21 C
Hanoi
Thứ Sáu, Tháng 10 24, 2025

Lững thững… và yêu

C ó những buổi chiều, tôi ngước nhìn...

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...
Trang chủ Blog Trang 19

Ngày mưa nhớ cha

“Ngoài hiên giọt mưa Thu thánh thót rơi…” ấy là giọng hát ngân nga nho nhỏ của cha tôi mỗi lúc trời mưa mà tôi mang theo trong ký ức mình suốt thời thơ ấu cho đến tuổi xế chiều. Cái thời mà ai hát nhạc tiền chiến sẽ bị quy là “phản động”, với một người hoài cổ, có tâm hồn lãng mạn như cha tôi quả thật là nặng nề và khổ tâm vô hạn.
Cha tôi vốn lá một thủ lĩnh thanh niên thời thành phố Vinh tiêu thổ kháng chiến, cùng gia đình tản cư lên thị trấn Đô Lương. Những năm tháng tuổi trẻ của người là chuỗi ngày hăng say với công tác đoàn thể. Từng làm dân công tiếp vận cho các chiến dịch Biên giới, chiến dịch Điện Biên Phủ… trở về ông lại lao vào những hoạt động thể thao, văn hóa phục vụ bộ đội và nhân dân. Hình ảnh ông năng nổ trên sân bóng đá hay ôm đàn măng-đô-lin ngồi hát được khắc vào trí nhớ của các dì, các cô cùng thế hệ mà mãi mấy chục năm sau họ vẫn còn nhắc mỗi khi gặp lại. Khổ nỗi, người ta chỉ mê cha tôi khi ông tham gia phong trào văn, thể, khi ông làm cán bộ đoàn mà văn hay chữ tốt nên thường được phân công viết báo cáo, kẻ vẽ khẩu hiệu… còn khi đến chơi, thấy gia cảnh nhà nội tôi túng bấn nghèo nàn thì đều lảng ra hết. Bởi vậy, tiếng là tài hoa, tháo vát nhưng chàng cán bộ Đoàn thanh niên ngày đó cứ “ế” mãi, năm ba mươi tuổi mới gặp mẹ tôi và nên vợ nên chồng.

Gia đình nội tôi ba bốn đời đều chỉ có một con trai nên áp lực phải “phá thế độc đinh” đè nặng lên vai cha mẹ tôi từ những ngày đầu về với nhau. Lần lượt bảy đứa con ra đời, gánh nặng cơm áo làm cha tôi hầu như quên hết thú vui ngày trẻ của bản thân mình. Thời gian để đàn hát, chơi thể thao được chuyển đổi thành giờ làm thêm kiếm tiền, giờ giúp vợ công việc gia đình… Tôi nhớ hồi đó ông hay nói câu ngạn ngữ bằng tiếng Pháp “mười hai cái nghề là mười ba cái khổ” để tự giễu mình khi chị em tôi thán phục thấy cha hầu như không có việc gì là không làm được.

Ông đào giếng, làm nhà, rèn dao kéo, gò xoong nồi, khâu vá quần áo…Trăm thứ việc không tên của một gia đình có người vợ yếu và đàn con đông đúc gần như vắt kiệt sức cha tôi sau giờ làm việc ở cơ sở sản xuất và trực chiến trong tổ Dân quân tự vệ, ấy thế nhưng chưa bao giờ ông phàn nàn, ca thán mà luôn hóm hỉnh kể những câu chuyện vui để quên đi mệt nhọc. Tôi nhớ những đêm mùa Đông lạnh lẽo, sau khi quạt than ủ nóng cho mẹ tôi và em bé, cha đến từng giường kiểm tra xem chị em tôi đã đủ ấm chưa, mấy đứa em trai có đạp tung chăn hay thò tay chân ra ngoài màn… rồi ông lặng lẽ ngồi đọc sách bên ngọn đèn dầu leo lét. Truyện yêu thích của cha tôi là “Tam Quốc diễn nghĩa” và “Đông Chu liệt quốc”. Hai bộ sách ấy trong trí nhớ của tôi đã ố vàng, cũ kỹ, sờn và rách nhiều chỗ được ông dán và đóng lại bìa bằng giấy “xi-măng” để dùng được bền lâu. Không biết những câu chuyện lịch sử đó có ảnh hưởng tới cha tôi nhiều không nhưng từ lúc biết nhận thức tôi đã thấy ông sống theo tinh thần nghĩa hiệp, luôn quan trọng chữ tín, coi khinh kẻ luồn cúi, gian xảo trong cuộc sống.

