26 C
Hanoi
Chủ Nhật, Tháng 10 19, 2025

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...

Hát những giai điệu yêu thương

T huở còn thơ dại, tôi là...
Trang chủ Blog Trang 5

Cha và bình yên

Một buổi chiều nghiêng nắng trên dòng sông Ngàn Phố hiền hòa, một buổi chiều lao xao gió lào rát bỏng đang băng băng trên con đường cán bê tông của nông thôn đổi mới, một buổi chiều ăm ắp tiếng sáo diều trên bầu trời biếc xanh cao vời vợi. Tôi cùng cha tản bộ dọc triền sông liu riu sóng nước, bàn tay cha bỗng run rẩy nắm tay tôi ” Sao cái Hạnh không về?”.

Tôi giật mình thảng thốt, tôi nghẹn ứ bờ mi, những giọt nước mắt không thể ngưng mà bung ra mờ nhòe cả chiều heo may khô khốc. Cha không nhớ út Hạnh thật rồi khi tôi đang ở kề bên. Có muộn không khi tuổi trẻ tôi phiêu du ngược xuôi qua muôn vạn nẻo đường, những thành phố xa hoa, những bộn bề cuộc sống. Thỉnh thoảng thương, thỉnh thoảng nhớ, thỉnh thoảng gọi về chỉ để biết rằng cha mẹ vẫn mạnh khỏe bình yên.

Có muộn không khi chỉ khi tôi ẩn ức ưu phiền, tôi yếu đuối, tôi tổn thương, tôi cần chở che mới tìm về với mẹ cha, thì bàn tay cha đã run rẩy nhăn nheo như ráng chiều dùng dằng cố bấu víu ánh mặt trời hối hả trôi xuống núi.

Có muộn không khi cha già đến tuổi như đèn treo trước gió, đến tuổi lãng quên tôi thật rồi… Như mới hôm kia, như mới hôm qua, như ngay đây thôi trước mắt tôi là khoảng ấu thơ nặng nợ tình cha, những kỷ niệm là một thước phim chậm rãi, thước phim ký ức tua ngược về trên bước chân chậm rãi của cha.

Cha là một tượng đài uy dũng trong lòng chị em tôi, là đức tin của năm chị em chúng tôi, là hình mẫu lý tưởng để chị em tôi kiếm tìm điểm tựa cho cuộc đời hạnh phúc. Cha có một tuổi trẻ huy hoàng, cha có một thời hiên ngang và đáng nhớ khi tham gia giữ gìn quê hương ở Nam Bắc các chiến trường.

Chị em tôi thường nài nỉ cha kể chuyện về những năm kháng chiến, những hiểm nguy rình rập, những đêm ngày băng rừng lội suối, những lằn ranh sinh tử, những đồng đội đã chiến đấu, đã hi sinh.

Cha tôi hài hước vô cùng, tôi biết có những câu chuyện ngoài lề cha thêm thắt vào để trêu chọc mẹ như có O này xinh, O kia tóc dài, O hát hay mà cha đã từng say mê trước đó. Hay có câu chuyện cha thèm thuốc lào quá mà đi ” ăn trộm của địch” suýt bị bắn không dưới một đôi lần.
Có câu chuyện bi tráng, có câu chuyện mất mát, có câu chuyện hài hước, có câu chuyện mục đích dạy dỗ các con mà cuốn hút vô cùng, chị em tôi cứ há hốc miệng chờ nghe như bầy chim non chờ mồi mớm từ chim cha chim mẹ tảo tần kiếm về sau một ngày mỏi cánh.Trong chái bếp lách tách tiếng lửa reo ca hòa với mùi thơm khói lá bạch đàn ngọt lịm, cả nhà tôi say sưa nghe quên cái giá lạnh mùa đông và cơn khuya đang vội vã kéo về.

Nhà tôi nghèo, cha một mình cặm cụi nẹp lá tranh làm mái, trộn bùn với rơm rạ làm tường che nắng che mưa. Nhà tôi nghèo, cha lầm lũi phơi bờ vai sạm đen giữa cánh đồng hun hút gió, làm ruộng nhà mình, làm mướn cho người ta, không một ngày ngơi nghỉ, để nuôi con.

Cha làm gì cũng giỏi, những khi nông nhàn thì cha đan lát các vật dụng bằng tre, bằng mây vừa phục vụ gia đình vừa để mẹ tôi mang ra chợ tỉnh bán kiếm thêm tiền cho chúng tôi đóng học. Đặc biệt cha “sát cá” vô cùng, cứ hễ có cơn mưa giông vừa tới, là mẹ con tôi có ngay oi cá lóc quẫy đạp tưng bừng cải thiện những bữa cơm.

Nhà tôi nghèo, nhưng lúc nào cha cũng bắt chúng tôi phải học, tâm niệm của cha là năm chị em tôi học hành đỗ đạt, thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn vươn đến cuộc sống sạch sẽ phố thị, dẫu không biết bao nhiêu lần chị em tôi đòi nghỉ học ở nhà để phụ mẹ phụ cha.

Nhưng cha lại không có con trai… Ngày trước, khi tư tưởng trọng nam khinh nữ còn ăn sâu vào tiềm thức của từng người, của cả xã hội. Nhà nào cũng phải có con trai để ” nối dõi tông đường”. Nhà tôi toàn con gái, năm đứa con gái.

Cha chịu nhiều dẻ bĩu của người nhà, sự rẻ khinh của chòm xóm. Mỗi lần có cỗ thì chắc chắn cha phải ngồi mâm dưới cùng với các bà các mẹ. Mỗi lần bàn bạc công chuyện của anh em thì chắc chắn cha tôi sẽ phải ” ra rìa”. Nhưng cha mặc kệ miệng đời, mặc kệ sau lưng những tiếng xì xào rằng ” đời ông ta như cái chổi tre cùn mằn vì con gái”, rằng “nhà ông không có con trai thì hẳn sẽ mất nòi “…

Cha mặc kệ tất cả những ánh nhìn, những xoi mói rẻ khinh. Cha cứ thế bình thản, yêu thương và luôn là bờ vai vững chãi cho gia đình nhỏ của mình.
Hồi đó ở xóm tôi cũng có vài ba nhà chỉ toàn con gái như nhà tôi, nhưng khác với chị em tôi được cha mẹ yêu thương, được đến trường đầy đủ thì những người bạn của chúng tôi lại không được đi học, đơn giản vì cha của họ bảo ” con gái rồi cũng lấy chồng, học để làm gì”. Cả gia đình chúng tôi như những chú chim con líu ríu yếu mềm trong đôi cánh cha tôi.

Nhưng cha cũng cực kỳ nghiêm khắc, thỉnh thoảng năm chị em tôi lại lằn roi vì nghịch ngợm, vì ham chơi. Tôi còn nhớ như in đó là năm học lớp 12, vì tôi học ôn về trễ mà không báo với gia đình, mới bước đến cửa ngõ tôi đã thấy đốm thuốc lập lòe chờ đợi của cha

Lần đầu tiên cha đánh tôi, tôi khóc, cha cũng khóc theo. Nhưng có lẽ nhờ tính nghiêm khắc kỷ luật ấy, mà chị em chúng tôi luôn ý thức học hỏi, trưởng thành, làm người, như cha bảo ” học không thành danh cũng phải thành nhân”.

Chúng tôi khôn lớn thì cha cũng già đi. Chúng tôi như những chú chim ra ràng dang đôi cánh rời xa quê hương thì đôi cánh cha tôi cũng ngày một chậm chạp hơn, run rẩy hơn. Duy chỉ có tâm tư của cha luôn dõi theo từng bước chân chập chững quê mùa nơi thị thành nhộn nhịp của năm đứa con gái yêu thương.

Cha vẫn chiếc áo lổ đổ ngả màu mỏng tang vì mồ hôi và nắng gió, tay cày tay cuốc trên cánh đồng trĩu bông chờ đợi các con về. Nhiều lần tôi bảo cha già yếu rồi đừng làm ruộng nữa nhưng cha lờ đi, tôi biết cha làm ruộng không phải để có cái ăn như ngày xưa, mà để khuây khỏa, để đỡ nhớ con mà thôi.

Thời gian như một chiếc chạm tay vào khoảng mênh mông phía trước là bầu trời, tưởng nắm được ánh dương lại chỉ là hư vô ảo ảnh, chỉ có những vết chân chim là thật giữa cuộc đời. Những mục đích liên tiếp, những tham vọng tuổi trẻ đã khiến chị em tôi cuốn vào vòng xoay phố thành không biết điểm dừng, không biết điểm thoát ra.

Cho đến một ngày mẹ gọi điện về nhà, rằng cha nhớ các con cha gọi tên mỗi tối. Cha gọi chị cả dậy sớm đi gặt kẻo nắng lên, cha gọi chị hai mang gầu đi tát nước cho ruộng cao khô hạn, cha gọi chị ba đi đổi công với hàng xóm khi đã rộn rã vào mùa, cha gọi chị tư dậy nấu khoai lang cho bữa sáng cả nhà, cha gọi út mau đi chăn trâu trên những cánh đồng xa, nhớ mang sách đặng học bài con nhé.

Tôi ào về quê trong một đêm lặng lẽ, chuyến tàu xình xịch băng qua những kỷ niệm thiếu thời. Tôi nợ mẹ nợ cha trọn vẹn những nụ cười, nợ ánh mắt vời vợi đợi chờ ngày về đứa con yêu xa xứ, nợ bàn tay run rẩy của cha trong những chiều vàng ruộm một mình chống gậy ra đầu ngõ, cô đơn…

Tôi nợ cha già những lời hứa chưa một lần trọn vẹn, là sống vui vẻ bình yên không bươn chải quá nhiều. Những bước chân khập khiễng liêu xiêu, bàn tay run run nắm chặt tay tôi hẳn cha đang sợ mình vấp ngã. Cha đã già, còn tôi vô tâm quá. Biết còn được mấy lần dắt tay cha vững vàng như ngày thơ trẻ tôi được cha cõng trên lưng.

Tôi hỏi ” cha không còn nhớ con nữa sao?”, cha gõ đầu ” vớ vẩn nào, là út Hạnh học lớp hai, nhiệm vụ chăn trâu, tối lùa vịt vào chuồng chứ ai nữa”. Vâng, cha không quên, chỉ là cha đang nhớ những ngày tháng xa xưa gần bốn mươi năm khi con trẻ quây quần, cha đang trở về sống trong ký ức thân thương.

