thủy thủ đoàn chỉ ăn cháo cầm hơi vì thú thật ngồi cũng không nổi chứ mong gì ăn ngủ. Tôi quyết định cho tàu đi tiếp hải trình đã tác nghiệp mà không cắt ngang sóng để hòng mong gần bờ, vì lúc này cho tàu chạy ngang sóng thì quá nguy hiểm. Chỉ còn một cách duy nhất là đối mặt.

                             00h hôm ấy tôi lên ca thay cho thuyền trưởng, chúng tôi phải đứng để điều khiển tàu thay vì ngồi, bởi tất cả vật dụng trên tàu giờ đây ngổn ngang như một bãi chiến trường. Một lúc sau trong ánh sáng xanh phản xạ từ màn hình ra đa tôi nhận ra anh Hùng đang đứng cạnh mình tay cầm chai whisky. Tôi nói: anh xuống động viên anh em cố gắng ăn uống để giữ sức chỉ còn 80 hải lý nữa là tới Trung Quốc rồi. Tôi nói vậy để trấn an chứ thực ra 80 hải lý trong hoàn cảnh này dài như là thiên thu.

                Anh Hùng nói với giọng Nghệ đặc quánh: anh em mặc áo phao sẵn sàng cả rồi chỉ còn anh và em là không mặc thôi, giờ này anh biết em cần thứ ni này. Vừa nói anh đưa tôi chai whisky đã bung nắp, tôi cầm lấy ngửa cổ lắc và nốc. Sảng khoái tôi cười: vậy ý anh bảo rượu đã ngấm vào máu thì nó là của máu phải không. Cả hai anh em cười giòn như hai đứa khùng, trong phút giây của sống và chết tôi thấy thân thương quá Nghệ An, tôi thấy ngọt ngào quá Thành Vinh.

Bẵng đi nhiều năm không gặp, một hôm phẳng lặng như bao ngày dừng bước bôn ba, tôi nhận được cú điện thoại của anh Hùng. Lạ thay anh vừa nói vừa khóc trong điện thoại. Tôi hỏi: anh lại bị thuyền trưởng cấm bỏ ớt vào đồ ăn à? Anh khóc to hơn: anh nghỉ hưu rồi hôm nay anh gả con gái cho người ta rồi, vắng em, anh nhớ, anh khóc vậy thôi. Tôi lặng đi trong giây lát nhưng lấy lại ngay vẻ cứng cỏi năm nào nạt nộ: anh trẻ con quá, lo cho cháu đi, nhà trai họ thấy họ cười cho, anh em mình không gặp nay thì gặp mai chứ sá gì!

                          Nói vậy nhưng lòng tôi chùng vô hạn, tôi buông điện thoại, thoáng hiện lại trong tâm tưởng những con đường tôi và Hùng đã đi qua. Giọng nói, hơi khóc của người xứ Nghệ lại đặc quánh chảy vào trí não tôi. Tôi lẩm bẩm: nước mắt đã chảy vào máu thì là của máu.

Lại nói từ ngày tôi quăng neo ghim chặt lấy đời mình ở cái thành phố Vũng Tàu bé nhỏ thân thương này, nhiều khi đôi chân hát lời tù tội. Có những khi buổi sáng đi làm, chạy xe qua con phố Lương Thế Vinh, mùi cháo lươn, mùi súp lươn, mùi miến lươn như đánh bả vào khứu giác, làm tôi mê man tưởng mình đang lạc lối ở 51 Trần Quang Diệu quán lươn niêu đặc sản xứ nghệ nức tiếng Thành Vinh.

                          Người Vinh ở Vũng Tàu nhiều lắm, nhưng không hiểu sao mỗi khi tiếp xúc với họ điều làm tôi khao khát ấy là sự trở về. Trở về Thành Vinh mặc hồn dông dài những quán ăn quen, trở về Thành Vinh ngửa cổ lên trời mà cười hào sảng, trở về Thành Vinh mà đặc quánh ngữ điệu thổ âm. Ai bảo thương nhớ Thành Vinh.

Một hôm chẳng phải như bao hôm nào tôi đi mây về gió ngỡ mình đang ở Phượng Hoàng Trung Đô kinh thành do vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ, 1752-1792) xây dựng bên dòng sông Lam và núi Dũng Quyết. Tôi lại nhắc nhở mình về gốc tích dòng tộc, nhớ tới tổ tôi căng buồm thuận gió băng khơi, và lại trắc ẩn thương nhớ Thành Vinh. Những cái gì đã ngấm vào máu thì nó thuộc về máu.

Chuyện về cây cầu tình yêu

                            Tôi luôn ám ảnh bởi những cây cầu. Mỗi lần đi qua một cây cầu lòng tôi lại rùng rình những tưởng thân cầu đang tơ tưởng. Và chuyện về cây cầu tình yêu làm tôi đắn đo…

          Một buổi Frankfurt thành phố tự do, thành phố lớn một thời của đế quốc La Mã thần thánh, người nghệ sỹ già trầm ngâm với cây phong cầm, những bản nhạc về tình yêu như một cây kim vàng xuyên những kẽ nắng cuối ngày suồm suộm qua những chiếc khóa trên cây cầu tình yêu. Buổi chiều đẹp như một Love story hòng tan chảy vào những cái nắm tay thật chặt, những nụ hôn dìu dặt, những cơn gió không nỡ ngoảnh mặt, những đôi mắt tím bặt thủy chung.

Tiếng đàn lúc so se như gió, khi réo sôi như nước, rồi đôi khi thênh thang dư thừa năng lượng mà đôi vai lắc lư, đôi tay mải miết. Những đôi tình nhân ngang qua đây, ngoắc chiếc khóa của chúng mình vào những thanh sắt hoa uốn cong trên cầu, không quên lấp đầy khoảng trống hầu bao người nghệ sỹ. Ai đời lại keo kẹt với một kẻ đang ca tụng cho tình yêu lứa đôi.

                      Rồi lại có những buổi trưa vắng, tiếng mài dũa của người thợ khóa bung nở như nụ tầm gai, lắt léo những đoạn nắng rát bỏng xuyên qua những chiếc khóa trên cây cầu tình yêu. Thường là một vài cô gái, có cô khóc, có cô mặt mũi tối bưng, các cô bước nhanh qua chỗ của người nghệ sỹ già ôm đàn phong cầm, ở cuối cây cầu là một gã thợ khóa, không già, không trẻ, nhưng lúc nào cũng vén môi mỉm cười. Gã sẽ nhanh chóng kết liễu đời khóa, những chiếc khóa tình yêu mà chú bùa hết phép. Và rồi người ta cũng không quên dúi vào tay gã một nắm tiền không cần ngã giá. Ai đời lại đi mặc cả với một người vừa nhổ ra khỏi trái tim mình những nụ tầm gai.

                          Một buổi Đà Nẵng, dòng sông ngọt lành hạnh ngộ. Tôi gặp lại Lâm và Huyền sau nhiều năm xa xôi. Lâm hơn tôi 4 tuổi nhưng chưa vợ, Huyền thua tôi 8 tuổi chưa chồng. Xưa lắm chúng tôi tình cờ gặp nhau, quen nhau, thân nhau trên một con phố đêm Đà Nẵng sạch sẽ mát rượi như lọn tóc thề. Cả ba cứ dính lấy nhau vì một thứ âm nhạc đường phố, Lâm là đàn anh hào sảng, hiếu khách, còn Huyền là cô gái cá tính, chơi guitar thần sầu.

              Ngày gặp lại, ba anh em chúng tôi như khướu tập hót dông dài đủ thứ tiểu thuyết đời mình, mặn nhạt, ngô khoai đủ cả. Lúc ngang qua cây cầu tình yêu, mấy cặp tình nhân mặt búng ra sữa, bấm cái “tạch” chiếc khóa nguyện cầu, rồi quăng cái “chọp” chùm chìa khóa xuống dòng sông vô ưu. Huyền nháy mắt nhấm nhẳng, còn Lâm buông một câu kịch độc: xí hồi nó không vừa khóc vừa thuê thợ mở khóa mới lạ, có đứa còn chửi thề cho coi. Huyền chua xót: cái cha này, người đâu mà ác mồm.

Tôi nhớ lại kịch bản ở Frankfurtquay sang cười hiền: Anh Lâm này em tính Huyền sẽ ngồi chơi guitar đường phố ở đoạn đầu cầu, còn ở cuối cầu anh làm một ông thợ bẻ khóa, mà cũng chẳng phải mất công học thợ khóa làm gì, anh chỉ cần sắm đồ nghề đơn giản là 1 cây kìm cộng lực cỡ nhỏ thôi. Vậy đấy. Dư sức 2 người kiếm tiền rồi.

Huyền quay sang đập đầu tôi cái bộp, còn Lâm nhéo tai tôi, vừa nhéo vừa nhay: Thằng quỷ, nhẽ chú mày phải như mấy cái ông tiến sỹ kinh tế chuyên ban phát giấc mơ làm giàu cho những kẻ thường xuyên nghèo mới phải, bỏ cái mộng văn chương đi… Nói rồi cả 3 no nê cười.