Chính tính khảng khái, trung thực, thẳng thắn nhưng hơi thiếu mềm mỏng, khôn khéo nên dù có tư chất và khả năng bao quát công việc, suốt đời ông cũng chỉ làm cấp phó, nhiều lần được đề bạt nhưng rồi vẫn bị gạt ra khỏi những vị trí quan trọng. Những mơ ước thời trẻ không có điều kiện thực hiện, khi có con ông như dồn hết sang cho chúng tôi. Bận rộn bao nhiêu ông cũng dành thời gian xem bài vở của các con, dạy các con biết chăm học và biết làm những công việc phù hợp với lứa tuổi của mình để giúp gia đình. Tôi là chị cả của một đàn em trai ngỗ nghịch, từ nhỏ đã phải cùng cha mẹ trải qua những tháng ngày vất vả kiếm sống nhưng rất ham học và yêu thích đọc sách, làm thơ… những tư chất được “di truyền” từ cha nên ông hay gần gũi và tâm sự cùng tôi.

Có những đêm khuya sau khi học bài cha con tôi ngồi nói chuyện, ông luôn hồi tưởng quãng đời sôi nổi thời thanh niên, ông kể nhiều chuyện về các đời cụ, ông bà… Ông luôn nhắc để tôi nhớ rằng ông thích đi học biết bao và tuy học giỏi nhưng phải nghỉ học để đi làm từ thời niên thiếu là một sự thiệt thòi và nỗi tiếc nuối không bao giờ nguôi. Qua những câu chuyện, tôi hiểu rằng ông muốn chị em tôi phải cố gắng học hành dù khó khăn đến mấy, đừng như ộng phải gác lại những khát khao kiếm tìm kiến thức thời trẻ. Dù cuộc sống của một gia đình nghèo đòi hỏi mọi chi tiêu phải tằn tiện và tính toán chi li, nhưng chưa bao giờ ông từ chối khi tôi đòi mua sách. Ông nhịn ăn sáng, không may quần áo mới, tự mua sợi thuốc lá về cuộn thay vì hút loại thuốc lá có thương hiệu…tất cả sự dành dụm đó được chuyển thành những cuốn sách cho cô con gái đã có thiên hướng giỏi văn từ cấp một. Ngày tôi đạt giải nhất kỳ thi học sinh giỏi văn thành phố, ông còn vui hơn tôi.

Tết năm đó ông dẫn tôi đi thăm họ hàng, tiếng cười sang sảng, ánh mắt ấm áp khi “khoe” cô con gái với các cô các bác làm tôi nhớ mãi và luôn tự nhắc mình phải cố gắng để nụ cười luôn nở trên môi cha – một người cha âm thầm, tận tụy, quên cả bản thân mình vì đàn con đông đúc.