Hai cha con dạo bước trên triền đê với ánh nắng vãi vương. Bóng cha vẫn cao, bóng tôi vẫn thấp, chỉ là cha đã phải chống gậy, và tay tôi đang giữ chặt tay cha dìu những bước xế chiều.
Dẫu đã muộn màng, dẫu đã để thời gian hoang phí biết bao nhiêu, tôi dặn lòng từ bây giờ sẽ chuộc lỗi vô tâm khi để mẹ cha cô đơn trong ngôi nhà đủ đầy tiện nghi mà vắng những ríu ran thuở nhỏ. Tôi sẽ cùng cha trở về những ngày tháng bình yên tròn đầy của ký ức. Dẫu có thể ngày mai vào một chiều lưa thưa nắng, cha bỗng quên tôi…

Hoa vườn mẹ

M ẹ tôi có phong thái, nếp sống rất “tư sản” kiểu nhân vật bà Hiền trong Một người Hà Nội của Nguyễn Khải, nhưng lại có tay nuôi trồng rất “thuần nông”! Trong kí ức của tôi, hình như ở bất kì nơi nào, chỉ cần một mảnh sân nhỏ xíu phía sau ngôi nhà ở đường Mạc Thị Bưởi (Nam Định), vài mét ban công ở tầng ba khu tập thể Thành Công (Hà Nội) hay mảnh vườn rộng ở khu tập thể giáo viên nơi sơ tán…, mẹ đều có thể tận dụng nuôi trồng một thứ cây, con gì đó.

Mẹ nuôi từ gà, ngan đến thỏ, lợn, con nào con nấy đều đua nhau ăn, thi nhau lớn. Mẹ tận dụng thức ăn thừa, đong thêm ngô, mua cám bánh, bã đậu, mỗi ngày nấu một nồi cám, cho cả đàn ngan gà, lợn cùng ăn chung… Đàn gà của mẹ chen chúc trong cái chuồng gỗ góc sân; đàn ngan thả rông ở sân; đôi lợn thì mẹ cải tiến cái nhà tắm thành chuồng lợn, dội nước suốt ngày sạch sẽ! Chỉ riêng đàn thỏ là cầu kì hơn, giống thỏ thích nhất là ăn lá râm bụt, nhưng dù lá gì cũng phải khô, lá ướt là thỏ đau bụng, bỏ ăn ngay.

Mỗi đợt thỏ lớn, đủ cân xuất chuồng, mẹ dành một con để lại cho nhà, còn bán cho các cô bác hàng xóm đã đặt trước.

Nhớ mãi một lần, khi cả nhà sơ tán theo trường bố mẹ ở xã Mỹ Phúc, còn độ vài ngày là bán thỏ thì một buổi sáng, mấy chị em tôi đang ngủ bỗng giật mình tỉnh dậy vì tiếng kêu thảng thốt của mẹ: Thỏ mất hết rồi, các con ơi! Ba chị em tôi mắt nhắm mắt mở, chạy lao ra sân, đứng sững sờ nhìn cái chuồng trống không, gần chục con thỏ trắng muốt đã không cánh mà bay.

Chẳng biết nói gì với mẹ, cũng chẳng biết chửi kiểu mất gà, ba chị em mắt đỏ hoe nghe mẹ buồn bã trả lời các bác hàng xóm sang hỏi thăm, rồi tôi dắt hai em lặng lẽ đi vào nhà. Hôm ấy tôi cứ nghĩ: Nếu như kẻ trộm vào nhà lấy cái đài hay cái xe đạp, chắc chúng tôi sẽ không đau xót đến thế, vì giá trị vật chất có thể ngang nhau, nhưng với một đàn thỏ đã gắn bó với chúng tôi gần một năm trời, từ khi chúng còn nhỏ xíu đến nay đã đứng chật chuồng, chị em tôi hàng ngày chăm sóc, quét dọn, đi hái lá râm bụt, thậm chí khi lá ướt còn ngồi cẩn thận lau khô từng chiếc lá trước khi cho vào chuồng thỏ, hàng ngày ngắm nhìn đàn thỏ lớn dần, đã hình dung tới những món đồ, những bộ quần áo mẹ hứa sẽ mua khi bán được thỏ…, sự mất mát ấy đau xót hơn rất nhiều so với mất cái xe, cái đài, bởi hôm ấy, chúng tôi đã mất những con thỏ trắng muốt xinh đẹp, mất đi cảm giác thân thiết gắn bó gần một năm trời, mất đi bao nhiêu hi vọng, đợi chờ sau khi bán thỏ…!

Mẹ cũng rất thích chăm bón cho những luống rau trong khu vườn nơi sơ tán, những chậu cây trên ban công, hay một mầm cây nhỏ bé trồng ở góc sân nhỏ xíu trước nhà… Các đồng nghiệp của mẹ ở nơi sơ tán thường ngạc nhiên khi một cô giáo người thành phố, phong thái rất đài các, ăn mặc rất chỉn chu như mẹ lại rất giỏi trồng cây, những luống rau mẹ trồng non xanh mơn mởn, những chậu hoa mẹ chăm luôn rực rỡ ngát hương.

Có mấy mét vuông trước cửa nhà, mẹ trồng một cây móng rồng và một cây hoa ngọc lan, mỗi lần về thăm mẹ, lại thấy cây lớn nhanh như thổi, ngoảnh đi ngoảnh lại vài năm, vòm lá với những bông hoa lan trắng muốt đã vờn ngang cửa sổ tầng hai; cây móng rồng cũng xòa quyện vào vòm ngọc lan, thi nhau nở hoa thơm ngọt cả không gian.

Rồi mẹ lên Hà Nội ở với em gái tôi mấy năm, trông con cho em đi làm, mẹ chiết một cành móng rồng mang lên trồng vào cái chậu sành màu gan gà, đặt trên ban công tầng 3 khu tập thể Thành Công. Với sự chăm sóc “mát tay” của mẹ, chỉ sau vài năm, chậu cây móng rồng lại sum suê tươi tốt.

Năm 2010, sau khi mẹ mất, tôi mang chậu cây về nhà trồng, chỉ lạ là cả chục năm trời không thấy ra hoa, tôi vẫn giữ cây vì đó là cây của mẹ, và còn vì vòm lá luôn xanh tươi tới dịu lòng! Tới năm 2020, tôi sửa nhà, cây cao quá nên phải chặt gần hết cả cây, chỉ còn trơ lại một đoạn thân chừng 30 cm giữa chậu đất khô trắng. Chậu đất với cái gốc cây trụi ấy bị thợ quăng quật ở giữa nền nhà ngổn ngang xi măng cát sỏi, gần nửa năm trời không ai tưới tắm, vì bận, cũng vì nghĩ cây chẳng thể sống, chỉ là bận quá chưa ai mang bỏ đi; thi thoảng tôi về nhà nhìn thấy đầu thuốc còn đỏ lửa, bã chè còn nghi ngút khói nóng đổ trên mặt đất khô trắng của chậu cây, thoáng xót lòng, rồi cũng lại quên… Tới khi nhà sửa xong, kê dọn lại đồ đạc, chậu đất với đoạn gốc trơ trụi vẫn được đặt tạm trên tum, lạc lõng cạnh những chậu hoa, chậu cây “tân gia”… Khi tưới cây, còn chút nước, nhiều khi “tiện thể” dốc nốt vào chậu đất ấy.

Thế rồi, sau vài mùa xuân, sự bao dung của trời đất hay sức sống của cây đã đem tới sự hồi sinh và phát triển kì diệu từ đoạn thân trơ trụi ngày nào, lớp lớp điệp trùng cành lá mướt mát xanh tươi lại vươn dài ra ngoài khung sắt sân tầng 5. Ngắm chậu cây móng rồng, thấy ngạc nhiên và thương xót vô vàn cho màu xanh mang bản năng sinh tồn bất diệt của tự nhiên, bất chấp sự dập vùi, thờ ơ, tàn nhẫn của con người. Tôi không còn chờ hoa nữa mà mặc nhiên nghĩ sẽ chăm sóc cây móng rồng từ vườn mẹ, dù chỉ để ngắm màu xanh dịu lòng của vòm lá.

Cho đến hôm qua, khi trận bão Yagi (bão số 3 của năm 2024) vào Việt nam, tràn qua Hà Nội, vòm cây sấu bên cửa sổ nhà tôi oằn vặn trong bão, giàn hoa giấy run rẩy, những cành móng rồng xanh thẫm cũng vật vã trong gió mưa…; lựa khi gió hơi ngớt, tôi lên tum quay đoạn clip ngắn, lưu lại hình ảnh “mảnh vườn” nhỏ bé yếu mềm của tôi tự mình chống chọi với bão tố. Sáng nay, bão tan, trời Hà Nội xanh yên như chưa hề có bão Yagi, tôi lên vườn và bàng hoàng ngắm nhìn chậu cây của mẹ: hai bông hoa móng rồng, mỗi bông sáu cánh dày, cứng cáp, màu vàng nhạt như nắng thu, vừa e ấp vừa kiêu hãnh nép sau vòm lá xanh vẫn còn ướt nước mưa đêm. Tôi ứa nước mắt, thầm gọi: Mẹ ơi!

Quà của biển

A nh bảo, mùa này bàng vuông vừa kết nhụy, anh không có trái bàng nào để tặng em…

Trong ba lô người về từ đảo thường có những món quà quen thuộc của biển.Những cụm san hô mảnh như một nhánh cây, trắng ngà ngọc tưởng chừng như trong veo, những con ốc biển đủ hình thù, kích cỡ, những viên đá nhỏ được sóng và thời gian mài giũa, trên đó ghi nắn nót dòng chữ theo phong cách thư pháp. Những trái bàng vuông như búp tay con trẻ… đẹp giản dị vô cùng.

Nhưng trong ba lô của em từ đảo về còn có những món quà không giống ai. Anh có biết không, nó chiếm một góc rất lớn cả theo nghĩa không gian, cả theo nghĩa tâm hồn. Nó hiện hữu và không hiện hữu, hữu hình và vô hình. Nó làm em nhung nhớ, day dứt khôn nguôi.

Anh có biết không. Ở đảo Phan Vinh, em lẩn mẩn đi ngắm từng gốc cây, ngọn cỏ. Cây ở Phan Vinh xanh ngút ngát. Những cây tra, bàng vuông, phong ba, bão táp… phiến lá nào cũng xanh, dường như cây nghĩ mình chỉ có màu xanh nên cứ xanh thẫm lên, xanh khắc khoải yêu thương khắc khoải đợi chờ.

Phan Vinh có nhiều cây, những gốc tra lâu năm, cành to nhưng uốn lượn cầu kỳ, từng tán lá điệu đà đan vào nhau tỏa bóng mát. Dưới bóng mát ấy, em gặp những người lính hải quân đang ngồi giải lao sau giờ huấn luyện. Em đã ngồi cùng họ, uống nước trà đặc chát môi, đặc như xắt ra thành miếng, như cầm nắm được. Chén trà đưa lên nặng trĩu vị đất liền, thơm chao chát cả trời chiều.