                       Tản bộ được một lúc, chừng như thú uống bia vỉa hè trong Lâm ngọt ngào trỗi dậy: này hai đứa, từ ngày có tí tuổi, chân anh nhanh mỏi lắm, kiếm chỗ nào ngồi làm mấy ve cái đã, rồi 2 đứa ca cho anh nghe mấy bản xem nào. Như vậy có phải là xả láng hơn không?

Chúng tôi ngồi lại một quán nhỏ bên đường, bên trên là những tán xà cừ xanh gắt, ngồi đây mà những chùm nắng lấp loáng trên những ổ khóa màu đồng thau vàng chóe vẫn cứ nhảy nhót trong tầm mắt tôi, trong những suy tư suồm suộm, những ám ảnh tầm gai.

Ba anh em gom cổ chai một tiếng “keng” rồi ngửa cổ uống những đoạn đời xa cách. Một nhịp, hai nhịp keng nữa, Huyền mở bao đàn rồi chậm rãi Tình sầu – Trịnh Công Sơn. “…Tình yêu như cơn bão, đi qua địa cầu. Tình thắp cơn sầu, tình dìu qua hố sâu, tình vời lên núi cao. Rồi trong cơn yêu dấu, tình đày tình xa nhau…”

                                              Tôi có lẽ là kẻ có căn cốt, dễ nhập đồng lên bóng, nghe Huyền đàn hát mà hồn tôi thoắt cái lại chạy xa đến cả ngàn km mất rồi. Tôi nhớ đến ở đâu đó trên miền ngược dân bản địa cũng thường xuyên nhắc đến một cây cầu tình yêu.Phải rồi trên đỉnh Nà Lay – Bắc Sơn – Lạng Sơn, có một cây câu nhỏ bắc qua một dòng kênh. Tôi nhớ một lần ngang qua đây vào mùa lúa chín, một bên nước mảnh mai nước, một bên lúa vàng mượt lúa. Cây cầu ấy không có những chiếc khóa vàng óng, không có những dòng tên người khắc chữ thanh tân, cũng không có một người nghệ sỹ đường phố ngồi ôm ấp phong cầm, lại càng không có một gã thợ khóa tầm gai.

                                    Hẳn là cây cầu rất bình dị và đơn sơ nếu không nói rằng nó có vẻ quê kệch. Vậy nhưng trong tâm tưởng của bao lứa đôi, trong yêu thương của bao kẻ hò hẹn, trong mưa nắng thời gian của mùa màng con nước, nơi đây thầm được gọi tên là cây cầu tình yêu. Nó âm ỷ giấu kín những thăng trầm, nó ủ muối lên men những bờ môi, nó găm vào thân cầu những lời hẹn ước, nó ăn đời ở kiếp vào những mố cầu ngọt ngào thanh xuân. Vậy đấy, không phải đao to búa lớn, không phải ràng buộc nhau bằng những ổ khóa vô tri, không cần phải hét toáng lên để thiên hạ cùng biết rằng chúng tôi đang yêu nhau. Cái khóa ghê gớm nhất mà không cần bùa ngải đại chú nó lại vô hình dưới bao nhịp thở đều đều nhân gian.

                                        Quay trở lại với thực tại, sông Hàn hình như có vẻ bối rối trước giọng ca tiếng đàn của bạn tôi. Lâm ngồi đó, chừng như nhấp nhổm muốn đứng lên ngắm nhìn một điều gì. Có lúc anh khàn khàn phụ họa: “… Tình yêu cho anh đến, bên cơn muộn phiền, tình đi âm thầm, nghìn trùng như vết sương, lạnh lùng như dấu chim. Tình mong manh như nắng, tình còn đầy không em? …”

Người nơi biên giới

“Không còn ghét người cha quá cố, nhưng thằng con vẫn không sao dứt thương mẹ, cái cảnh người đàn bà để nguyên bộ mình ướt sau khi kéo cá dưới ao đãi khách của chồng, bưng tô cơm nguội ăn với muối tiêu.”

     Tụi bạn tôi vẫn nhớ ông già cậu. Chịu chơi hết cỡ. Có bữa tôi đưa mấy thằng bạn đi chơi, tới khúc Láng Gáo thì gặp mưa, ghé nhà cậu đụt. Ai ngờ mới nói ba điều bốn chuyện, ông già cậu đi bắc nồi nước sôi vật con heo nhỏ ra mần, nhậu. Đám bạn tôi bị ổng xây chừng cho xỉn quắc cần câu, chục năm sau vẫn khen gặp đúng dân miền Tây thứ thiệt, nhiệt tình đến mức khách thấy không nỡ ra về”.

     Thằng con hay nghe người ta nhắc tới cha mình, mỗi khi nó trả lời câu hỏi quê xứ ở đâu. Cái tên Láng Gáo vừa nảy khỏi môi thằng nhỏ, họ kêu lên “ờ, khúc đó tôi có biết ông nông dân chơi được lắm”. Chơi được, móc ruột gan ra đãi khách, hết mình, phóng khoáng, hào sảng dễ sợ, những từ ngữ mà người ta mô tả ông già khiến thằng con chóng mặt, đôi khi. Những cái vỗ vai thân tình nó nhận được của lần gặp đầu tiên, đã được người cha nhóm lên đâu từ năm, mười năm trước.

“Mà lúc tụi tôi ngồi ở nhà cậu nhậu, cậu là đứa nào trong đám nhỏ nheo nhóc ở chái sau?”. Ờ, lúc đó mình làm gì, ở đâu, thằng con tự hỏi. Mình chắc đang giành cơm cháy rưới nước mắm với mấy đứa em gái, đang rượt bắt con gà mái đẻ cuối cùng trong bầy để hầm sả đãi khách. Hoặc mình phụ mẹ dọn mấy nhánh chà dưới ao để chài cá trắm cỏ. Cũng có thể mình đang khóc nức nở ngoài vườn, thương con Lá vừa bị giết thịt lúc trưa.

     Lá là con heo bảy tuổi, nhưng chỉ vừa với vòng tay trẻ lên mười của thằng con, khi đó. Con heo đèo đẹt lúc rã bầy không ai rước, mấy đứa nhỏ xin má giữ lại làm thú cưng trong nhà. Lá không chịu lớn, như món quà trời cho đám trẻ nghèo. Lũn đũn quấn theo chân tụi nhỏ, trò nào không có nó thì mất vui. Lúc cần thì êm mượt như búp bê nằm lim dim trên tay con gái, cũng có khi Lá xồng xộc lội càn qua kinh theo đám nhóc bắt chuột đồng. Một bữa tụi nhỏ đi học về, thấy con Lá nằm phơi bất động trên sàn nước, trắng phau như nhồi bằng bông, khoang bụng mở ra trống hoác.

     Nhà có khách. Nhà vẫn thường có khách. Có tới sáu bài báo mà thằng nhỏ còn giữ lại, viết ca ngợi gia đình nó, rằng đi tới miệt này mà không đặt chân đến vườn cò coi như chưa biết Láng Gáo, nhưng đi vườn cò về mà không ghé nhà Hai Võ ở đầu kinh thì không biết nết chơi của dân miền Tây. Hỏi huyện trưởng tên gì không nhiều người biết, nhưng hỏi người chịu chơi nhứt xứ này, cả xóm đều nói “Hai Võ chớ ai”. Nông dân, học không tới đâu, cũng chẳng giàu có, nhưng cha thằng nhỏ nổi tiếng vì hiếu khách. Nếu lá dừng vách nhà có thể ăn được, có khi ông dỡ ra đãi thiên hạ luôn. Ăn nói không tệ, ít thôi nhưng lời nào đáng lời ấy, kiểu như bẻ đuôi lươn cho khách, thể nào ông cũng buông câu “nhứt đuôi lươn, nhì cái lườn con em vợ”.

     Bầy trẻ lớn lên, quen với cảnh khách lảng vảng trong nhà. Có khi họ còn ngủ lại vài đêm. Cha tụi nó hay nói “ở đời phải duyên mới gặp, chớ đâu mà dân tuốt ngoài thủ đô cũng ghé chơi”. Hồi đầu tụi nhỏ còn tiếc những thứ ngon bưng mời người dưng, sau sẵn sàng ăn cơm với kho quẹt nhường vịt luộc phay cho khách, như thường.

     Những đồ ăn dư sau buổi họ ra về, tụi nhỏ háo hức vét dĩa bất kể chúng phảng phất thứ rượu đổ tháo khi cụng ly cụng chén. “Khách ăn thì còn…”, câu đó bà mẹ vẫn nhắc đám trẻ hoài, bằng sự nhẹ nhõm của chính bà. Chồng kéo khách về nhà, dù nửa đêm, vợ vẫn vui vẻ đốt lửa nướng cá khô. Chưa bao giờ trong nhà cạn thứ rượu thơm dịu bà tự nấu. Chồng biểu làm gà bà trói gà, kêu làm cá thì te te đi lưới cá. Bữa tụi nhỏ khóc con Lá quá, bà mẹ kêu ra vườn mà khóc, đừng để khách nghe, họ buồn.

     Đó là lần đầu tiên thằng con oán cha, ghét những người khách trong nhà mình. Nó thường bỏ đi mỗi khi có người lạ ghé. Có lần trèo cây me trên đường, người ta hỏi nhà ông Hai Võ, thằng nhỏ chỉ qua bên đình Gáo.