Cha tôi yêu thích dòng nhạc tiền chiến và thuộc nhiều bài hát giai đoạn này. Những ca khúc như “Dư âm”, “Sơn nữ ca”, “Thiên thai”, “Giọt mưa Thu”… thường đựơc ông hát nho nhỏ bằng một giọng trầm buồn. Ông hát không hay lắm nhưng rất đúng nhạc có lẽ vì ngày xưa chơi đàn măng-đô-lin. Những bài hát đó không được lưu hành trong suốt một thời gian dài, nhất là giai đoạn chiến tranh chống Mỹ. Hình như người ta cho rằng giai điệu du dương, gợi buồn của những ca khúc tiền chiến sẽ làm nhụt ý chí chiến đấu nên ai hát loại nhạc đó bị gán mác “phản động”. Cha tôi rất buồn, ông luôn hy vọng rằng đến một lúc nào đó người ta sẽ cho phục hồi những tác phẩm văn học, những bản nhạc hay hiện thời đang bị cấm. Giờ niềm hy vọng đó đã thành hiện thực thì cha tôi đã đi xa mấy chục năm rồi. Ông mất vì bạo bệnh ở tuổi 62, lứa tuổi mà giờ đây thế hệ chúng ta mới thực sự sống cho mình với những sở thích du lịch, thể thao, giao lưu bè bạn…

Cả cuộc đời cha tôi chưa được hưởng một ngày thảnh thơi sung sướng. Xứ Nghệ quê tôi mùa nắng nóng như nung, gió Lào ràn rạt khô cây héo lá. Cha tôi ngày hai buổi đạp xe đi làm lưng áo đẫm mồ hôi. Có những hôm trời đã tối mà còn nóng hầm hập, giếng cạn khô nước, vừa đi làm về ông lại nhảy ngay xuống nạo vét cát, chắt từng gầu nước nhỏ nhoi cho đàn con tắm giặt. Mùa mưa bão, một mình ông loay hoay chằng buộc trên mái nhà, trở xuống lại túm mảnh ni-lông che chỗ này, chắn chỗ kia cho nhà đỡ dột. Mẹ tôi sinh em bé, chúng tôi còn nhỏ, một tay ông giặt giũ, quạt than, nấu nướng, vừa chăm sóc vợ vừa lo cho đàn con trong cảnh nhà túng thiếu “giật gấu vá vai”. Nhiều khi tôi cũng thấy ngạc nhiên tự hỏi: một người đàn ông gầy nhỏ như cha tôi lấy đâu ra sức mạnh và nghị lực để quần quật quanh năm với việc công, việc tư mà vẫn đọc sách, làm thơ , thỉnh thoảng lại tự hát cho mình nghe vài bản nhạc tiền chiến để thỏa lòng hoài cổ, nhớ về một thời xa lắc ôm đàn ngồi hát giữa bạn bè nam thanh nữ tú cùng thời tản cư năm xưa…

Cha tôi – người cho tôi hình hài, người dạy tôi tính cách, người mà suốt thời thơ ấu của tôi đã thủ thỉ tâm tình như một người bạn, người khuyên bảo, hướng dẫn tôi từng chi tiết nhỏ nhất khi từ tuổi thơ qua thời thiếu nữ như một người mẹ… đã mãi mãi đi xa trong một ngày Hè năm 1990 để lại cho vợ con sự bàng hoàng đau xót mãi không thôi. Giờ tôi đã hơn tuổi cha ngày ấy, bước chân tôi đã đi qua bao miền đất, bao đất nước, ăn biết bao món ngon, ngắm biết bao cảnh đẹp…mà mãi cứ canh cánh bên lòng nỗi niềm thương cha. Nhớ lại lời cha nói mấy tháng trước lúc đi xa “Cậu vẫn muốn trở lại Sài Gòn lần nữa” mà không bao giờ còn thực hiện được, mắt tôi lại nhòa lệ.