Nhấp một ngụm trà, thấy cả miền Thái Nguyên cả miền Mộc Châu cả miền Trung du… thấy vị đất liền đắng đót nhớ thương. Em đã hát cho những người lính nghe những bài hát về mẹ, về Hà Nội. Chao ôi, ánh mắt người trai Hà Nội chiều hôm ấy, vời vợi nỗi niềm.

Quê nhà tôi ơi, xứ Đoài xa vắng. Khói chiều mênh mông, sông Đà buông nắng. Nhớ thương làng quê, lũy tre bờ đê. Ước mơ trở về, nghe mẹ hiền ru, bên thềm đá cũ...Trần Tiến

Những người lính đảo ấy, họ có gì mang hết ra thết người ở đất liền, nhiều người ghé lại, gốc tra hôm ấy trở thành điểm hội ngộ. Không còn ghế thì ngồi bệt xuống nền xi măng, có sao đâu, những người lính cũng ngồi thế mà, đôi bàn tay có thể lấm, bộ quần áo có thể lấm, chỉ có trái tim không lấm láp, trái tim yêu quê hương, yêu Tổ quốc, yêu biển đảo một tình yêu vẹn nguyên không sạn gượng.

Có một chiếc ghế hình thù khác lạ, các chiến sĩ nhường cho em ngồi. Chiếc ghế ấy tự tay các anh làm, nhựa cứng được hơ nóng, uốn dẻo và hàn lại, ở giữa khoảng rỗng được ken một tấm gỗ để tăng sức chống. Ghế ở đây làm không chỉ để ngồi, mà để thử làm cho vui, thể hiện sức sáng tạo của bộ óc và sự khéo léo của đôi bàn tay. Em đã thốt lên: “Chiếc ghế thần thánh này, em thích nó”. “Em thích thật ư”? “Thật, cho em nhé”. Niềm vui chợt sáng lên trong “ánh mắt Phan Vinh”. Em từ đất liền ra, nơi đó có bao nhiêu chiếc ghế được thiết kế nghệ thuật, điệu đà, cớ gì em thích chiếc ghế mộc mạc này. Nhưng em thích thật, em nghĩ trong đó có sự kiên nhẫn, có niềm vui, có dấu vết đôi bàn tay chai sạn, có vị muối, vị mồ hôi.

Món quà gửi theo xuồng trở về tàu cho em là chiếc ghế, được bọc kỹ, và anh biết không, trong túi còn 2 hộp sữa Elsua nước. Ở đây không có hoa hồng, không có quà lưu niệm, không có thiệp và không những lời có cánh, chỉ có sự quan tâm chân thật đến thật thà. Hai hộp sữa ấy em còn giữ nguyên không dám bóc, không nỡ bóc. Nó theo em về đất liền, đặt ngay ngắn ở Góc Trường Sa, em vẫn ngắm nghía nó những lúc một mình, vẫn rơi nước mắt vì món quà ấy.

Hành trang về đất liền của em còn có cả cỏ hoa và những chiếc lá khô. Cỏ dại và hoa dại, từ đảo Trường Sa Lớn, em chơi trò đám cưới với tụi trẻ con. Chúng nó vần em ra bãi cỏ, hái hoa và cỏ dại cài lên mái tóc em làm cô dâu. “Không cần chú rể, chúng mình chơi trò đám cưới nhé”. “Cô đưa tóc đây con cài hoa”, “Cô nhớ hoa của cô dâu cô không được ném, con buồn”. Em đã cài nó vào một ngăn cạnh của ba lô, mang nó lên máy bay trong cái nhìn lạ lẫm của nhiều người, rồi đưa về đất liền. Anh biết không, nó vẫn còn vẹn nguyên trong chiếc túi kỷ niệm của em.

Hành trang về đất liền của em có tệp lá tra, lá bàng khô. Chúng mình đã đi dọc buổi chiều, anh bảo, mùa này bàng vuông vừa kết nụ, anh không có trái bàng nào để tặng em. Nhưng anh ạ, ai cũng muốn hái hoa, ai cũng muốn mang quả về thì còn đâu màu xanh cho đảo, còn đâu hoa trái cho người sau đến ngắm. Em không tiếc nuối đâu. Nếu đúng vụ bàng vuông trái đã đầy, em cũng sẽ không hái. Kể cả những trái khô đã rụng, trái để cho nẩy mầm, cây mọc cho mùa sau. Em nhặt những chiếc lá khô bay xạc xào dưới gốc cây. Những chiếc lá bàng vuông, dài hiền hòa như con thuyền nhỏ, đậm lên một thứ ánh vàng như hoàng hôn trước bão; những chiếc lá tra điệu đà uốn lượn, như hình lá trầu khuyết, vàng nhạt trăng non.

Anh đừng thắc mắc. Em mang quà ra Trường Sa chưa đủ, em không muốn lấy gì từ nơi đó về đất liền nếu nó còn có ích cho Trường Sa, nhất định không.

Em đi, không chỉ chăm chăm với những bài báo trong chuyến công tác. Có những lúc chỉ đi, rất chậm, ngắm nhìn như đóng dấu vào nỗi nhớ hình hài đảo nhỏ và những gương mặt dấu yêu. Anh bảo đảo thường mang hình giọt nước. Giọt nước mưa hay nước mắt hả anh? Hay là giọt sữa từ bầu vú mẹ. Cho nhớ thương, cho ngọt ngào, cho day dứt. Giọt sữa chắt ra từ cơ thể mẹ, là thân thể Tổ quốc nơi sóng gió đấy anh.

Hành trang của em là những cái ôm không muốn rời. Mùi mồ hôi mặn mòi, không nước hoa, không mỹ phẩm, cái mùi khiến người ta muốn vùi mặt vào mà không gợn lên chút hoài nghi.
Trường Sa mùa này đang bão phải không anh? Những cơn bão chồng lên bão. Em nhận được một cuộc điện thoại qua sóng vệ tinh. Người lính Hải quân nói với em rằng đang cùng đồng đội phòng bão tới. “Bão thiên tai là chuyện bình thường, bão nhân tai thì cũng không đáng sợ đâu em. Cứ bình tâm nhé. Các anh sẽ bình yên trở về”.

Và ngày nào em cũng gọi điện thoại cho người lính ấy, rồi gửi một tin nhắn, gửi đi lời chúc bình yên. Những cuộc điện thoại không có sóng phản hồi, những tin nhắn cũng không hồi đáp. Dù rất vững tâm nhưng lòng vẫn xa xót mong chờ. Hàng tháng trời lênh đênh đầu sóng ngọn gió, giữ đảo, giữ biển, đối diện với hiểm nguy, gian manh rình rập, không mong chờ sao được. Khi nào điện thoại có tín hiệu bắt sóng, khi nào tin nhắn có phản hồi, tức là các anh đã hoàn thành nhiệm vụ trở về. Họ sẽ về phải không anh. Biển này là của ta, đảo này là của ta!

Giờ thì em đã hiểu, quà của biển không chỉ là san hô, ốc biển, bàng vuông. Quà của biển là ân tình, anh ạ. Với em bây giờ, món quà lớn nhất là sự bình yên của các anh – tín hiệu bình yên gửi về từ biển đảo.

Lộc vừng dệt áo cô dâu

t háng sáu, người gặp người sau khoảng thời gian bận rộn, cùng ăn một bữa cơm thân mật kỉ niệm ngày thành lập Hội liên hiệp văn học nghệ thuật tỉnh nhà. Trong bữa cơm ấy người hỏi người chốn xưa, cảnh cũ, nơi ấy, lộc vừng đã nở hay chưa? Người bảo, giữa tháng sáu, thêm một tuần nữa thôi là hoa đã bung lụa rồi. Tôi chợt nhớ bốn câu thơ mình đã viết khi về thăm Làng Cội ngày ấy, cũng thời gian này, đương lúc lộc vừng dệt áo cô dâu.

Một đêm trĩu nặng thân gầy
Đỏ không ai biết bởi ngày nhạt hương
Sớm mai trút áo bỏ buông
Thắm hơn xác pháo phủ đường tiễn dâu.

Người ta viết về hoa lộc vừng nhiều tới không đếm nổi, là loài hoa tượng trưng cho may mắn, cho mĩ miều, cho tình yêu thuỷ chung như sự tích ông bà kể lại, lại cũng là man dại, kiêu sa. Riêng tôi, mỗi lần bần thần lộc vừng vào mùa hoa, chẳng biết vì sao tôi lại thấy buồn, buồn như có thể khóc lên ngay lập tức; như có một chiều cô gái cởi váy cưới ở sân trước, một mình rơi nước mắt xuống những chiếc bát ngất ngư trong chậu ở sân sau. Vì sao ư? Tôi không biết. Tôi luôn có những tưởng tượng hoang tàn với màu đỏ, cho nên lộc vừng đỏ cũng không ngoại lệ bị gạt ra. Có lẽ bởi vì, sinh thời anh trai tôi mang về một cây lộc vừng và nói, “anh trồng cây hoa đỏ này, sau này em gái anh lớn, chờ người và hoa cùng nở, hái hoa vào thêu lên váy em mang.”

Váy đỏ bắt mắt, hoa đỏ người cứ khiến phải quay đầu. Mặc dù chơi hoa lộc vừng cũng phải kiên nhẫn giống như chờ hoa quỳnh nở vậy. Khi phía bên kia đồi mặt trời không còn gay gắt nắng, đàn chim chậm rì chao nghiêng về chân núi, hoàng hôn lảng bảng hững hờ rơi; thì phía bên này – nơi ven hồ mặt trời ai xô ngã vào nước lăn tăn hồng tươi, con cá trắm phi thân đớp ngọn cỏ lả lơi – những chùm lộc vừng tưởng như ủ rũ cả ngày bắt đầu rục rịch, chầm chậm rũ sợi, len lén toả hương. Từng chút từng chút bung tròn rồi thả dài, tới khi nắng tắt, cũng nhuộm đỏ cả một khoảng trời, cũng níu đỏ cả một lòng người, mắt say không nỡ chớp, chỉ sợ gió lướt qua nhẹ tênh một cái, nhành hoa run rẩy, rụng đầy dưới chân.