     Mớ danh thiếp khách để lại, người cha tưng tiu đem cất trong tủ áo mỗi năm mỗi dày thêm. Một bữa thằng con tính hốt đem đi đốt. Ngồi coi từng miếng, nhận ra những người từng làm khách nhà nó, họ ở khắp nơi, làm đủ thứ nghề. Lúc đó thằng con đang thất nghiệp, buồn tình gọi vào một số điện thoại hú họa chơi, ngờ đâu đầu dây bên kia hồ hởi, “Ai chớ con của Hai Võ Láng Gáo là tao chịu liền. Công ty đang tuyển lính giao hàng nè, đem hồ sơ tới ngay. Ờ mà, thằng cha mày còn mạnh giỏi?”.

     Ông già đã về đất hồi đầu năm. Đám tang đông người đến tiễn. Ở tỉnh người ta còn gửi mấy vòng hoa tươi xuống, khiến cuộc tiễn đưa thường dân Hai Võ ngang hàng với chủ tịch xã vừa đột tử trước đó. Ai đó làm thơ trật nhịp đọc trước khói nhang, “Anh mở lòng ra với đất trời/Chịu chơi đâu có sợ mưa rơi/Anh đi chỉ tụi này ở lại/Láng Gáo về đây chơi với ai”

      Nhưng ông già vẫn sống theo nghĩa nào đó, thằng con nghĩ vậy. Đó là những lúc nó nhận được cái vỗ vai, cái bắt tay mừng tủi như người thân thiết, nghe họ nhắc “hồi tao tới chơi, ông già mày hồi xưa vét lúa giống đi bán để mua mồi nhậu”. Thằng con thấy mấy chữ “khách ăn thì còn…” không phải không có lý.

Chỉ là, nó không sao quên được bữa cháo gà còn dư đám nhỏ ăn xong xỉn queo vì rượu khách đổ trong ấy, không quên chót đuôi con heo Lá còn phất phơ lông trên sàn nước. Mẹ nó kể lúc bị bắt Lá giãy dữ quá, cây mác vót xớt đứt đuôi. Thằng con không quên cảnh mình ngồi bờ vườn, khóc thôi là khóc.

Không còn ghét người cha quá cố, nhưng thằng con vẫn không sao dứt thương mẹ, cái cảnh người đàn bà để nguyên bộ mình ướt sau khi kéo cá dưới ao đãi khách của chồng, bưng tô cơm nguội ăn với muối tiêu..

Hoa và người Hà Nội

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An…

Ai mà chẳng biết câu ca xưa ca ngợi nét đẹp thanh lịch của người Hà Nội và truyền thống văn hoá ngàn đời của người dân thủ đô. Lại có câu “ Người là hoa của đất…” để nói về hoa  và con người Hà Nội. Mong sao hoa cứ đẹp như người và con người sẽ mãi được tôn vinh cùng hoa.

                         Sau 10 năm sát nhập và mở rộng địa giới của Thủ đô Hà Nội, nét đẹp thanh lịch của người Tràng An và Xứ Đoài có bị pha tạp? Chắc chắn sự lịch lãm và tinh tế sẽ luôn gắn với vẻ đẹp văn hoá cổ xưa và nét đẹp hiện đại của Hà Nội để nét đẹp truyền thống được kế thừa và nâng cao thêm. Vẻ đẹp ấy hội tụ cả sự hào hoa, lãng mạn xưa và nay cùng những giá trị nhân văn ngàn đời của thủ đô. Khi nói tới sự tinh tế, yêu đời và tính nhân văn của người Hà Nội, đặc biệt là những giá trị tinh hoa, thơm tho, tinh tuý và hồn cốt của con người Tràng An và Xứ Đoài ta không thể không nhắc tới vẻ đẹp của hoa.

                                                     Nói đôi lời về hoa và người Hà Nội như vậy để ta hiểu thêm vẻ đẹp và sự tinh tế của mỗi loài hoa. Bạn có bao giờ quan sát kỹ về nét đẹp của từng loại hoa trên phố Hà Nội và hoa trong mỗi căn nhà khi mùa về? Bạn cảm nhận như thế nào về mỗi loại hoa trên phố và nghĩ về thân phận mỗi con người đều gắn bó với nhau và với hoa ra sao? Tôi muốn chia sẻ những suy ngẫm và chút cảm xúc trước vẻ đẹp của hoa trong ngày xuân này.

Không chỉ khoe sắc thắm trong những khu vườn tít xa tận ngoại ô, nơi Hà Tây, Xứ Đoài, hay tận Sóc Sơn…Mỗi loài hoa trên phố Hà Nội cũng rất đẹp. Chúng mang theo hơi thở của mùa và lặng lẽ làm duyên làm dáng cho thành phố trở nên bớt căng thẳng ngột ngạt và dường như bớt đi cả sự ồn ào và bụi bậm. Hoa phượng vĩ đỏ rực, hoa sữa trắng xanh mơ màng, hoa bằng lăng tím mộng mơ, hoa điệp vàng sang trọng, hoa ban đỏ nhớ xuân Tây Bắc, hoa sấu từng chùm nhỏ nhớ tuổi thơ và mùa hè…Mỗi loài hoa gợi nhớ mot sắc màu của yêu thương và hoài niệm.

                      Hoa trên những con phố Thủ đô luôn nở rộ trên những đại lộ, bên khoảnh hiên của những ngôi nhà hay thấp thoáng trên từng ô cửa sổ, thậm chí trên cả những vòm ban công chật chộinhất Mỗi loài hoa đều thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam chúng ta và mỗi người hãy nâng niu, chăm sóc và hãy biết thưởng ngoạn những vẻ đẹp của chúng.

                                                    Hoa trong mỗi căn nhà còn được chăm sóc và nâng niu hơn. Đằng sau vẻ đẹp của mỗi loài hoa, ta thấy như thấp thoáng bóng hình của những người phụ nữ. Người chơi hoa phải biết trân trọng và nâng niu chúng như nâng niu người phụ nữ của mình. Chẳng thế mà nhiều nhà thơ đã dâng đầy cảm hứng trước hoa. Nhà thơ Đàm Khánh Phương là một ví dụ, ông đã có những câu thơ hay để “ Tạ lỗi trước hoa”:

Không chỉ là hương thơm nồng nàn của “Hoa Sữa” dìu dặt trong ca khúc của nhạc sỹ Hồng Đăng, mỗi khi nhắc tới Hà Nội, còn có bao loài hoa khác rất phong phú đủ các sắc màu đang hé nở và rộn ràng báo hiệu mùa đã về trên phố.

                  Đêm Hà Nội trở nên thi vị hơn với bao làn hương quyến rũ mà từng loài hoa vẫn phảng phất tỏa hương trong đêm như hương ngan ngát của dạ lan hay thiết mộc lan… Mùa hè dường như cũng đỡ oi bức hơn.Sau những ngày mưa kéo dài, mùa hè lại về với cái nắng vàng đổ lửa chói chang .

                                                    Từng chùm phượng vĩ đỏ rực cùng tiếng ve ngân như báo hiệu mùa thi cùng những ngày nghỉ hè đang tới. Những hàng Bằng Lăng mới trồng trong nhiều năm gần đây đang phô sắc tím tưng bừng trong tán lá xanh mát. Còn những cây phượng vĩ thì dường như nhiều tuổi hơn và cũng trầm tư hơn với thân hình xù xì mang đậm những dấu vết thời gian.

                               y thế, nhưng khi sắc đỏ của chúng cháy rực trên nền trời cao xanh thì chẳng có loài hoa nào sánh kịp. Có lẽ chúng có tính cách mạnh giống như những phụ nữ tuổi trung niên bởi sự cháy hết mình cho tình yêu chăng? Sự mặn mà của loài hoa rực lửa ấy càng đẹp hơn khi ta nhìn xuyên qua tán lá xanh mỏng manh của phượng vĩ để ngắm bầu trời.

 

Mùa hoa Điệp nở vàng rực từng chùm cũng rất đẹp.Những cây Điệp Vàng được trồng rất nhiều trên các con phố đang dịp được bùng nổ những chùm hoa thật bắt mắt Loài hoa Điệp Vàng dưới nắng hè như đang nở bung lại được thiên nhiên điểm xuyết thêm những dãy nụ xinh xinh màu nâu, hai gam màu tạo thành sự đặc trưng rất đặc biệt. Chúng cứ khoe màu vàng rực và như khắc khỏa cháy hết mình trong nắng. Kìa, bạn hãy nhìn bầu trời mùa hạ trên đầu, có vẻ như cao xanh hơn và từng cụm mây trắng cũng trở nên bồng bềnh hơn.

                                                     Dạo quanh Hồ Gươm ta sẽ thấy những sắc hoa ven hồ với đủ các gam màu bắt mắt như tím, đỏ, vàng, trắng …càng trở nên nổi bật giữa nền trời xanh với bồng bềnh từng cụm mây trắng. Có một người trẻ tuổi đang ngồi thả hồn bên giá vẽ, chắc là sinh viên trường Nghệ thuật hay hội họa nào đó. Thiên nhiên và con người Hà Nội nơi đây chắc chắn sẽ là nguồn cảm hứng cho những bức tranh của anh thêm sống động và thêm phong phú khi phác họa về vùng đất Thủ đô. Hoa và người dường như đang rực rỡ trong nắng chiều.