Tháng Bảy mùa Vu lan báo hiếu. Mưa gió não nề cả tuần nay, lòng tôi quặn thắt nhớ cha, nhớ câu mà ngày xưa cha thường hát “Ngoài hiên giọt mưa Thu thánh thót rơi, Trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi…”

Thương quá lục bình

Ai bảo rằng chỉ người già mới hay sống bằng hoài niệm? Chỉ người già mới hay nhắc nhớ về những ngày xưa cũ? Không đâu! Thường nhớ về những tháng ngày đã từng trải qua dù thiếu thốn nghèo khó hay đủ đầy sung túc dường như là “thói” chung của hầu hết mọi người, dù già hay trẻ. Nói vậy để bạn đừng cười khi tôi nói rằng tôi chưa thật già nhưng cũng hay sống bằng hoài niệm. Tôi thường nhớ về những tháng ngày mình còn là một đứa trẻ. Nên chỉ cần gặp một hình ảnh quen thuộc nào đó của ngày xưa cũng làm sống dậy trong tôi một cách rõ nét những kỉ niệm của tuổi thơ.
Tôi ngồi đợi bạn trên lầu hai của một quán cà phê bên một dòng sông nhỏ. Nắng chiều nhàn nhạt trải trên mặt sông loang loáng sắc vàng. Đôi mắt tôi bị hút vào bè lục bình nhỏ đang dập dềnh nhẹ trôi theo con nước. Sắc tím biêng biếc của những cánh hoa lục bình mỏng manh như chạm cả vào miền nhớ trong tôi đầy tha thiết. Bởi tôi có biết bao kỉ niệm tuổi thơ gắn với cây lục bình. Loài cây mà người già quê tôi thường gọi là bèo tây, còn những người tầm tuổi cha mẹ tôi thì hay gọi là lục bình. Bọn trẻ con chúng tôi thì gọi thế nào cũng được. Kệ, lúc thì lục bình, lúc lại bèo tây, dù tên gì thì nó vẫn là loài cây mà chúng tôi yêu thích.

Tôi nhớ những chiều hè thả trâu trên triền đê, cho chúng tha hồ thong dong gặm cỏ là chúng tôi lại rủ nhau ra bờ sông, chọn chỗ cây đa có cành chìa sát ra mặt sông rồi thi nhau nhảy xuống tắm. Mặt sông lúc ấy vang rộn những tiếng nói cười ríu rít trẻ thơ. Nước sông chảy qua quãng chúng tôi tắm cũng như bị tiếng cười giòn tan níu lại.

Chẳng thế mà những bè lục bình đang trôi lại ngập ngừng chậm hẳn, có khi còn tấp lại chỗ chúng tôi. Bơi mệt, có đứa nghĩ ra trò bám vào bè lục bình to, trèo cả nửa người trên đó, nửa người thả xuống nước rồi để dòng nước đưa cả người cả lục bình chầm chậm trôi đi một quãng xa. Lát sau mới lóp ngóp trèo lên bờ chạy ngược lại rồi kiếm bè lục bình khác trèo lên. Lại thả trôi cùng những tràng cười giòn tan thích thú.

Tôi nhớ những bông lục bình nở tím một góc ao nhà mà chị em tôi hay hái về cùng chúng bạn chơi trò bán hàng. Hoa lục bình mỏng manh từng chùm khoe sắc tím bên bao thứ hoa dại khác mà chúng tôi hái được. Những chiếc lá lục bình nhỏ xinh, tròn tròn, nhẵn mịn được dùng làm tiền để mua bán trong trò chơi con trẻ. Trong túi áo, túi quần đứa nào cũng rủng rỉnh tiền lục bình. Kết thúc phiên mua bán, kiểu gì chúng tôi cũng ngồi lại đếm xem đứa nào nhiều tiền hơn, đứa nào bán giỏi hơn…

Lục bình không chỉ để bọn trẻ chúng tôi làm trò chơi. Đây còn là thứ rau ngon ngọt cho lũ gà, lũ vịt. Người làng tôi thường lấy lục bình về băm nhỏ, trộn lẫn với cám gạo hoặc cám ngô cho gà vịt ăn. Tôi hay theo mẹ kéo xe bò đi lấy lục bình ở ao làng. Sau khi nhặt sạch rễ đi rồi, mẹ sẽ xếp những mớ rau lục bình gọn gàng lên xe rồi kéo về. Lục bình xốp, thân giữ nước, để mấy hôm cũng không bị héo. Mỗi lần đi mẹ lấy thật nhiều về để phía cầu ao băm dần cho lũ gà vịt háu đói. Vài ba hôm mới đi lấy một lần.