Ngắm hoa lộc vừng nở cần một tâm hồn ưa phiêu bạt, một cái cổ không biết mỏi, và một chiếc mũi không bị viêm xoang. Bởi vì khoảnh khắc khi những dải sợi xanh bắt đầu xoè chấm tròn luồn kim chuẩn bị may áo cưới, ta sẽ thấy được giây phút thăng hoa nhất của cả một đời hoa, ta sẽ không thể không ngẩng đầu như bị đóng đinh trên thánh giá, lại càng không ngừng hít lấy hít để những sợi hương thơm dịu, đằm mình trong từng bông thắm, bện xoắn lấy cả đất trời. Hương lộc vừng không nồng, không ngọt ngấy, cánh hoa rực rỡ là vậy mà mùi hương lại đối lập ít nồng nàn. Vừa đủ để nâng mũi hít thêm nhiều lần nữa, vừa đủ để thấy lòng yên lại, dịu ngoan. Nếu có thêm chiếc máy ảnh, quay chậm lại khoảng thời gian tuyệt vời này, nhất định đó sẽ là một thước phim để đời của riêng kẻ yêu hoa có tấm lòng lang bạt. Một bông, mười bông, một chùm, mười chùm, một sợi, ngàn sợi… Mắt không đếm kịp, tay không ôm hết, cả một vòm rộ đỏ, cả một rừng chuông hoa. Trong đêm tối, gió sẽ đung đưa nhẹ, côn trùng sẽ cùng hoà ca. Nếu có thêm tri kỷ, ngồi pha một tách trà dưới những chiếc chuông hoa ấy, thi vị đủ cả, ngắm hoa thưởng trà, thi nhân ngày xưa chắc cũng chỉ cầu có vậy. Lãng mạn cũng từ đó mà sinh ra.

Chỉ một đêm thôi, thưởng thức cho đã đời sắc màu của mộng mị. Ngủ một đêm ngon giấc, sáng hôm sau muốn ngắm hoa rụng phải dậy trước năm giờ. Không cần gió thổi, không chờ bình minh. Từ xa đã phải ngỡ ngàng trước những thảm hoa dày đặc, đỏ như máu, đỏ như pháo, đỏ như son môi cô gái trẻ. Bán kính xung quanh cây, bán kính cây nghiêng trên mặt hồ, nơi nơi phủ kín. Chỉ một đêm thôi, chỉ còn trơ lại trên cành những nhuỵ hoa cứng cáp, những li ti đỏ vụn, những run rẩy mảnh tơ, đều đã một lần trút xuống sạch trơn, im lặng đợi chờ, chờ chân ai bước đến. Đừng giẫm lên mà tội, đừng trách vội mà đau. Nếu như chiếc thảm đỏ ấy được bện chỉ thành hình, được nhẹ nhàng cẩn trọng nâng lên, được dịu dàng khoác vào vai cô gái nhỏ còn đang ngơ ngác trước tạo hoá, ta liền có được một cô dâu. Nhớ nhặt một bông hoa ấy lên cài trên đầu. Chỉ thế thôi, buổi sớm này không cần khăn voan trắng. Chờ một lát mặt trời mọc, những tia nắng đầu ngày lười biếng rọi tới, thấy mình đi lạc hồn ai.

Năm đó tôi cưới vào cuối thu, khi sương trắng đã chạy một hơi dài, mà lộc vừng hoa từ lâu đã cạn. Chỉ nhớ tôi đã đi qua mười mấy lần tháng sáu, tháng bảy, mấy trăm con đường người ta trồng lộc vừng làm cảnh, cũng mười mấy mùa chứng kiến hoa rơi dệt áo, dệt rồi chẳng tặng cho ai. Bởi kiếp hoa không dài, người lại không thể chờ nổi một đêm trời lặng gió. Anh trai tôi không đợi được cùng tôi ngắm hoa lộc vừng nở, người tôi thương không đợi được cùng tôi chứng kiến khoảnh khắc lộc vừng tàn. Vế trước buồn diễm lệ, vế sau sầu đa đoan.
Ngày ấy tôi không biết vì sao váy cô dâu phải cài lên hoa đỏ, ngay cả lớn lên, đọc qua bao nhiêu sách tôi cũng không thấy phong tục nơi nào như vậy bao giờ. Tôi tạm gọi điều này là phong tục của anh trai. Anh tôi yêu chiều tôi theo cái cách mà mỗi người anh cả không mang trong mình tế bào nghệ thuật, vắt kiệt cả não mới nghĩ ra được một điều nhỏ nhoi con gái, dỗ dành em gái được vui. Cho nên, tôi cứ thương nhớ mãi cây lộc vừng của anh tôi không bao giờ kịp nở hoa mùa ấy. Khi anh tôi mất, bằng một sự tâm linh nào đó, cây cũng rũ lá trước trời. Để bây giờ, ngay cả khi có thể tự mình mặc váy cưới không vì một người đặc biệt nào cả, tôi vẫn muốn chọn cho mình tháng sáu; tự mình ghim những li ti đỏ, mềm mại đỏ, thương nhớ đỏ, của một mùa hè không trở lại, của cây lộc vừng không sống lại, của trái tim anh tôi chẳng trở về, của những mùa lộc vừng ngắn ngủi, nhưng lòng tôi vẫn luôn bất tận, dài lê thê…

Dáng quê

A i cũng có trong lòng một dáng hình quê hương để mà thương, mà nhớ. Với tôi, đó là hình dáng con đường đi học, hình dáng của bụi tre làng thấp thoáng trong đêm trăng. Là dáng mẹ gánh lúa trên đê hay là dáng cha đang lom khom cày ruộng. Chỉ hai tiếng dáng quê mà rưng rức lòng, có lẽ đó không chỉ là nơi ta được sinh ra và nuôi lớn, mà còn là nơi chan chứa nhiều kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ. Chẳng cần phải xa quê mới cảm thấy nhớ quê, như tôi vẫn ở trong lòng quê mà không phải quê xưa, vẫn ở mảnh đất này nhưng không còn tìm thấy ngôi nhà xưa, con đường xưa đâu nữa.

Dáng quê trong tôi là chiếc bờ ruộng làm đường đi vào thôn chỉ vừa cho một người đi lại. Bờ chật nên hàng xóm giữa đường gặp nhau thế nào cũng chào và thăm hỏi râm ran. Chiếc bờ ruộng thẳng tắp ngăn hai thửa ruộng mướt xanh, hai bên mọc lên nào là hoa dại. Ngày đó nhà tôi có một chiếc xe đạp, không biết bao lần tôi đi xe bị ngã nhào xuống ruộng nhưng vẫn rất thích. Ngã thì ngã vẫn đứng lên chạy tiếp dù chân tay đầy bùn đất lấm lem. Mỗi ngày đi học, lúc đi thì nhanh mà lúc về bao giờ cũng lâu hơn. Vì chung con đường nhỏ nên bọn con nít trong thôn hay túm tụm cùng nhau, chơi mấy cái trò như đá cỏ gà hay chỉ đơn giản là đuổi bắt nhau í ới. Nắng trưa chang chang là thế, chúng tôi vui đùa mặt nhễ nhại mồ hôi, tiếng cười giòn tan một thời thơ ấu

Dáng quê tôi hay là dáng mẹ, tất bật sau nhà bao nhiêu việc qua tay. Có dáng quê ai cũng giống quê tôi, là chiếc đòn gánh cong cong mẹ gánh nước, trăng vàng soi lóng lánh. Mẹ tôi hay gánh nước đêm để sáng kịp đi làm. Giếng mùa thu thơm thoảng hương trầu, mẹ giặt áo, mẹ gội đầu, mẹ gánh về đổ đầy lu, ánh trăng tràn ra khóm rau diếp cá. Giếng quê tôi sâu lắm, mẹ phải xách lên từng gàu nhỏ rồi mới đổ qua thùng lớn, ba gàu được một thùng, hai thùng thì được một đôi. Mà mẹ đâu có đếm bao nhiêu đôi thì được đầy lu, mẹ cứ gánh về đổ đến khi nào tuổi thơ con đầy ắp. Dáng quê trong tôi là dáng mẹ gánh đàn con theo tháng năm dài, chưa bao giờ mẹ nghĩ đến khi nào con cái có thể nuôi lại mẹ.

Dáng quê tôi là ánh lửa nhảy múa trong chiếc “đèn hột vịt”, mẹ chong đêm khuya khâu chiếc áo rách cho ba. Chiếc áo đó mẹ khâu chắc cũng mấy lần rồi, chỗ vá có khi lớn hơn những chỗ còn lành lặn. Chiếc đèn mẹ treo trên cây cột cạnh giường, phòng khi đứa em nhỏ hay giật mình trong đêm đòi mẹ rồi khóc quấy. Tôi lớn hơn em nên hay chờ mẹ ngủ cùng, trong khi mẹ làm, tôi hay nhìn vào ánh đèn leo lét kia. Bởi lúc đó cũng không có gì để chơi, tôi hay nhìn ngọn đèn và nhìn những cái bóng trên vách do ánh đèn vô tình tạo ra rồi tha hồ tưởng tượng và thích thú. Được một lát, tôi ngủ lúc nào không hay, chỉ giật mình khi mẹ xong việc rồi khe khẽ vào giường nằm bên cạnh. Việc cuối cùng trước khi ngủ là mẹ vặn đèn nhỏ lại cho khỏi hao dầu, tôi cũng bất giác nhìn theo hướng đó. Giấc ngủ tuổi thơ của tôi đọng lại trong mắt là ngọn đèn dầu, ngọn đèn thay mẹ dỗ dành giấc ngủ, ngọn đèn ấm áp tỏa sáng đời con.

Trong những hình dáng của quê hương, có lẽ in đậm trong tâm trí tôi là hình ảnh ngôi nhà và khu vườn cũ. Ở nơi đó dáng quê in hằn lên từng vách gỗ, in hằn lên mái ngói, in hằn lên cây bưởi, cây chanh và bụi chuối sau hè. In hằn lên cái ao sau nhà, lũ vịt xiêm lớn nhanh như thổi. Dáng quê trong dáng hàng tre trưa hè lộng gió, ba lấy tre già làm thành chiếc chõng bên thềm, nằm nghe gió chuyển mùa sang.

Dáng quê dịu dàng như khóm hoa lan, anh trai mang từ rừng về tặng cho em gái. Chị trồng thêm cây hoa nhài trước ngõ, mẹ hái pha trà cho ba thơm chiếc ấm cũ quai sờn.
Biết bao giờ mới kể hết những yêu thương, đôi khi người ta nhớ không phải là muốn trở lại thời khốn khó, mà nhớ để biết rằng có được hôm nay là nhờ những ngày xưa đó. Tôi nhớ mãi hình dáng của quê hương mình dù vẫn hân hoan với sự đổi mới. Tôi nghĩ đó không có gì là mâu thuẫn với tình yêu quê hương tha thiết nồng nàn, dáng quê và dáng mẹ, vẫn mãi trong lòng không thể nào quên.

Phận cây

V ạn vật hữu linh. Dưới một góc nhìn nào đó, vạn vật trong vũ trụ dường như đều có linh hồn, có “đời sống tinh thần” nhiều màu vẻ, có một dạng năng lượng tích cực tinh tế tiềm ẩn, và đều có thân phận, có hoạ – phúc trong quá trình tồn tại dù ngắn dù dài. Loài cây cũng vậy.