Ngắm hoa để nghĩ về người. Hà Nội thiếu hoa dù chỉ một ngày cũng là tẻ nhạt. Hoa cũng có số phận riêng và mang hồn của chúng đến với muôn loài xung quanh. Nếu bạn lặng im ngắm nghía và trân trọng từng vẻ đẹp của chúng, bạn sẽ thấy mỗi loại có hình dáng, màu sắc, hương vị và tính cách của chúng rất khác nhau.

Chúng đều có thân phận và sự hấp dẫn riêng trong vũ trụ này sau những dâng  hiến hết mình, thậm chí  ngay cả từng bông hoa dại mà bạn hờ hững bước qua. Thử nghĩ xem, cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên khô cứng, nhạt nhẽo, buồn tẻ nếu thiếu vắng các loài hoa hay thậm chí chỉ là vài bông hoa cỏ.

                                     Có thể bạn sẽ nghĩ rằng tôi nói quá lên chăng hay sẽ cười nhạo tôi vì sự quá mơ mộng ở thời buổi kinh tế thị trường với nỗi lo cơm áo gạo tiền này. Nhưng ngẫm kỹ lại mà xem, bạn sẽ thấy có lý vì chẳng có nhà ai trong thời buổi này mà trong nhà lại không có ít nhất một cành hoa, chí ít cũng là một bông hoa, như nụ cười thân thương nở trong mỗi nhà….

Tiếc thay những làng hoa Hà Nội có tự bao đời nay đã dần mai một. Còn đâu một làng hoa Ngọc Hà với nghề truyền thống trồng hoa với rực rỡ sắc màu của đào, quất, cúc, hồng mỗi độ xuân về? Ngay cả những làng hoa Nghi Tàm, Nhật Tân cũng đang dần bị thu hẹp và có nguy cơ xóa sổ trong nhịp sống đô thị hóa và những công trình xây dựng cao ngất ngưởng.

                                           Còn đâu những gánh hàng hoa trên vai những người đàn bà dịu dàng và tần tảo vẫn thong dong đi trên hè phố, các chị đâu còn được chở hương sắc bốn mùa của thiên nhiên vào trong nỗi nhớ của những người đi xa Hà Nội như một hình ảnh nên thơ? Nỗi nhớ da diết ấy không chỉ xa xót với những người trồng hoa, mà như cồn lên trong lòng những người yêu hoa và những người thích thưởng hoa như một thú tao nhã rất đặc trưng không thể thiếu của Hà Nội- Tràng An và Xứ Đoài ngày nay.

Thiên nhiên và con người đã tạo ra bao loài hoa đẹp cho đời nhưng tâm hồn người Việt  còn đẹp hơn hoa. Chắc hẳn ai cũng biết câu:“Người là hoa của đất” để nói về vẻ đẹp của con người Việt Nam gắn bó với thiên nhiên và vũ trụ nói chung và gắn với vẻ đẹp của những người phụ nữ nói riêng.

                                                            Mùa về mang theo những loại hoa đặc trưng rất khác nhau được những người bán hoa chở vào trong phố bằng những chiếc xe đạp. Bây giờ hầu như rất ít khi ta thấy lại hình ảnh những chị thôn nữ gánh hàng hoa thong dong trên hè phố Thủ Đô như ngày xa xưa.Nhịp sống đô thị hóa đã làm mất dần những hình ảnh dịu dàng và thơ mộng ấy. Nhu cầu về hoa trong thành phố thì lại tăng lên và hàng loạt những cửa hàng bán hoa tươi gói sẵn được dịp lên ngôi ở khắp nơi trong thành phố.

                   Có lẽ vì mỗi loại hoa đều mang một thông điệp riêng, một vẻ đẹp riêng, một hương sắc riêng và mang cả sự hoài niệm, mong manh nhất cho dù có cả một loài hoa mang tên là Bất Tử. Hoa đẹp đến mấy rồi cũng sẽ lụi tàn, điều đó âu cũng là quy luật vốn có của tạo hóa và vạn vật trên đời. Mong sao người thưởng hoa biết nâng niu và không vùi dập hoa…

                                              Con người khi đứng trước một bông hoa đẹp đều ít nhiều xao động và yêu thích. Ngay cả cái chết cũng đẹp hơn, trang trọng hơn vì có hoa. Rồi thì sẽ đến ngày mà bất cứ ai cũng được viếng thăm phút cuối bằng hoa để giã từ thế gian. Có lẽ hoa cũng như con người, luôn mang vẻ đẹp của sự hiện hữu mà vô thường. Thử hỏi cuộc đời này nếu không có hoa thì cuộc sống sẽ trở nên nhạt nhẽo và cô đơn đến đâu?

Mùa xuân đang về bên thềm nhà. Người bên hoa và hoa bên người. Yêu lắm, tinh tế lắm, hoa và người Hà Nội. Ngoài kia, mỗi loài hoa xinh xinh đang chở mùa về trên phố.

Cái bóng của hoàng hôn

Tôi nhanh nhảu tuổi thơ, như quả na dại khờ ngỡ mình mở mắt. Tôi vắt va đầu hạ, tôi vắt vẻo chừng thu, tôi lập lù đầu đông, tôi mưa giông phố cổ, tôi chậm rãi ba mươi, tôi đi tìm cái bóng của hoàng hôn. Sau những lời thật như đồn. Ba lăm. Bốn mươi…bao nhiêu…

            Có những buổi hoàng hôn Hà Thành. Phố đổ lên hương bằng mùi sấu non. Phảng phất dư vị thanh thanh, mát nhẹ gan ruột, như bàn tay cô gái vuốt lên vòm tóc. Trời chiều đổ vào phố cổ, bóng cột cờ chin đỏ những trái tim yêu thương.

Có những buổi hoàng hôn giữa đường quê vàng rơm rạ. Xứ lúa. Thái Bình. Mái tranh rầu rầu. Khói bếp chao nghiêng bóng mẹ. In hằn lên tường những ngọt bùi thổn thức. Đồng xa. Con trâu trễ nải sáo diều.

            Có những hoàng hôn Hải Phòng bến cảng. Những con tàu rúc còi nhấn nhá luồng khơi. Người công nhân tan tầm, buông tay, đánh rơi mặt trời xuống dòng sông Cấm. Rười rượi phù sa.

Có những hoàng hôn thành Vinh. Phượng Hoàng Trung Đô chau mày núi Quyết. Sông Lam cười hiền giấu nỗi buồn lên gác bếp. Ủ những tiếng gươm khua. Hồn bay phách lạc quân thù.

             Có những hoàng hôn dấu chân không mỏi. Huế, mượn câu Nam Ai Nam Bằng dẫn dắt hương sen ngan ngát đến nẻo thiên đàng. Ngư phủ băng thuyền xé rách mập mờ đầm phá Tam Giang. Một điệu hò thôi mà mỏi gối sương chùng.

Có những hoàng hôn đi qua Hội An. Lòng chật chội tưởng nhớ những hẹp hòi phố lắng. Ánh đèn lồng dìm cả thinh không, vào chút nắng cuối ngày le lói vắng, trên chiếc Chùa Cầu, trên những vó xưa xe ngựa, phố Hoài, phố nhớ thâm u. Lục lạc tứ bề giục khói bay lên, ấp ủ đêm thiền.

Có những buổi đón hoàng hôn Đồng Tháp Mười, mặt trời nín sau những cánh chim, đàn ong vò vè giữ tổ, con cá quẫy đành đạch trong lạch, con sâu ngoe nguẩy trong kèn, hương tràm vật ngã những ánh sáng cuối ngày vào đất. Mê man. Bay lên.

            Lại có những hoàng hôn bầm dập bóng Đồng Văn, cao nguyên đá thở dài, bậm bọe đàn môi, phập phòe khèn Mông. Hoa mơ hoa mận bưng cánh hứng sương, phả vào núi, phả vào gió, phả vào ánh mắt người Mông ánh chiều lẳng lặng. Có cô gái đang nhen lửa trong xó bếp, cười một mình, khúc khích giật tối vào đêm.

Có những hoàng hôn mềm môi Sài Thành. Bia chan chứa bia. Rượu lặc lè rượu. Mặc ánh chiều say khướt. Mặc cơn mưa dông dài. Mặc phố thị hổn hển. Mặc xe ôm, xích lô, tắc xi nói cười. Người người chen chen. Nhà nhà đổ bóng. Đường đường lên đèn. Phố phố êm đềm me bay. Hoàng hôn vui thú mà quên. Chập choạng. Lảnh lót người thương.

            Có những hoàng hôn ngả bóng Vũng Tàu, biển trả về cho người ta con cá nục căng tròn, con tôm he búng nước, con cá mú đỏ lừ màu gấc và xa khơi nhấp nhổm những giếng dầu. Nơi ấy, anh công nhân giàn khoan cay mắt nhớ bờ, gạt làn sương mờ che mắt, che miệng hắt xì hơi. Tay chằm chặp điện thoại dò sóng. Hoàng hôn cạn lời…

Có những hoàng hôn ở Melacka, tôi đi qua những dãy nhà trọ ọp ẹp, một nhóm người Việt vào rừng lấy củi, gác lên bếp vọng khói lam chiều. Quê hương xứ sở run rẩy trong cái nồi rượu cất tạm bằng thứ men nhà. Hoàng hôn ở xứ người, lam lũ, cơ cực, đói khát một miếng tình, lòng người chẳng thể hào sảng bao dung. Bởi vậy mà nhơ nhớp ráng chiều.