Lâu lâu, mẹ cũng lấy bèo lục bình ở ao nhà khi thấy chúng đã đẻ ra nhiều. Rễ bèo trông như những chiếc lông vũ sắc đen buông rủ xuống nước từng chùm, là ngôi nhà lí tưởng cho bọn tôm tép và những chú cua, cá nhỏ. Chẳng thế mà khi mẹ nhấc những cây bèo ở dưới ao lên, kiểu gì cũng có vài con tôm, cá rơi ra từ bộ rễ đó. Lần nào mẹ vớt bèo ở ao tôi cũng thích thú cầm theo chiếc thau nhỏ đứng chờ, hễ thấy con nào rơi ra là chạy lại bắt, lại cười híp mí khi nhìn những chú tôm tươi rói nhảy tanh tách trong chậu.

Ngày xưa, người dân quê tôi còn thường dùng lục bình như một loại thuốc chữa bệnh. Người lớn, trẻ con mà bị mụn thì cứ hái ít lá bèo tươi đem giã với muối đắp lên, khi nào khô thì thay miếng khác. Đỡ sưng, đỡ đau rõ rệt. Rồi hoa lục bình chưng với đường phèn để chữa ho thì nhạy phải biết. Vài ngày uống là dứt liền cơn ho. Nhắc tới lại thấy ngày ấy sao mình khờ khạo quá chừng. Chỉ vì thèm cái vị ngọt của đường phèn chưng hoa lục bình ấy mà lâu lâu tôi lại cứ ước mình bị ho.
– Bèo dạt mây í i trôi, chốn xa xôi…
Bạn vừa kéo ghế ngồi vừa nhìn theo ánh mắt tôi về phía mấy cây lục bình trôi trên sông. Hát vậy thôi, rồi cười chọc tôi:
– Bồ lại nhớ quê, nhớ cái thuở đầu trần, chân đất, tóc khét mùi nắng cưỡi lục bình trôi sông rồi thì phải!
Tôi gật đầu cười:
– Ngày ấy vui quá, bình yên quá bồ nhỉ! Tự nhiên nhớ món canh đọt non lục bình nấu tôm khô của mẹ.
– Hoa lục bình luộc chấm với nước cá kho, vừa đẹp mắt vừa ngon. Còn ngó lục bình xào thì ngon không thua ngó sen. Bồ còn nhớ không?
Bạn hào hứng góp với tôi vài món của lục bình trong kí ức. Nhớ chứ. Nó ngon đến tận bây giờ.

Những ngày cuối năm

Những ngày này không có tên và ghi chú đặc biệt trong tờ lịch. Tôi biết thế. Nhưng có hề chi, tôi vẫn cảm thấy và mường tượng một cách rõ ràng rằng chúng là những ngày được bôi màu dạ quang sáng bóng hay được in chữ đỏ nổi cộm lên trong tâm trí mình. Cảm giác một năm cũ sắp qua đi với bao sự kiện buồn vui, được mất, những nhọc nhằn khó khăn, rối ren, hạnh phúc….

Giờ đây, tất thảy đều kết thúc, thay vào đó sẽ có nhiều điều mới mẻ bắt đầu. Một thời khắc mới, khởi đầu mới, rồi mọi thứ tốt đẹp hơn. Tôi thở phào trong mong cầu chờ đợi: Tiễn biệt năm cũ. Ta chào đón mi, năm mới!