Cây cũng là một “sinh thể”, một sinh thể lạ lùng, có đời sống riêng đa dạng, có số phận nổi- chìm, tối- sáng. Tạo hoá sinh muôn loài, mỗi loài đều có lí do tồn tại, có “sứ mệnh” riêng. Sứ mệnh cao cả của cây là duy trì cân bằng sinh thái trên Trái Đất. Cây cung cấp không khí trong lành bằng cách hấp thụ CO2 và “nhả” ra ô- xy. Cây giữ đất, giảm xói mòn, tăng độ ẩm trong không khí. Cây cung dưỡng cho con người nguồn thức ăn, dược liệu, gỗ và nhiều sản phẩm thiết dụng khác…
Cây có vẻ đẹp bất tận, vẻ đẹp vĩnh cửu.

Cây tạo sắc xanh cho đất trời. Cây xoè tán, toả bóng mát chở che. Gió thoảng mơn man, cành lá xạc xào cùng tiếng ve râm ran hoà điệu, cây cất lên bài ca muôn thuở về vẻ đẹp của tự nhiên… Mùa xuân rực rỡ sắc hoa. Mùa hè mướt xanh bóng lá. Mùa thu đằm thắm sắc vàng. Mùa đông kiên cường trong giá rét. Mỗi mùa, mỗi trạng thái của cây có một vẻ đẹp riêng.

Nhưng cây đâu chỉ có vẻ đẹp nhởn nhơ. Cây cũng nếm trải đủ các cung bậc, sắc màu tối – sáng. Cũng có lúc yên bình tận hưởng tràn trề nắng, lồng lộng gió, mát mẻ mưa… Nhưng cũng có khi oằn mình, vặn mình nghiêng ngả chống chọi bão giông. Lúc thân cành trơ trụi khẳng khiu chịu rét. Khi lá cành rũ rượi héo khô trong cơn nắng hè đổ lửa… Nhưng loài cây với sức sống vô tận vẫn vượt qua, vẫn tồn tại. Cây xương rồng vẫn tươi xanh trên sa mạc bỏng rát, khô hạn. Cây phong ba vẫn trụ vững trước mặn mòi nước biển, gió biển và những cơn vùi dập cuồng phong bão biển trên đảo xa… Và, màu xanh bất diệt vẫn bao trùm lên sự sống từ ngàn xưa đến giờ.

“Vạn vật hữu linh”. Cây cối còn có khả năng “cảm nhận” và “phản ứng” với môi trường xung quanh. Cao hơn, cây cối dường như cũng có cảm xúc, cũng vui buồn, đau đớn, sợ hãi…, cũng nhận biết được tình cảm của con người, cũng gắn bó sâu nặng với con người…

Thật thú vị khi ta đến bên một cây Trinh nữ. Chỉ chạm khẽ vào cây, lá cây cụp xuống, mắt lá khép lại dường như e thẹn, sượng sùng. Ít phút sau, lá lại xoè ra, mở ra như cũ. Chả thế mà, cây được người đời đặt cho những cái tên giàu sức gợi: cây xấu hổ, cây mắc cỡ, cây e thẹn, cây nhạy cảm, cây nhún nhường… và còn có một cái tên tiếng Anh thật ấn tượng: touch- me- not (đừng chạm tôi). Thế nên, loài cây này cũng “ý tứ” thích sống ở chỗ râm mát, yên tĩnh, ít người qua lại…

Ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ xưa, hình ảnh cây trầu, giàn trầu trở nên quen thuộc, gần gũi. Dân gian truyền nhau rằng đêm về, khi cây trầu đang “ngủ”, muốn hái lá trầu, phải lay gọi, đánh thức trầu. Miệng thì đọc: “Trẩu trẩu trầu trầu / Mày làm chúa tao / Tao làm chúa mày / Tao không hái ngày / Thì tao hái đêm”. Nếu không đọc câu cửa miệng này, không đánh thức trầu thì sáng ra, giàn trầu héo rũ.

Cũng ở nông thôn xưa, trong tín ngưỡng của người Việt, người ta quan niệm rằng nếu trong gia đình có người mất, cây cối trong vườn nhà phải để tang, nhất là những cây cối do người quá cố trồng và chăm sóc. Một mảnh khăn trắng được buộc lên thân cây. Có trường hợp cây buồn rầu, héo úa, rồi “đi” theo chủ. Có thể chỉ là sự ngẫu nhiên, nhưng những động thái trên, cách nghĩ trên thể hiện mối quan hệ mật thiết, sự gắn kết chặt chẽ giữa con người và cây cối.

Chưa hết, “vạn vật hữu linh” còn được thể hiện đa dạng sắc màu. Trong khuôn viên cố đô Lam Kinh ở Thanh Hoá, gần lăng mộ vua Lê Thái Tổ, có cây ổi “biết cười”. Cây ổi này thoạt nhìn, giống các cây ổi bình thường khác. Cây gầy guộc, khẳng khiu, lá nhỏ. Chỉ cần gãi nhẹ lên thân cây, nhất là vào gốc cây, vào nách cành, tất cả lá cây rung lên như đang cười. Một nụ cười niềm nở vui tươi chào khách. Lại chỉ có cây ổi gần lăng mộ vua Lê là có khả năng bí ẩn này.

Trong tín ngưỡng của nhiều tộc người, nhiều quốc gia có khái niệm “cây thiêng”. Cây thiêng (sacred tree) được coi là có sự linh thiêng, được tôn kính, sùng bái. Về độ tuổi, cây thiêng thường là những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi, thậm chí hàng ngàn năm tuổi. Về chủng loại, cây thiêng thường gắn với tôn giáo, với phong tục, với truyền thống văn hoá – lịch sử ở các vùng miền, các quốc gia như cây đa, cây gạo, cây đại, cây thị, cây si, cây long não, cây sấu, cây muỗm… (ở Việt Nam), cây bồ đề (ở Ấn Độ)…

Cây thiêng thường nằm trong khu rừng thiêng. Người ta tin rằng có một vị thần quyền năng vô hạn cư ngụ ở gốc cây thiêng. Vị thần đó có khả năng hoá giải những khổ đau, bất hạnh, đem đến may mắn và hạnh phúc cho con người.

Cây thiêng có thể gắn với tên tuổi một nhân vật lịch sử nào đó. Ở Ngũ Phúc, Kiến Thuỵ, Hải Phòng có cây gạo cổ thụ hơn 700 tuổi, gắn với tên tuổi của Quỳnh Trân công chúa (con gái vua Trần Thánh Tông). Tương truyền, vào mùa xuân năm 1284, công chúa Quỳnh Trân trồng cây gạo với mong ước người dân có thóc gạo dồi dào, có bóng mát chở che. Từ xa nhìn lại, thân cây có dáng hình người mẹ ôm con. Những cặp vợ chồng hiếm muộn đến chạm tay vào cây, lấy vỏ cây làm gối, sẽ có con cái như ước nguyện.

Cây thiêng là cây cổ thụ sừng sững, bề thế, uy nghi, là cây cao bóng cả, được coi là biểu tượng của sức sống mạnh mẽ, về sự trường tồn của con người và vạn vật, là “nhân chứng lịch sử” chứng kiến mọi vơi đầy nhân thế, mọi biến thiên dâu bể. Cây đa và cây gạo ở nông thôn Bắc bộ xưa mang đậm dấu ấn của làng quê truyền thống, là nơi lưu giữ hồn quê, là điểm tựa tinh thần của cộng đồng cư dân làng xã, là nỗi nhớ khắc khoải của những người con xa xứ nhớ về quê mẹ.

Trong nhiều tín ngưỡng và văn hoá, cây được coi là linh thiêng và được trân trọng tôn thờ (tục thờ cây). Nhưng thật lạ lùng, hiện nay, ở xứ ta và trên thế giới, đó đây, cũng chính con người (lực lượng lâm tặc) vẫn xuống tay tàn sát những cánh rừng, triệt hạ cây xanh. Cây xanh vẫn chảy máu bởi lòng tham, sự thiếu hiểu biết, sự vô ý thức của một số người.

Trong một lần dạo chơi ở công viên, tôi tình cờ nhìn thấy trên lưng chừng thân cây của mấy cây chò, cây phượng vĩ… treo những tấm biển gợi nhiều suy ngẫm: “Mỗi ngày, tôi cung cấp đủ ô- xy cho 4 người. Hãy để tôi được sống và xanh vì chính các bạn!” và “Mỗi năm, 15 tỉ anh em của tôi bị chặt hạ. Hãy giúp chúng tôi!”… Đó là lời của cây, lời của người bạn thiên nhiên thân thiện quanh ta, đồng thời là một thông điệp, một lời nhắn nhủ xót xa gửi tới con người. Lời của cây, lời tâm tình và cầu cứu, đọc lên mà thấy nhói lòng.

Theo số liệu gần đây, hàng năm, trên toàn cầu, từ 15 đến 18 triệu ha rừng bị phá huỷ. Đáng sợ thay, mỗi phút có khoảng 2.400 cây bị đốn hạ. Mỗi ngày “khai tử” hàng trăm loài thực vật… Hậu quả nhỡn tiền là môi trường bị suy thoái, đa dạng sinh học bị xáo trộn, khí hậu thay đổi tiêu cực, tình trạng khô hạn, hoang hoá đất, xói mòn đất… diễn ra nhức nhối. Việt Nam không là một ngoại lệ. Nạn phá rừng ở nước ta đứng thứ hai thế giới. Hồi chuông cảnh báo đã rung lên mạnh mẽ từ lâu, nhưng vấn nạn này còn nhiều nan giải.

Ai cũng nhận thấy cây cối là biểu hiện của sự thiện lành. Bên cây, có cảm giác yên bình, thơ thới… Thế mà, cũng chính con người, lại tìm đủ cách để tàn hại cây. Nhỏ nhất là những hành động vô tình, vô tâm, vô thức của mấy người hồn nhiên đóng đinh vào thân cây, khắc tên để “lưu danh” vào thân cây… Cách đây ít ngày, tôi chứng kiến cảnh tượng người ta cắt tay cắt chân của những cây phượng vĩ trước mùa mưa bão. Lẽ ra chỉ cắt tỉa lá cành, người ta đã mạnh tay cắt chỉ còn trơ thân cây cụt ngủn. Có cảm giác hàng cây đau đớn đứng chịu trận. Trước thềm mùa hoa phượng, họ còn vô tình cắt đi những vầng hoa nở đỏ trời khi mùa hè đến.