                    Lại có những buổi tôi đi qua hoàng hôn xứ Voi, người ngợm bươn dài những dòng sông Bangkok, món ăn cay xè cười xòe mặt trời, vài cô gái Việt dụi mắt quê hương. Hoàng hôn ở đây chẳng thể nào hiểu được tiếng Việt, nên nó lầm lụi lặn xuống làn nước ngờ ngợ Mekong.

Lại có những buổi, cái bóng của hoàng hôn tràn phè trên mặt biển, mặt trời thè lè cái lưỡi xích đạo, tôi băng qua nóng, tôi băng qua nắng, tôi băng qua mồ hôi cơ thể đổ xuống thân xác mùa hè. Làm một anh thủy thủ, thiếu gì những hoàng hôn mẫn cảm, thiếu gì những hoàng hôn mượn xác đoạt hồn.

Lại có những hoàng hôn, khi con người ta đủ lớn, đủ nghĩ, đủ thao thức, đủ mặn nồng, đủ đau thương, đủ những thứ hầm bà làng cuộc đời, người ta nhớ về một hoàng hôn tuổi trẻ, và nghĩ, và tiếc, mà mải miết bới tìm. Hoàng hôn ở đâu? Sắc màu ở đâu? Tình yêu ở đâu? Vụng dại ở đâu? Than thở ở đây?

            Rồi có nhiều những hoàng hôn, chẳng cần phải ở nơi đất khách quê người, có khi ở ngay trong chính căn nhà của mình, ở nơi quê hương mình, ở nơi tổ tiên mình sinh ra lớn lên, người ta trân trối một thứ hoàng hôn bóng mẹ hình cha. Đấy có lẽ là thứ hoàng hôn thương cảm nhất trong cuộc đời trăm ngàn vạn bóng hoàng hôn.

Nhiều ngày, ngày ngày, một ngày, một chiều, tôi nhìn hoàng hôn manh nha trong những làn khói bếp từ nhà ai vươn lên. Thoạt tiên nó màu xám bạc. Không phải, nó là màu tím lam. Cũng không phải, nó là màu trắng đục đùn lên trời thương nhớ. Cứ thế, cứ thế nhá nhem vào cuộc đời tôi, cuộc đời bạn, cuộc đời muôn vạn kiếp người, cái bóng của hoàng hôn.

Cây cầu sắt nhiều tuổi nhất

Đó là cây cầu gắn liền với bao năm tháng lịch sử hào hùng của dân tộc và người dân Hà Nội. Cây cầu ấy  mang cái tên Long Biên còn vang dội như một địa danh lịch sử mãi không quên.

Cầu long Biên là cây cầu sắt  đầu tiên bắc  qua con sông Hồng, từ bến Bồ Đề, Gia Lâm sang phía nội thành Hà Nội. Cây cầu sắt ấy được thiết kế rất đặc biệt, vừa đẹp lại vừa nên thơ như một dấu tích luôn gắn liền với Hà Nội cổ kính và thanh lịch của nghìn năm văn hiến. Đó là cây cầu sắt nhiều tuổi nhất in đậm những dấu ấn lịch sử.

Đến bây giờ mỗi khi có dịp, tôi vẫn thích được tự mình phóng xe máy đi qua để nhìn ngắm sông nước nơi Bãi Giữa. Thả tầm mắt nhìn xuống bãi soi khi mùa về xanh mướt mải với  đầy  bóng lá của cỏ dại và ngô khoai, bạn sẽ thấy  những dải cát nằm thở sóng xoài bên dòng sông vẫn ngầu đỏ phù sa.

Ấy là những giây phút ta thấy thanh bình nhất. Nhưng cây cầu và  dòng sông ấy cũng đã từng ghi dấu bao khói lửa của trận mạc và binh đao tự  thuở xa xưa .Tôi chỉ biết cây cầu ấy từ những năm gần đây, khi nó gắn liền với những kỷ niệm của những năm tháng đang còn tuổi thanh xuân của mình.  Bây giờ mỗi khi qua cầu, tôi lại  bâng  khuâng chút hoài niệm và tiếc nuối về  những ngày xa xưa.

Thành phố đã ngàn năm tuổi và cây cầu Long Biên luôn là biểu tượng không thể tách rời.Cây cầu ấy đã được bắc qua ba thế kỷ của lịch sử dân tộc và vẫn đang tiếp tục cùng dòng thời gian mãi trôi chảy không ngừng.Cầu Long Biên được xây dựng từ thời Pháp thuộc trong suốt  những năm 1899-1902, được gọi tên là cầu Doumer, nhưng người dân Việt thường gọi một cách dân giã là Cầu Sông Cái hoặc Cầu Bồ Đề.

Cầu Long Biên là một địa danh lịch sử mang đậm tính văn hoá của ngưòi dân Hà Nội. Người nước ngoài khi đến thăm Hà Nội đều muốn tìm hiểu về cây cầu lịch sử này.Cây cầu còn là nhân chứng sống động nối liền giữa giữa cuộc sống  nơi đô thị hiện đại của  Hà Nội với bờ bên kia dòng sông Hồng. Đó  là những khu  dân cư đông đúc và cả ngôi chùa Bồ Đề cổ kính với đời sống tâm linh của người dân Hà Nội.

Với thiết kế độc đáo của kiến trúc Pháp, dáng dấp cây cầu khá thanh lịch, đẹp mắt  và ấn tượng. Nghe đâu thời đó người Pháp họ phải tuyển mộ hơn ba nghìn công nhân bản xứ và một đội ngũ kỹ sư, chuyên gia và đốc công người Pháp trực tiếp cai quản và điều hành việc xây dựng.

Cầu Long Biên dài 1682 m bắc qua sông và 896 m cầu dẫn, bao gồm 19 nhịp dầm thép được đặt trên 20 chiếc trụ vững chãi có chiều cao trên 40 m tính cả móng. Cầu được phân thành luồng cho xe cơ giới và đường đi bộ ở  hai bên, còn đường sắt đơn chạy ở giữa.Có lẽ lối thiết kế ấy vẫn còn phù hợp đến bây giờ, mặc dù Hà Nội bây giờ đã có khá nhiều cây cầu hiện đại khác và đẹp nổi tiếng như cầu Thăng Long, cầu Vĩnh Tuy, cầu Chương Dương được bắc qua sông Hồng nhưng tôi vẫn rất thích cây cầu Long Biên cũ kỹ ấy.

Tôi nhớ lại những năm tháng khi còn là sinh viên, chúng tôi đã từng ngồi trên chiếc xe đạp cà tàng  đi qua cầu Long Biên để lên trường học nội trú ở Vĩnh Phúc. Thời ấy được đạp xe đã là hạnh phúc rồi và có đi hàng chục cây số cũng là chuyện bình thường. Nhiều khi chúng tôi phải nhảy xuống tàu ở  cạnh Ga Yên Viên vì toàn sinh viên đi học xa nhà phải trốn vé.

Mặc dù cả lũ chúng tôi  phải phải đi bộ  qua Cầu Long sang nội thành  nhưng ai cũng rất hào hứng và thú vị. Vào thời điểm ấy, cầu Long Biên với chúng tôi đã là  biểu tượng thật hoành tráng của Hà Nội với một cây cầu dài nhất, lớn nhất, đẹp nhất  mà tôi từng được chiêm  ngưỡng.  Lúc ấy chúng tôi cảm thấy chiếc cầu sắt ấy sao lại dài đến thế và con sông Hồng kia sao cũng rộng lớn  thế.

Cho đến bây giờ, cầu Long Biên không còn được như xưa nhưng bạn vẫn có thể ngắm được hình dáng chiếc cầu với mỗi đoạn được uốn lượn nhấp nhô theo từng nhịp và hắt bóng thơ mộng trên sông Hồng. Ngay cả luồng đường phân cách đi trên cầu hồi ấy cũng thấy rất hợp lý thành từng đoạn rộng hẹp khác nhau cho cả người đi bộ và các phương tiện xe cơ giới. Mặc dù luồng đường đi bộ ước chừng khoảng  0,40 m nhưng mọi người vẫn nhường nhịn nhau, không thấy sự chen lấn ồn ào.Có lẽ lưu lượng xe cộ và mật độ giao thông hồi ấy cũng không khủng khiếp như bây giờ và con người cũng hiền hòa hơn chăng?

Nhiều lần đi qua, tôi còn dừng lại đứng trên cầu và trầm ngâm ngắm dòng sông Hồng đang uốn mình và cuộn chảy bên dưới những trụ cầu. Nhìn dòng nước trôi khi lững lờ, lúc hối hả vẫn như mải miết dâng cho đời những mật ngọt phù sa. Dòng chảy lịch sử vẫn cuộn trôi bên chứng nhân cũ kỹ tự xa xưa là cây cầu Long Biên. Bao lớp người đã ra đi từ đây.