Nhưng nhẫn tâm hơn là hành động đổ nước muối đặc quanh gốc những cây hoa sữa, để “bức tử” loài cây đã dâng cho đời những mùa hoa nồng nàn hương sắc. Cây sẽ từ từ chết, khi rễ cây hút thứ nước độc kia. Người ta viện cớ hương hoa sữa đậm đặc, gây cảm giác khó chịu, để từ đó xuống tay tàn hại những cây hoa sữa vô tội trên con phố cạnh nhà…

Phận cây có bao điều đáng nói. Phận cây là phận mỏng, mong manh, nhạy cảm. Có phúc và có hoạ. “Phúc” gắn liền với tín ngưỡng của con người, gắn với văn hoá tâm linh, gắn với những nơi người ta trân trọng cây xanh, coi cỏ cây là người bạn gần gũi, thân thiện và giao hoà, giao cảm với con người. “Hoạ” gắn với lòng tham, sự u mê, u tối của con người trong cõi nhân sinh. So với muôn loài, loài cây sinh ra để gánh vác sứ mệnh lớn lao, mang lại những tốt đẹp, tốt lành cho sự sống, cho nhân sinh. Nhưng chính loài cây cũng gánh chịu nhiều kiếp nạn, bị tàn sát, bị đốn hạ, bị bức tử…

Trái Đất này là của chung, của muôn loài. Môi trường, môi sinh là của muôn loài. Loài người giữ vai trò “cầm trịch” sáng suốt để tạo sự cân bằng, hài hoà, tạo sự tồn tại an toàn, bền vững. Cây cối, thiên nhiên cần được tôn trọng hơn. Con người sống trong sự bao bọc, chở che của thiên nhiên xanh tươi cỏ cây hoa lá. Con người chăm sóc, bảo vệ thiên nhiên…
Có như vậy, phận cây sẽ ngày càng tươi sáng, khởi sắc. Hoạ bớt đi mà phúc dày thêm. Cuộc sống tốt đẹp trong sự hoà hợp nhuần thấm giữa con người và thiên nhiên đang đón đợi mọi người.

Đêm đàn bầu

hồi xưa, ba tôi rất thích nghe các chương trình được phát qua máy thu thanh. Ông chỉ có duy nhất chiếc máy cũ được đặt cho một cát tên nghe khá ngộ là radio “ấp chiến lược”. Nghe đâu, người ta gọi như vậy bởi cái máy thu thanh này là sản phẩm được chế độ trước phát miễn phí cho bà con sống trong ấp chiến lược để nghe tuyên truyền.

Radio “ấp chiến lược” không đa dạng tần số như những máy khác nhưng được cái bắt sóng mạnh. Chẳng biết có phải do đặc điểm đó hay không mà nó được tận dụng đến mãi sau này.
Chuyện nông dân gắn liền với máy thu thanh là một điều hết sức tự nhiên bởi vừa nghe dự báo thời tiết để chuẩn bị mùa màng vừa thưởng thức các loại hình nghệ thuật khác làm giải trí những lúc rảnh rỗi.

Có bữa, ba tôi ôm luôn cái cái radio này ra rẫy để vừa làm vừa nghe sân khấu truyền thanh. Cách này chủ yếu là tạo cảm hứng tinh thần cho cả nhà để quên đi mệt nhọc. Ngày ấy, ti vi còn là một thứ xa xỉ đối với gia đình tôi lắm nên tất cả thông tin đều qua cái máy thu thanh này. Ngoài nội dung chính là thời sự trong nước và quốc tế thì nhà đài cũng cố gắng đem đến cho bà con nhiều chương trình để thưởng thức như kịch nói, cải lương, ca nhạc, tiếng thơ, câu chuyện cảnh giác, chương trình thiếu nhi và nhiều mục khác nữa. Ba tôi thích nghe đọc truyện đêm khuya.

Đọc truyện đêm khuya là một chương trình đa dạng nội dung bởi các nhà văn viết rất phong phú: khi thì nói về quê hương đất nước, lúc lại kể về người lính đầu súng trăng treo, một dạo mô tả chốn phồn hoa đô hội, có cả ca ngợi thôn quê yên bình; và, tất nhiên, không thể thiếu tình yêu đôi lứa. Ba tôi hay nói như vậy trong bữa cơm tối bên cái chái cạnh ao bông súng mỗi khi má thắc mắc sao ông cứ mãi thích nghe đọc truyện. Mà thật ra thì ba tôi nghe hết các chương trình chứ không riêng gì đọc truyện đêm khuya. Hồi đó, tôi cũng không chú ý đến chuyên mục này lắm, chỉ thích nghe nhạc, mà nhạc ngoại quốc thì mới ưng mặc dù chẳng hiểu gì cả.

Có câu mưa dầm thấm lâu. Ba nghe đọc truyện thường xuyên đến nỗi đâm lây sang tôi hồi nào không hay. Số là đứa nhỏ nhất trong nhà nên tôi cũng hay đến nằm với ông. Vậy là cũng được thưởng thức văn học mặc dù không câu chuyện nào nghe hết từ đầu tới cuối. Mà ở lứa tuổi nhỏ thì nếu có nghe hết cũng chưa chắc gì đã hiểu nội dung. Duy có một điều gây chú ý nhiều đối với tôi là những bài viết về quê hương; đặc biệt, có một số truyện được đọc bằng chất giọng trầm ấm của cô phát thanh viên trên nền nhạc là tiếng đàn bầu tạo cảm giác vừa buồn buồn, vừa êm êm trong đêm vắng làm xốn xang lòng người. Lúc đó, tôi thường ngủ quên luôn và coi như được một đêm ấm cúng cùng ba má. Rồi cũng bởi được chiếu cố như vậy mà đâm ra nhớ nhiều lắm.

Tính ra, kể về quê hương mà chọn tiếng đàn bầu làm nhạc nền thì quả khó có gì sánh được. Tìm một chút về thơ ca thì thấy thi sỹ Lữ Giang đã từng nói “…tiếng đàn bầu …cung thanh là tiếng mẹ, cung trầm là giọng cha …”. Trong cái âm hưởng dịu êm và buồn da diết ấy phảng phất hình bóng của hai đấng sinh thành – những bậc tôn kính mang dáng dấp nơi chôn nhau cắt rún bởi người ta hay nói nhớ nhà là nhớ cha, nhớ mẹ – ở đâu đó. Rồi mỗi câu, mỗi chữ phát ra từ giọng đọc ngọt ngào của cô phát thanh viên dường như đã lột tả được tất cả tình yêu đối với quê hương đất nước mà các tác giả muốn khắc hoạ và chuyển tải một cách sâu lắng nhất vào lòng người nghe. Đây thật là một giá trị nhân văn rất lớn.

Là âm thanh truyền cảm, tiếng đàn bầu đơn giản cũng giống chính thiết kế của cây đàn này. Cọng dây duy nhất đã làm nên những nốt cao thấp dìu dặt, quyến dụ hồn người. Sinh thời, nhà thơ Tạ Hữu Yên đã viết: “Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu…”, một kiểu dùng chữ rất hay mà tôi vẫn tâm đắc. Phải chăng thi sỹ đã thi ca hoá, mường tượng hoá để mô tả dải đất hình chữ S đông tắm biển, tây ấp núi chạy dài tạo nên một dáng hình thanh thoát như cô gái. Một cô gái có bản tính trầm lắng. Trầm lắng, cô đọng và đặc quánh như tiếng đàn bầu rớt xuống từng nốt, từng nốt. Không! Không phải từng nốt mà là từng giọt chầm chậm, mơn trớn xâm chiếm tâm hồn từ từ. Hồn người và cả hồn nước.

Thú thật, hồi còn nhỏ, tôi chưa thấm thía được ý nghĩa câu thơ của thi sỹ Lữ Giang. Nhưng đến khi lớn lên rồi mới thấy cách ví von đó rất hay – một kiểu lấy vật để nói người – trong đó, hình ảnh gắn kết giữa âm thanh chân chất của một nhạc cụ dân tộc với hình bóng con người là một nét đặc sắc. Mà vật lại mang hồn dân tộc, hồn nước rất đậm sâu. Hồn nước trong tiếng đàn bầu không mang tính tranh đấu mạnh mẽ như: “…cờ in máu chiến thắng mang hồn nước …” của Văn Cao mà nó là tất cả những gì thiết tha nhất, sâu đậm nhất và cô đọng nhất. Cô đọng đến mức tạo thành “giọt” như Tạ Hữu Yên nói thì quả là đang ở tầm mức cao nhất của tình yêu nước. Sự đậm đà này được chuyển tải bằng tiếng đàn bầu thì càng thêm sâu lắng tột cùng.

Lớn lên, xa nhà, tôi không còn được nghe đọc truyện đêm khuya nữa. Tuy vậy để nhắc nhớ tôi đặt cho những đêm xưa cái tên đơn giản là “đêm đàn bầu”. Một bóng đêm mịt mờ, một cơn gió xạc xào bờ tre, một giọng đọc truyền cảm cùng tiếng đàn bầu khi trầm khi bổng làm nền khiến bất cứ ai cũng khó cưỡng niềm nhung nhớ trong lòng về quê hương, về gia đình và về tất cả những gì được gọi là máu thịt.

Cành sen, áo dài và đàn bầu là những hình ảnh đại diện cho dân tộc. Đêm đàn bầu của tôi không chỉ là đêm an ổn giấc nồng của tình mẫu tử mà còn là những say sưa với hồn quê, hồn đất nước và hồn dân tộc không thể nào quên.

Dòng suối tuổi thơ

D òng suối nhỏ xinh đẹp ấy mềm như một dải lụa, quanh co, uốn lượn ôm ấp ngôi làng thân thương của tôi. Nó được sinh ra từ những giọt nước trong ngần, ngọt như sữa chảy ra từ trong lòng dãy núi đá vôi cao sừng sững phía sau làng, mang theo hương thơm của bao loài hoa cỏ trong cánh rừng già nằm dưới chân núi bốn mùa cây lá xanh mướt xanh.

Từ bao đời nay, dòng suối nhỏ như một người bạn gắn bó, chứng kiến mọi nỗi vui buồn của người dân quê tôi. Có lẽ cũng nhờ dòng nước trong mát, ngọt lành như sữa mẹ ấy mà những đứa trẻ nơi đây trở nên xinh đẹp hơn, khỏe mạnh hơn.

Mùa xuân, dòng nước trong vắt như thủy tinh, róc rách, tinh nghịch luồn qua những tảng đá, lượn qua những ruộng lúa, vạt ngô non tơ xanh mướt. Đứng trên bờ ta có thể nhìn rõ những hòn sỏi bao năm bị nước bào mòn tròn xoe, nhẵn bóng, đủ màu nằm lấp lánh như những viên ngọc dưới đáy nước. Vài ba chú cá cờ với cái đuôi mềm mại khoan thai bơi lượn, những con cua đá to bằng bàn tay, mai đen bóng, hai càng lúc nào cũng giương lên, thập thò nơi cửa hang ven bờ. Mỗi khi có ai khua động nước những chú tôm lưng xanh óng lại bật nhảy tanh tách. Hai bên bờ là những cây sếu, cây mị to vài vòng tay người ôm đứng nghiêng mình soi trên dòng nước trong như gương. Cành lá xum xuê, um tùm là chỗ trú ngụ của đám chim sâu, sáo sậu suốt ngày líu lo, truyện trò rôm rả. Hai bên bờ, từng vạt xuyến chi lá xanh mươn mướt, hoa trắng đến nao lòng khẽ rung rinh, những đám hoa trinh nữ thập thò, e ấp vài nụ hồng phơn phớt dịu dàng khoe sắc. Suối mùa xuân luôn rực rỡ sắc màu và rộn ràng như thế. Nó là bức tranh tuyệt đẹp in mãi vào ký ức tuổi thơ.

Hè đến, những trận mưa giông sầm sập đổ xuống. Nước dâng cao, cuồn cuộn sóng, cuốn trôi mọi rác rều, lá mục làm cho dòng suối như rộng thêm ra, cây lá hai bên bờ xanh ngăn ngắt. Hằng năm, ngày đám trẻ chúng tôi mong đợi nhất chính là những ngày lũ về. Sau khi nước rút, những đứa trẻ chân trần, tóc vàng hoe nắng tha hồi nhặt những chú cá sáp, cá diếc vảy lấp lánh ánh bạc, béo nhẫy theo dòng nước lũ mắc lại trong những đám cỏ rác ven bờ. Khi những chiếc giỏ đeo trễ nải bên hông mỗi người đã đầy ặc cá, chúng tôi gom nhặt vài ôm củi khô chụm lại đốt một đống lửa ven bờ. Những con cá tươi roi rói, nhảy tanh tách chỉ cần làm sạch, sát chút muối ớt, hơ trên ngọn lửa hồng một lúc là đã có món cá nướng thơm lừng, béo ngậy. Sau lũ, từng vạt đất phù sa mịn màng màu nâu đỏ chạy dọc hai bên bờ suối. Đó là thiên đường của rất nhiều loài rau dại: xương cá, cải cau, dền cơm, dền gai xanh mỡ màng đua nhau mọc lên. Chiều chiều, mẹ chỉ cần khua vài nắm rau tập tàng ấy, bỏ thêm vài con tép riu đỏ chót vào là anh em tôi đã có bát canh ngọt lịm, mát lành cho những ngày hè nóng nực. Rồi những trưa hè chang chang nắng, mấy đứa lại rủ nhau trốn ba mẹ, trèo lên những cành sếu vươn dài bên suối, chơi nhảy cối từ trên cao xuống, làm nước bắn tung lên thành tia mát rượi, hòa cùng tiếng cười khanh khách của lũ trẻ chúng tôi. Bao năm trôi qua, dòng nước thân thương ấy đã ôm vào lòng tất cả những trò nghịch ngợm, vui đùa của tuổi thơ tôi.

Mùa hè cũng là mùa hoa bông trăng nở rộ. Bên bờ suối, từng vạt hoa bông trăng rủ xuống sát mép nước, khe khẽ đung đưa theo gió. Những vạt hoa đẹp dịu hiền như nàng thiếu nữ Mường khiêm nhường, e ấp. Mùi hương thơm dịu cứ lan xa như mời gọi, như rủ rê. Không biết bao nhiêu chàng trai, bao nhiêu cô gái đã nên duyên nhờ những mùa hoa bông trăng dịu dàng ấy. Lời hẹn thề đôi lứa ẩn vào trong hoa, lời hẹn thề chìm vào trong lá để tình yêu bên dòng suối nhỏ mãi bền lâu.

Thu về, bầu trời cao xanh vời vợi, từng đám mây trắng như bông in hình xuống dòng nước trong veo. Gió mùa thu se sẽ thổi làm vài chiếc lá vàng lìa cành rơi xuống như chiếc thuyền nhỏ lững lờ trôi xuôi. Không ít lần, đám trẻ chúng tôi nhặt vài chiếc lá vàng, nắn nót viết ước mơ của mình lên đó rồi lặng lẽ thả trôi theo dòng nước. Không biết bao nhiêu ước mơ thời thơ bé đã xuôi theo dòng nước ấy mà trôi mãi về biển cả. Có ước mơ trở thành hiện thực nhưng cũng có không ít những ước mơ mãi chỉ là ước mơ ngây thơ, khờ dại thủa ấu thơ.

Những bãi sỏi sạch bóng hai bên bờ suối là chỗ đáp cho loài bướm cải đủ sắc màu trắng, vàng rực rỡ. Vào những ngày nắng đẹp, hàng trăm cánh bướm tụ lại, xập xòe đôi cánh, trông xa như tấm thảm hoa nhiều màu khe khẽ dập dềnh. Tôi thích chạy ùa vào giữa tấm thảm hoa lung linh sắc màu ấy để cho cả tấm thảm vỡ òa tung lên vô vàn những cánh bướm rực rỡ. Nơi đây cũng là nơi tập trung của vô số chuồn chuồn, keng keng. Những chú chuồn ớt đỏ rực, những con keng keng bé tí tẹo cánh màu xanh biếc, những chú chuồn ngô béo mập thập thò cánh xanh, cánh vàng thi nhau chao trên mặt nước.

Đông tới, trời se sắt lạnh. Nước suối như đông lại. Mặt nước được phủ mờ bởi làn hơi trắng nhẹ tênh, mỏng tang. Nước cạn hơn nhưng vẫn trong veo, mấy chú cá đòng đong cân cấn lượn vòng trong lòng suối cạn. Hai bên bờ, từng vạt hoa cải vàng rực rỡ như gom tất cả nắng ấm vào lòng để rồi nở bung lên sắc vàng làm ấm cả không gian. Những ngày này, bố tôi thường lội ngược dòng về phía đầu nguồn, hứng đầy hai ống bương thứ nước trong vắt rỉ ra từ lòng núi đem về pha trà. Thứ trà lâu năm mọc dưới chân núi mờ sương tự tay bố tôi chọn từng búp, vò rồi sao khô đem pha với thứ nước trong vắt ấy tạo nên một mùi hương đặc biệt. Mùi hương trà thoang thoảng, thơm ngọt, dịu nhẹ, quấn quýt trong không khí rất lâu. Nước trà sánh như mật, vị ngọt đọng mãi nơi đầu lưỡi làm cho những ngày đông bớt quạnh hiu, giá lạnh.

Chúng tôi lớn lên, dòng suối nhỏ chở tuổi thơ của tôi trôi xa mãi về nơi biển cả mênh mông. Bước chân tôi đã đi qua bao dòng sông, bao dòng suối trên đất Việt. Cảnh sắc nơi đâu cũng đẹp, cũng lung linh sắc màu. Nhưng không hiểu sao trong tâm trí tôi luôn nhớ về dòng suối nhỏ quê hương. Có lúc lòng thầm ước được quay trở về, được hòa mình vào dòng nước trong vắt như những ngày xa xưa.

Hạ cũ

Chào hạ với những ngày nắng nóng, bỏng rát má hồng ai ngang trên hành lang của dãy lớp học. Những đốm Phượng đã lập lòe đỏ ối góc sân trường mời gọi tiếng ve. Trên phòng làm việc nó nghiêng người quan sát và lắng nghe những thanh âm dưới sân trường đầy nắng qua ô cửa sổ, hai dãy lớp học thấp thoáng tà áo dài của ai bay trong gió, tiếng chim ca không ngừng hót véo von trên cành cây Phượng già, những tia nắng vàng óng nô đùa nhảy nhót len lỏi xuyên qua từng kẽ lá bàng xanh. Hạ về…

Nó nhớ Hạ cũ của nó, nhiều năm về trước nó cũng có những mùa hạ cũ, những tháng năm nó thường ngồi phía sau chiếc xe đạp cà tàng của cậu bạn cùng lớp tỏ tình với nó qua cuốn truyện Đoraemon. Đầu năm lớp 11 cậu từ đâu chuyển đến lớp nó học, rồi cậu mượn nó cuốn truyện doraemon, khi cậu trả lại cuốn truyện thì nó cũng nhận được bức thư tay ghi vội mấy dòng: Bạn tên là gì? Bạn bao nhiêu tuổi? Bạn có bạn trai chưa? Mình làm bạn với nhau nhé! Lúc đó nó đã nghĩ chắc cậu bạn đó thích nó chỉ vì nó học giỏi văn nhất lớp thôi chứ nó đâu có điểm gì đặc biệt. Rồi từ đó nó có một cái đuôi theo sau như bóng với hình, lúc đầu nó ghét ra mặt đấy và tỏ vẻ khá khó chịu nhưng vì nó có những giờ làm ca đến 22 giờ đêm mới ra về, nên hôm nào nó cũng được cái đuôi đó đạp xe sau hộ tống về tận cổng phòng trọ, vì vậy mà con đường đi làm về vào ban đêm của nó bớt trống trải và an toàn hơn và cũng dần dà con đường dẫn lối đến những trái tim trở nên đồng điệu hơn…

Cậu và nó đồng hành cùng nhau qua những năm tháng tươi đẹp của tuổi học trò, nó thì theo học khối c, nó học tốt môn Văn, cậu thì học khá hơn nó ở những môn tự nhiên nên hai đứa luôn bổ trợ và giúp đỡ nhau ôn tập và đạt được những kết quả tốt qua những kỳ thi của trường…Nó đã quen với món Hủ tiếu khô 10 nghìn một tô sau những buổi tan ca học cậu mua cho nó, nó đã quen những bịch bánh tráng cậu trộn và bỏ sẵn vào hộc bàn, quen cả cái khỏ đầu khi nó vò đầu bứt tai giải phương trình Hóa học. Và cả những ngày cậu chở nó đi học trên con đường ngập nước do trời mưa và thủy triều dâng, cậu đạp xe chạy băng băng và nói trời mưa ngập đường xe đạp thắng xe máy, cậu mới nói dứt câu thì ôi thôi nó nghe cái đoàng, thì ra là bánh xe sau nổ lốp… Thế là bất đắc dĩ cậu và nó trở thành diễn viên hài cho mấy đứa bạn được mùa cười hả hê…

Mùa hạ cuối năm ấy nó và cậu chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp quan trọng nhất đời mình, và chuẩn bị cho những lựa chọn trong tương lai khi rất nhiều ngã rẽ vào đời. Một buổi chiều tà khi hoàng hôn buông xuống thả những ráng nắng chiều lay động dưới dòng sông. Những cơn gió ngọt lành gợn đẩy làn nước sóng sánh lăn tăn, rất nhẹ nhàng nhưng cũng đủ làm xáo động cả lòng sông. Nó được mời đến phòng trọ của cậu chơi, một đứa con gái 20 tuổi lần đầu đối diện với những người lớn mà nó phải gọi là cô, là dì. Câu chuyện cứ xoay quanh tương lai của hai đứa nó, nào là tuổi tác bởi nó lớn hơn cậu 2 tuổi, rồi sự khác biệt vùng miền vì nó là người gốc Bắc, rồi hai đứa còn phải đi học, tương lai còn ở phía trước, hai đứa sẽ không hợp nhau…