Hà Nội ngàn năm còn mang đậm dấu tích Thăng Long xưa  và  “trùng trùng quân đi như sóng” khi  tiến quân vào giải phóng Thủ Đô với những bước chân thần tốc năm nào còn in dấu trên dòng sông lịch sử.  Cây cầu vẫn đứng hiên ngang như một chứng  nhân hào hùng giữa quá khứ, hiện tại và tương lai và nhắc nhở bao thế hệ không được quên những trang sử ấy..

Cầu Long Biên với mười chín nhịp bắc qua sông Hồng không chỉ nối liền giao thông giữa khu ngoại thành Thăng Long với nội thành mà còn là cây cầu hoài niệm nối liền giữa hiện tại với quá khứ của Thủ Đô.Thật đau xót khi cầu Long Biên ngày càng xuống cấp và đang dần bị quên lãng. Cây cầu đó đã đi qua chiều dài lịch sử  của dân tộc và đi qua cuộc đời của bao con người với những thăng trầm buồn vui khác nhau. Không hiểu sao khi nhìn vẻ già nua cũ kỹ  của những nhịp cầu ấy, tôi cứ liên tưởng đến  một ông già đang gù lưng khổ hạnh trước năm tháng để chống chọi với cái chết đang đến gần kề.

Mặc dù thành phố đã có dự án và chủ trương khôi phục lại cầu Long Biên cùng với các nhà kiến trúc người Pháp để tái tạo lại cây cầu như xưa nhưng nghe ra không phải việc dễ dàng. Nếu được như vậy, cầu Long Biên hẳn sẽ là một địa danh lịch sử và du lịch cho du khách và bạn bè quốc tế  được chiêm ngưỡng  vẻ đẹp của chúng khi đến với thủ đô Hà Nội.Cầu Long Biên bây giờ vẫn  đang cố gồng mình trước gió bão và có nguy cơ bị quên lãng nếu không được chúng ta sửa sang và khôi phục. Hãy làm ngay hỡi các nhà chức trách, đừng để cầu Long Biên hấp hối!

Mỗi khi có dịp qua cầu, tôi vẫn có cái thú hoài cổ là được ngắm nghía cây cầu già nua  mặc dầu đã rất cũ kỹ  và bám đầy rỉ sắt cùng năm tháng. Bây giờ cũng ít người còn thích đi qua chiếc cầu này bởi đã có nhiều chiếc cầu khác thay thế đẹp hơn, lớn hơn và hiện đại hơn.Tôi nhìn sang phía Chùa Bồ Đề bên kia sông Hồng mà nghe trong không gian như  phảng phất tiếng chuông chiều cùng những bảng lảng khói sương và  lòng thầm  mong ước một cuộc sống thanh bình cho Hà Nội.

Ngàn năm Thăng Long đã qua với bao chứng nhân lịch sử. Cây cầu Long Biên vẫn khắc khổ đứng đó, dường như ngạo nghễ thách thức với thời gian mặc cho sông nước phù sa sông Hồng vẫn đỏ ngầu và trôi chảy bên đời với bao bước chân qua.

Cây cầu cô đơn

A Đam sông Hồng

Ảnh: Ralph_rybak

Sông Hồng và những câu chuyện thú vị về cuộc sống của những người dân Hà Nội lưu vực sông Hồng và dân cư sống ven con sông này sẽ luôn là những điều bí ẩn mà tôi và nhiều người nặng lòng với Hà Nội thích tìm hiểu và khám phá.

Một trong những cái thú của người dân ven sông Hồng là thú tắm sông. Cái thú tắm sông này đã lan đến cả cư dân Hà Nội hay cả dân ngụ cư sống trong thành phố, đặc biệt là những người đàn ông yêu sông nước.

“A Đam Sông Hồng “ là cách tôi gọi những người đàn ông yêu thích tắm sông và mê đắm sông nước và thứ phù sa mát lịm của sông Hồng. Họ yêuthiên nhiên và luôn muốn được thoải mái trần trụi giao hoà cùng thiên nhiên, để được thả sức vẫy vùng và thoả mãn khao khát tự do cùng bản ngã. Bởi vậy “A Đam và cát mặn” cũng là cái tứ cho một bài thơ về chủ đề sông Hồng của tôi. Bởi các A Đam thích được khoả trần trên cát trước khi xuống nước. Cát mặn là tất nhiên. Cát còn mặn bởi cả máu, mồ hôi và nước mắt bao đời của con người.

Hình ảnh cát và phù sa sẽ đẹp hơn và ám ảnh hơn khi có thêm các A Đam ở đó. Cát và phù sa nâu non của sông Hồng không chỉ mặn mà còn rất mát, rất êm, rất mịn màng và óng ả nữa. Vẻ đẹp ấy lung linh hơn dưới con mắt các thi sỹ khi liên tưởng đến sức sống giữa vũ trụ bao la và sự phồn sinh của con người. Tất nhiên sự liên tưởng ấy sẽ không thể thiếu hình ảnh các thôn nữ mặn mà với làn da nâu non và nụ cười lúng liếng dưới cái nắng nhiệt đới của miền châu thổ sông Hồng.

Các nàng có tắm sông thì cũng luôn phải che giấu dưới bóng tối hay áo quần nên khó mà thành những E Va tự tin như các A Đam sông Hồng. Có thể bạn sẽ cười mà bảo rằng: “ Ôi giời, các nhà thơ chỉ hay vẽ chuyện, cát mặn và phù sa thì dòng sông nào mà chẳng có…”. Đúng là cát và phù sa thì ở đâu cũng có, nhưng cát mặn ở ngay dòng sông mang cái tên đặc trưng là sông Cái và nơi ấy có cây cầu sắt mang tên Long Biên cổ xưa vắt ngang bờ bãi và dòng chảy đỏ ngầu này thì chỉ có một và rất khác đấy, hơn nữa các A Đam sông Hồng ở giữa Thủ Đô, tụ nhau về nơi Bãi Giữa này tắm sông thì vẫn là điều đặc biệt.

Họ là ai? Họ không phải là những đứa trẻ nhỏ cởi truồng tắm sông, mà là những người đàn ông trưởng thành và cũng không còn trẻ, họ thường từ trung niên trở lên  nhưng không quá già. Họ yêu sông Hồng và gắn bó với dòng sông từ nhỏ và đã tụ tập nhiều năm nay ở đó, thành lập Hội “ Những người yêu sông Hồng” đã tìm về nơi Bãi Giữa sông Hồng để vùng vẫy và sung sướng thả mình trước thiên nhiên cùng cây lá trong sự tự do gần như tuyệt đối.

Các “ A Đam sông Hồng” của Hà Nội, thường tụ nhau về nơi Bãi Giữa sông Hồng để tắm sông, để hò hét hay thậm chí để tự do mơ màng hay trầm tư suy ngẫm một mình trước thiên nhiên bờ bãi cùng nắng, gió, cát bụi và phù sa. Những người đàn ông này thường là đang sống ở nội thành, có thể là một  bác xe ôm, hay xích lô phố cổ, một cán bộ hưu trí thích sông nước, cũng có thể là một trí thức, doanh nhân nào đó đang bề bộn công việc ở văn phòng nên muốn tìm về bãi sông này để xả tres, một chàng văn nghệ sỹ có chút tiếng tăm hay một bậc trí giả nào đó, thậm chí là những giai phố cổ khá lạnh lùng và đôi chút có máu tay chơi với lủng lẳng xích vàng trên cổ nữa…

Họ giống nhau ở chỗ luôn háo hức được ra sông như trẻ nhỏ, họ có khát vọng được trở lại thời trẻ con như ngày xưa khi họ từng được tắm truồng cùng chúng bạn và chơi những trò nghịch ngợm của  trẻ con trước dòng sông tuổi thơ của mình. Bởi trong hầu hết mỗi chúng ta, ai cũng mang trong tâm hồn mình một miền quê và dòng sông với hương phù sa nồng nã và miền quê ấy sẽ còn sống mãi trong ký ức tuổi thơ của họ.

Tôi thích hình ảnh những người đàn ông mình trần hiên ngang, trông rất  manly khi họ đang đứng trước dòng sông với bờ vai rắn rỏi và vòm ngực căng phồng hứng gió. Các chàng đứng đó, “hai dải phù sa nâu đổ bóng xuống lưng chàng…”. (Tôi từng viết về họ như vậy trong những câu thơ mang chút ngưỡng mộ và trìu mến của đàn bà). Họ trở nên gần gũi và hoà nhập cùng sông nước và đất đai châu thổ phù sa hơn bao giờ hết. Mùa nước lũ tràn về, những người đàn ông này tỏ ra bình tĩnh trước cơn lũ cuồn cuộn và sự giận dữ của dòng sông.

Khi ấy dòng nước lũ đục ngầu đang dâng lên, làm tràn đầy cả tâm hồn và thân xác họ. Trên đầu là mưa bay và bầu trời bao la ướt đẫm, dưới chân là cát mặn và phù sa sông Hồng. Tôi hay liên tưởng đến vẻ đẹp của những người hùng trong phim ảnh xưa và những câu chuyện truyền thuyết. Chợt nghĩ, hình ảnh này thật thơ mộng và không kém phần tráng lệ khi ta nghĩ tới hào khí Thăng Long xưa hay vẻ đẹp của các chàng trai dũng mãnh như Đam San xưa kia…Tôi đã viết mấy bài thơ về những  “A Đam sông Hồng” trong cảm xúc dạt dào ấy.

Nắng, gió, cát, bùn và phù sa…và sự tự do trở nên thi vị hơn. Thứ “ đặc sản” này chỉ các A Đam sông Hồng mới cảm nhận đầy đủ và họ thưởng thức nó trong niềm hân hoan riêng của mình. Tôi cũng may mắn quen biết vài người bạn trong số đó, họ luôn yêu dòng sông này và luôn nói nhớ sông Hồng mỗi khi đi xa và họ “nghiện “ thứ phù sa nâu mát lạnh ở đó. Có lẽ về bên dòng sông Hồng mang tên con sông Cái này, chính ở nơi này, họ được trở về với mẹ thiên nhiên trong sự gần gũi và thân thương nhất.

Đó là sự vô tư mà trần trụi và dời sống này có những người ta cần được như thế, không có cái gì phải giấu giếm và che đậy, cũng chẳng có gì phải giả tạo và che giấu, sự thật là họ rất hạnh phúc khi có được những giây phút tự do gần như tuyệt đối. Không nên ngăn cản niềm sung sướng của họ. Tôi nghĩ thế bởi tự do là mục tiêu cao cả của con người.

Hà Nội nay không chỉ có duy nhất một bãi tắm tiên ở nơi đó. Bây giờ các A Đam sông Hồng còn kéo nhau lên tận nơi bờ bãi vùng Phú Thượng, quận Tây Hồ nữa. Nơi này gần kề với khu vực Bến Bạc, có phong cảnh sông nước hữu tình và vườn rau non xanh mướt và những rặng táo mới trồng khá đẹp mắt và tươi tốt. Điểm tắm sông này có biển cấm tắm, nhưng các A Đam vẫn lặng lẽ tụ nhau ở đó để thoả mãn khát khao với dòng nước đỏ nặng phù sa của sông Hồng. Nơi này còn thuận tiện cho việc ăn uống, chụp ảnh và gặp gỡ bạn bè vì không gian rộng rãi và thảm cỏ xanh bắt mắt cùng bãi lau sậy nở hoa trắng xoá ở ven sông luôn gợi nhớ ký ức tuổi thơ xa vắng và ngọt ngào.

Các “A Đam sông Hồng “ yêu và đắm mê dòng nước mát lạnh này với thứ hương thơm nồng và vị ngai ngái của phù sa nâu non như một thứ bùa gây nghiện. Họ – những A Đam sông Hồng chủ yếu coi trọng việc tắm sông và thư giãn hơn là việc đến đó để ăn uống. Nơi này, có thể vì lý do ấy mà nhà hàng ẩm thực ở 144 An Dương Vương, Hà Nội là một địa chỉ rộng rãi, khá bắt mắt nằm liền kề ở đó nhưng vẫn cứ vắng vẻ.

Câu chuyện tắm sông của những người đàn ông ở Bãi Giữa Sông Hồng và bãi tắm sông nơi vùng quê Phú Thượng Hà Nội vẫn luôn là những bí ẩn. Nơi ấy, với dòng chảy lúc lững lờ, khi cuộn xiết của sông Hồng, khi miệt mài bồi đắp phù sa cho cả lưu vực châu thổ, đã làm nên những bờ bãi tốt tươi. Bãi sông trù phú và những người đàn ông tắm sông mà tôi trìu mến gọi họ là các “A Đam Sông Hồng” đã làm nên nét chấm phá khác lạ cho dòng sông. Bên cạnh những cây cầu vắt qua sông Hồng ngày càng lớn hơn và đẹp hơn thì con người cũng khác xưa. Dù Hà Nội có thêm bao nhiêu cây cầu mới thì cây cầu Long Biên cũ kỹ và cổ xưa cùng với Bãi Giữa sông Hồng vẫn đẹp mãi trong ký ức của những người yêu Hà Nội.

Tôi yêu dòng chảy của những con sông, đặc biệt yêu thứ cát mặn và phù sa nâu non của sông Hồng và vẫn muốn lưu giữ mãi hình ảnh các A Đam sông Hồng như một vẻ đẹp riêng có của Hà Nội. Có thể tôi thuộc tuýp người lãng mạn nhưng thử hỏi rằng tại sao bạn không tìm cho mình vài điều thú vị mang tính “phát hiện “ khi những vẻ đẹp bình dị và mới lạ ở kề ngay cạnh chúng ta nhưng ít người quan tâm hoặc  nhìn nhận nó như một sự khác thường.

Nếu bạn coi đó là một sự điên rồ thì cũng không sao cả. Tôi nghĩ, trong cuộc sống bức bối này, thật cần biết bao những con người yêu quê hương đất nước, yêu thiên nhiên sông nước và châu thổ phù sa. Khát vọng tự do của con người là điều đáng được tôn trọng. Họ thực sự là những người rất yêu Hà Nội, yêu sông Hồngvà khao khát tự do.

Bởi tôi nghĩ rằng những cư dân Hà Nội, không chỉ mang cốt cách thanh lịch, chút kiêu bạc của người Tràng An mà sẽ còn muốn được lưu dấu hình ảnh gần gũi rất đời thường của họ- những người đàn ông nơi phố phường thủ đô về sự yêu thương, gắn bó với dòng sông, với thiên nhiên và khát vọng tự do. Những người đàn ông không còn trẻ nhưng không chịu già hơn và đam mê một dòng chảy trong tâm hồn, tự do trước mênh mang châu thổ phù sa và dòng sông lịch sử luôn cuộn đỏ phù sa của một thời.

Du hành xứ Huế bằng thơ Khơi nhạc Hồ

               Tôi đã đến Huế như bóng chim, như tăm cá và như những sân ga biền biệt mưa chiều. Còn Khơi đến Huế bằng ảo vọng thơ ca, được Hồ dung dị thêm đôi cánh âm nhạc. “Vần thơ gửi Huế” bắt đầu từ đó.

Dù lăn lê phiêu bạt cuối trời đầu bể nhưng tôi thấy chưa ở đâu  quyến rũ với vẻ hiền hòa, thanh bình đầy lãng mạn như mảnh đất này. Ấy vậy mà tôi chưa viết nổi một bài về Huế. Thế nhưng một người tàn tật cả đời xe lăn chốn quê vàng rơm rạ lại có thể du hành đến xứ Thần Kinh bằng một bài thơ ngọt ngào. Tôi gọi đó là ảo vọng thi ca Đỗ Trọng Khơi.

Nghe điệu hò là nhớ
Dù chưa một lần thăm
Ơi miền quê đến lạ
Tình như tự trăm năm

Thơ Khơi vốn không phải là phong cách bình dân. Ngôn ngữ của ông được nhào nặn nổi chìm đau đáu trong cõi hư miền mộng vô hình trung mang theo những triết lý nhân sinh ám ảnh con người.

            Không hiểu sao Vần thơ gửi Huế lại mộc mạc giản dị đến vậy, nó như một lời tự sự được viết ra cho chính bản thân mình. Có lẽ điều đó đã giúp nhạc sỹ Hồ Thùy phổ nhạc rất thành công bài thơ này bởi nhạc của Hồ vốn là hơi thở bình dị âm hưởng dân ca trữ tình sâu lắng miền châu thổ.

Đặt chân lên đất Huế tôi đã cảm thấy rất ấn tượng không chỉ vì vẻ đẹp của những thắng cảnh thiên nhiên sông Hương, núi Ngự, sự cổ kính của những đền đài, lăng tẩm…Tôi còn bị cuốn hút bởi con người Huế với tính cách dịu dàng, dễ thương pha lẫn sự kín đáo e ấp, với giọng nói “dạ, thưa” đến say lòng.

Nhưng tôi đã say như người ta say rượu cần khi nghe bài hát Vần thơ gửi Huế khi lần đầu phát trên sóng của đài Tiếng Nói Việt Nam qua sự thể hiện của ca sỹ Minh Huyền.

   Hồn tôi nhịp cầu lỡ
Mơ Tràng Tiền nối sang
Thời gian tôi ly rượu
Rót từ dòng Hương Giang

Huế nổi tiếng với vẻ đẹp đượm buồn và ấn tượng. Điều đó càng sâu lắng khi bạn đón hoàng hôn trên Phá Tam Giang, cách thành phố Huế khoảng 15 km. Cái cảm giác thật nhỏ bé, vui sướng khi ngồi thuyền dạo chơi giữa sóng nước mênh mông, thỉnh thoảng đón những cơn gió mát lạnh ào tới. Phá Tam Giang là phóng khoáng bụi hồ, có thể đứng ngoảnh mặt lên trời mà cười, vin hai tay chống sào mà hiền, quên đôi chân đạp nước mà đi. Tam Giang phá cách như một nét sổ dài trong bức thư họa mặc trầm cố đô, thương lạ thương lùng trời Nam ngàn thủa.