Nó cảm nhận đầu nó bắt đầu ong ong, tai nó đang ù lên. Trong lồng ngực, trái tim của nó đang đánh trống liên hồi nóng ran. Nhưng nó vẫn kịp chào về rồi chạy ù ra lấy chiếc xe đạp. Nó lên xe phóng một mạch về phía thành phố, trời đã nhá nhem tối, nó không còn nhìn thấy con sông hồi chiều gợn lên từng con sóng nhỏ, mà chỉ có những làn gió dưới sông đang phà lên mặt nó mát rượi như xua tan cái khô khốc oi nồng trong lòng nó, như vỗ về tâm trạng bỏng rát của nó chiều nay. Nó cứ chạy, chạy về phía những ngọn đèn lung linh trên phố, để mặc cho tiếng gọi của cậu bạn nó vang vọng ở phía sau…

Cây Bàng vẫn xanh lá, cô Phượng già vẫn nở những đốm lập lòe mỗi khi nghe được tiếng ve kêu, tà áo dài của ai vẫn thấp thoáng bay trong gió, tiếng bạn bè vẫn gọi nhau trong lớp học oi ả…Chỉ có nó và cậu đã không còn là những mảnh ghép của tuổi học trò, cho dù có hay không cái buổi nó tới chơi phòng cậu ngày hôm đó thì câu chuyện học trò, tình cảm học trò của nó và cậu cứ lặng lẽ đi về hai phía con đường. Đã không còn những ngày cậu chở nó rong ruổi trên chiếc xe đạp trên con đường đến lớp dưới hàng cây Phượng vĩ … Nhưng vẫn là mùa Hạ cũ nó luyến nhớ rung động mỗi khi nghe được tiếng ve kêu…

Nhớ vị bò rim mật mía của ngoại

Đã bao năm rồi mẹ không còn nấu món bò rim mật mía đặc sản miền Trung quê ngoại. Tôi nhớ như in cảm giác thèm thuồng của chị em tôi khi gắp những miếng thịt bò thái mỏng ngọt ngọt mặn mặn trong mâm cỗ Tết của mẹ. Hễ ăn một miếng là nỗi nhớ ngoại cuộn lên da diết trong lòng. Tôi nhớ những ngày hè cách đây hơn chục năm, ngoại từng cho tôi ăn ngày ba bữa món bò rim mật mía suốt một tuần tôi sống cùng ngoại.

Có lẽ với ngoại, đó là món ăn ngon nhất ngoại có thể nấu để đãi cháu gái ở thủ đô mấy năm mới có dịp về thăm ngoại một lần. Buổi sáng đầu tiên thức dậy trên chiếc giường ọp ẹp của ngoại, thấy ngoại chuẩn bị giỏ làn đi chợ, tôi bật dậy như tôm tươi, háo hức theo chân ngoại đi khám phá vùng quê nhỏ thân thương, nơi mẹ tôi sinh ra và lớn lên. Khi còn nhỏ, chị em tôi từng được mẹ cho về thăm ngoại vài lần nhưng mỗi bận về chưa kịp quen mùi của ngoại, mấy mẹ con bà cháu đã phải ngậm ngùi chia tay.

Ra khỏi nhà, hai bà cháu tôi đi bộ qua con đường đất nhỏ ven một cái ao lớn để rẽ lên đê. Đi dọc con đê là đường ray tàu hoả khoảng vài cây số sẽ đến chợ Hôm của thị trấn Đức Thọ. Ngoại năm đó cũng 80 tuổi rồi, lưng tuy còng mà đôi chân vẫn còn nhanh nhẹn. Tôi chạy theo ngoại, tay cầm chiếc máy ảnh bấm liên tục. Đó là chiếc máy ảnh kỹ thuật số hiệu canon của Nhật tôi mượn thằng bạn thân trước khi lên xe về quê ngoại. Nhân chuyến này, tôi muốn lưu lại thật nhiều hình ảnh về ngoại và cảnh vật nơi đây.

Tới chợ, ngoại đi thẳng đến khu bán thịt bò lựa miếng nạc, thớ dày. Sau đó, ngoại sang hàng thịt lợn cũng lấy một miếng nhỏ, nhiều nạc. Cuối cùng, ngoại mua thêm vài con cá nục tươi rói, vảy lấp lánh màu bạc. Tay xách chiếc làn, tôi lon ton theo chân ngoại đi khắp con chợ nhỏ nhộn nhịp. Khi mặt trời dần lên cao, hai bà cháu tôi lại men theo con đê về nhà. Suốt thời gian ở bên ngoại, hai bà cháu không giao tiếp nhiều với nhau. Cùng tiếng Việt mà ngôn ngữ ngoại nói, tôi nghe như tiếng của nước nào xa xôi. Còn ngoại lại bảo giọng tôi như tiếng chim hót, ngoại nghe thì thích mà không hiểu gì. Tuy vậy, chỉ sau vài ngày, tôi và ngoại đã phối hợp ăn ý trong mọi việc. Chỉ cần nhìn ánh mắt, cử chỉ của ngoại là tôi hiểu ngay ngoại định làm gì. Hoá ra, khi người ta thực lòng muốn hiểu ai đó, lời nói cũng vô tình trở nên thừa thãi. Những âm thanh hay nhất, những cảnh sắc đẹp nhất, những tình cảm chân thành nhất đều phải được cảm nhận bằng trái tim.

Ngày ấy, bếp ga đã phổ biến ở quê ngoại nhưng trong chái bếp nhỏ xíu của mình, ngoại vẫn đun nấu bằng bếp củi. Sắp đồ trong giỏ ra, ngoại lấy bó lá trà xanh tươi đưa cho tôi rửa còn ngoại hì hục xếp củi, đổ mùn cưa xung quanh và nhóm lửa. Ngoại bắc một ấm nước trà xanh đặc trên bếp rồi mang thịt cá ra sân giếng. Tôi kéo mấy gàu nước đổ đầy thau nhôm và ngồi xuống kế bên quan sát đôi tay nhăn nheo mà thoăn thoắt của ngoại. Tôi giúp ngoại giã gừng, tỏi, hành khô, sả và ớt trong chiếc cối đá nặng trịch có khi nhiều tuổi hơn bác cả tôi. Khi ấm nước trong bếp sôi ùng ục, mùi lá trà xanh tỏa ra ngào ngạt, ngoại đổ vào một chiếc thau chờ nguội bớt rồi bỏ thịt, cá vào ngâm. Tôi đoán đây là cách ngoại làm để khử mùi hôi, tanh cho thịt cá. Trong lúc chờ đợi, ngoại lấy mật mía và nước mắm cá nguyên chất đổ vào chiếc nồi đựng hỗn hợp gia vị tôi vừa giã nhuyễn. Chai nước mắm này do bác tôi ở Cửa Lò tự mua cá biển về làm. Mỗi lần về quê, mẹ tôi đều được bác cho một chai ăn dành có khi cả năm mới hết. Mùi mắm nồng nặc quyện lẫn mùi thơm ngọt của mật mía cùng mùi của gừng sả tỏi ớt tạo thành một thứ chất lỏng thơm quyến rũ.

Thịt cá sau khi ngâm nước trà xanh đặc được ngoại để nguyên miếng xếp vào nồi gia vị và trộn đều. Ngoại ủ nồi thịt cá như vậy đến gần trưa mới cho lên bếp. Khi nấu, ngoại còn múc gáo nước mưa trong chum đổ ngập thịt và bỏ vào đó đủ loại gia vị khác như hạt tiêu tươi, hoa hồi, quế… Tôi nghĩ bụng công phu như vậy rồi chắc chỉ cần chờ thịt bò chín là xong. Ngờ đâu, ngoại cầu kỳ đến mức đun hai lần. Lần đầu, ngoại cho lửa thật to để nước trong nồi nhanh sôi. Sau đó, ngoại bắc nồi ra bỏ vào chiếc rế đợi nguội hẳn mới nấu tiếp lần hai bằng lửa nhỏ. Những thanh củi đỏ rực lửa được ngoại rút ra chuyển sang bếp bên cạnh nấu nồi canh rau tập tàng – mấy thứ rau dại được hai bà cháu hái trong vườn. Giai đoạn canh bếp nhỏ lửa để om đối với tôi như tra tấn vậy. Vì nó thơm, thơm đến nức mũi, thơm đến cồn cào dạ dày. Ngửi mùi thơm ấy thôi, tôi nghĩ mình chắc phải ăn được tới ba chén cơm.

Ngoại om có lẽ hết buổi chiều cho đến khi nước mật sệt lại đặc quánh, thịt lên màu đỏ hấp dẫn, ngoại dùng đũa chọc nhẹ vào miếng thịt bò mà các thớ thịt cũng tự tách ra, ngoại mới bắc xuống. Vừa kịp giờ ăn tối, tôi háo hức chờ ngoại cho thịt ra đĩa. Gắp một miếng thịt bò mềm nhừ bỏ vào miệng: vị mằn mặn của mắm, vị ngòn ngọt của mật và vị cay của gừng, ớt, tiêu ngấm vào đầu lưỡi, đi xuống cuống họng rồi đọng lại hoài ở đó. Đám rau tập tàng dân giã quẹt qua nước thịt đặc quánh có kém gì sơn hào hải vị. Đến tận giờ nghĩ lại, mâm cơm ngày nào của ngoại vẫn ấm nóng trong ký ức xa xăm. Nồi thịt ấy được ngoại hâm đi hâm lại ăn cả tuần. Ngoại để phần thịt bò cho tôi còn ngoại chỉ ăn thịt lợn và cá. Ngoại bảo ngoại không có răng nên không nhai được thịt bò khiến lòng tôi chợt rưng rưng nhớ mẹ. Mẹ cũng thường bảo mẹ không thích ăn phần nào đó để nhường cho mấy bố con tôi.

Một năm sau, ngoại mất, tôi không còn được ăn món ấy từ ngoại lần nào nữa. Từ đó, vào mỗi dịp Tết, tôi thường nài nỉ mẹ làm. Phiên bản của mẹ, thịt bò không mềm như của ngoại mà khi ăn sẽ phải thái lát mỏng chấm với tương ớt. Dù mẹ nấu rất ngon, cả nhà ai cũng thích nhưng riêng tôi vẫn không thấy giống vị của ngoại. Có lẽ khác vì không có mùi khói bếp, không phải vị mắm cá, vị mật mía ngoại từng dùng. Hay do tôi nhớ bàn tay nhăn nheo, gầy guộc, nhớ hoài tình yêu của ngoại bỏ vào nồi bò rim mật mía năm nào…