            Để rồi theo ánh nắng chiều buông dần phía chân trời, đôi mắt lữ thứ choáng ngợp trước bóng đầm phủ một màu tím sẫm. Chính màu tím chiều hoàng hôn hiếm hoi ấy đã khơi nguồn cảm hứng cho những sáng tác thơ, ca, nhạc, họa, nhiếp ảnh và để lại trong lòng kẻ đến người đi một nỗi nhớ da diết, khôn nguôi.

Du hành xứ Huế bằng thơ Khơi nhạc Hồ, một thủa cố đô thâm u kín cổng cao tường như thiếu nữ khuê son lầu vắng và ngỡ mình trên Phá Tam Giang mở nắng đón gió phô trương khí khái đầm phá muôn trùng. Có lúc Tam Giang như một người con gái tắm phải dòng nước lợ mà da thịt nhan nhát phù du. Có lúc Tam Giang lại như người đàn ông đi hỏi vợ nhiệt thành đến quê mùa quá lố, oang ổng cái mồm, thở nắng phả gió, vỗ nước táp sóng mà yêu mà thương. Bước qua vẻ mặc trầm đài các vốn có của Huế.

Tôi đã từng trò chuyện nhiều lần với nhà thơ Đỗ Trọng Khơi mỗi dịp mình đi xa về. Ông nằm trên chiếc giường nhỏ, tứ bề là sách. Khi thì trà, khi thì rượu, khi thì một vài bài thơ, khi thì một quẻ Kinh Dịch. Nhà thơ thường hay hỏi tôi về những miền đất mà tôi từng đi qua. Và tôi biết trong lòng ông là một khát vọng trải nghiệm, khát vọng được đi, khát vọng được tan chảy vào câu Nam Ai Nam Bằng. Bởi vậy mà trong ” Vần thơ gửi Huế ” có gì đó như rụt rè, khẽ khàng và hơn tất thảy là một tình thương yêu dâng tràn. Nó cũng giống như tình yêu đầu của một người nghệ sỹ, chẳng nỡ vồ vập nhưng thẳm sâu và thẳm sâu.

Thật quá đỗi ngạc nhiên khi nhà thơ Đỗ Trọng Khơi chưa một lần đến Huế mà lại có những cảm xúc gan ruột như vậy. Có lẽ đó là chốn vô cùng của thi ca.

Quả thật, ai đã từng đến Huế, đều đọng lại trong tim vẻ đẹp trầm mặc của Huế, giọng nói sâu lắng đến lạ kỳ của người dân Huế. Huế nhẹ nhàng, duyên dáng nên thơ, không ồn ào xô bồ, vội vã tấp nập như những nơi tôi đã từng đi qua. Đặc biệt phố cổ ở Huế trang nghiêm và quí phái, như thấy đâu đây còn phảng phất ngựa xe âm tướng hồn binh…

           Biết bao thi nhân đã miêu tả Huế bằng ngòi bút ngọc ngà và những lời văn yêu kiều, diễm lệ… Nhưng đến với Huế bằng thơ Khơi và nhạc Hồ là một chuyến du hành sâu lắng nhất mà tôi từng trải nghiệm.

Huế ơi nặng lòng nhớ
Sớm chiều tôi Đông Ba
Ngóng bước người Vĩ Dạ
Tình ai về thiết tha…

Mỗi lần nghe lại bài hát này lòng tôi lại chộn rộn cảm xúc, không phải bởi Khơi là một ông chú và Hồ là một người cha mà bởi thơ và nhạc đang vi vu trong tâm tưởng. Thiết tha, thiết tha…

Thương nhớ sông Hồng

Mãi sau này, tuy không còn ở đó nữa, mỗi lần có dịp đi qua cầu Long Biên, tôi đều muốn nấn ná dừng lại ngắm nhìn dòng sông và những cây cầu. Thương nhớ sông Hồng.

Rất nhiều người gắn bó và yêu quý con sông Hồng ngay từ khi còn nhỏ. Tôi cũng vậy. Sông Hồng đẹp mềm mại như một dải lụa đào vắt ngang cầu Cốc Lếu, nơi ấy lòng sông nhỏ bé giao hoà với dòng Nậm Thi chảy từ Trung Quốc sang và chảy xiết lắm. Tuy thế ở nơi giao hoà biên giới hai nước, sông Hồng vẫn cứ mãi chảy thành hai vệt nước có hai màu rõ ràng. Màu đỏ và màu xanh dù chung một dòng, màu tạo hoá hình thành nhưng không hề pha trộn. Những ai từng sống ở Lào Cai đều biết rõ điều đó như một vẻ đẹp kỳ vĩ mà thiên nhiên ban tặng và coi đó như một sự tất nhiên.

Sinh ra và lớn lên nơi đầu nguồn con sông Hồng chảy vào đất Việt tận biên ải Lào Cai từ những ngày gian khó, tôi và rất nhiều thế hệ các bác, các anh chị em ở Lào Cai đã được lớn lên bên dòng sông này và có những ký ức đẹp đẽ và đau buồn mà mãi mãi vẫn không thể quên. Bao nhiêu nhà văn, nhà thơ, nghệ sỹ tài năng đã trưởng thành từ dòng sông này và hầu hết họ từng là cựu các thầy cô giáo đáng kính đã làm nên tên tuổi như Ma Văn Kháng, Mã A Lềnh, Bùi Nguyên Khiết, Pờ Sảo Mìn…và rất nhiều con người đáng kính nữa mà tôi không kể hết được.

Sau này khi về Hà Nội lập nghiệp và trưởng thành, rat nhiều năm tôi lại được sống ven con sông Hồng, dù chỉ là ngoài đê, gọi là bãi Phúc Xá. Chứng kiến bao trận lụt lội của Hà Nội những năm 80 , tôi lúc ấy đã từng bế con lên thuyền chạy lụt khá nhiều lần, mà sao ngày ấy chúng tôi không hề có cảm giác sợ hãi chút nào.

Mãi sau này, tuy không còn ở đó nữa, mỗi lần có dịp đi qua cầu Long Biên, tôi đều muốn nấn ná dừng lại ngắm nhìn dòng sông và những cây cầu. Đặc biệt khi tuổi càng cao, càng yêu sông Hồng hơn, càng thích đi trên con đê dài bao quanh thành phố và ngắm nhìn bờ bãi và cây lá ven sông, thích ngắm bốn mùa phản chiếu trên dòng sông Hồng, thích mùa hoa lau nở trắng, thích những vạt ngô non và khoai lang, thích từng đám lau lách và những người nông dân làm lụng ở đó.

Thích nhất là được ngắm mùa hoa cải nở vàng bên sông…Tôi đã viết khá nhiều bài thơ và những câu chuyện từ cảm hứng với sông Hồng.Thi thoảng sau này, mỗi khi có dịp tôi lại rủ bạn bè đi ăn, đi chơi lang thang dọc theo ven sông Hồng để hương phù sa ngấm vào hồn mình, để tha hồ ngắm nghía, để mơ mộng hay chí ít cũng bồi đắp thêm cảm hứng thi ca cho mình.Khi bạn được ngồi bên dòng sông để ngắm hoàng hôn và ráng chiều đỏ rực thì rất tuyệt. Tôi mông sao dự án cải tạo cầu Long Biên thành con đường đi bộ mau thành hiện thực.

Có một điều bí mật nữa mà bây giờ mới kể. Ấy là nơi Bãi Giữa ở sông Hồng, khi dừng xe giữa cầu Long Biên, rẽ xuống phía dưới ấy, có một con đường nhỏ dẫn vào Bãi Tắm Tiên. Tôi đã tò mò về các câu chuyện bí ẩn ở đó từ lâu và đã khám phá nó, đi xe máy ra đó vài lần nhưng không dám xuống, vì nơi ấy toàn là các Tiên Ông, he he…Tuy nhiên, tôi vẫn khám phá những câu chuyện ấy bằng cách khác, đã viết vài bài thơ về chủ đề này và đã đăng trên báo, tạp chí…Đó là những bài thơ về “A Đam Sông Hồng” và sự đam mê, ước mơ vẫy vùng và khao khát tự do của những người đàn ông yêu mến sông Hồng…

Khi sang Pa ris và có dịp đi vài nước châu Âu, chấu Á, Úc…tôi càng thấy thương cho dòng sông Hồng lắm lắm. Sông Hồng và những cây cầu cùng hai bờ của nó đáng ra có thể đẹp hơn, sạch sẽ và hoành tráng hơn, lãng mạn hơn, thi vị hơn, làm cho khách du lịch mê đắm Thủ đô “ngàn năm Văn Hiến “ yêu dấu của chúng ta từ lâu rồi.

Thật đáng tiếc.Tôi đã viết nhiều thơ về quê hương Lào Cai và dòng sông Hồng, nhiều bài ký kể nhiều câu chuyện từ nguồn cảm hứng với dòng sông Hồng, đến những câu chuyện và cảm xúc từ Parisvà dòng sông Seine, cả những dòng sông đẹp đẽ khác nữa ở châu Âu mà tôi đã may mắn đi qua và trải nghiệm trước đây.

Nói dông dài thế để muốn khoe rằng mình sẽ còn yêu mến, đắm đuối và viết tiếp câu chuyện liên quan về những dòng sông và những dòng chảy vô tận trong tâm hồn…