Hằng đêm, có một thứ cảm giác nôn nao khó tả xâm chiếm tiềm thức đến mức khó vỗ mình vào giấc ngủ nồng. Tôi rón rén bước ra ban công, hít một hơi thật sâu… Những ngày cuối năm căng phồng trong lồng ngực, hương nhài quẩn quýt trên mi rồi quyến luyến mãi không rời. Ánh trăng ngày giáp rằm sáng trong vằng vặc từ trên cao rọi thấu cõi lòng, để lại chiếc bóng in lên thềm heo hắt.

Khí trời quyện cái se se mát lạnh cùng chút ẩm ướt của sương đêm tiết giao mùa, như rút lại thành viên đá nhỏ nằm ẩn dưới lớp áo vải mong manh khẽ làm tôi giật mình run rẩy. Tiếng đàn piano từ ban công nhà hàng xóm vang lên bản Moonlight Sonata. Giai điệu quá đỗi nhẹ nhàng nhưng sao đau đáu tiếc thương, mất mát, buồn đau. Bất chợt tôi đưa tay giữ lấy nỗi buồn nào đó đang dâng lên đè ép lồng ngực mình. Dưới ánh trăng huyễn hoặc cùng điệu nhạc trầm buồn sâu lắng mọi thứ trở nên mơ hồ. Mơ hồ nhớ, mơ hồ thương, mơ hồ da diết. Lẽ nào là nỗi mơ hồ của kẻ nhớ quê hương? Phải chăng thanh âm của những ngày cuối năm là đây?
Nếu đây là thanh âm của những ngày cuối năm tôi mong nó ở lại thêm chút nữa để tôi giữ lấy khoảnh khắc này mà miên man hồi tưởng…

Tôi nhớ thuở bé, những ngày cuối năm luôn là những ngày bận rộn, tất bật nhất. Đêm đêm dù buồn ngủ ríu mắt, con bé tôi vẫn lăng xăng quấn lấy chân má đến mọi ngóc xó trong nhà. Má thì lúi húi dọn dọn dẹp dẹp, tôi thì cứ lẽo đẽo theo bên chân đặt câu hỏi không ngừng. Mỗi lần ngó thấy má lôi hết bình trà ấm chén bấy lâu cất kỹ trong tủ ra lau rửa là tôi lại tò mò thích thú. Nhất là khi thấy cái bình to to có quai móc bằng hai sợi thép, trên cái nắp luồn sợi dây vải cột vào thành quai. Bức họa trên bình tôi nhớ không nhầm là một cụ già râu tóc bạc phơ cầm chiếc gậy; một phụ nữ mặc y phục như trong phim cổ trang Trung Quốc; một em bé có chỏm tóc ngay trán, đến bây giờ vẫn còn làm tôi thắc mắc. Không biết ý nghĩa của bức họa là gì? Hồi đó nhìn chiếc bình tôi đã hỏi má: Người ta vẽ ai đấy hả má? Những chữ tàu trên ấy viết gì? Má lắc đầu: chịu thôi, má cũng không biết. Nhưng cái bình này chắc chắn có tuổi đời lớn hơn con, rồi cả hai má con cùng cười xòa.

Má cứ lục đục dọn dẹp cả ngày. Âm thanh lách cách của tách chén chạm nhau, tiếng loong coong của nồi niêu xoong chảo, tiếng bếp lửa liu riu, tiếng cười nói rì rào của mọi người trong nhà… đã gọp lại trong trí nhớ tôi thành một thanh âm của những ngày cuối năm không thể nào quên thời thơ ấu. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy nếu lấy sợi dây mà xâu hồi ức tuổi thơ thành một chuỗi. Hồi ức được phân loại theo màu, thì chỉ cần nhìn lên chuỗi dây vừa xâu đó màu nào là màu sắc sinh động nhất sẽ là màu của những ngày cuối năm.

Sau này, khi rời xa quê nhà lên thành phố trọ học. Thanh âm của những ngày cuối năm trong tôi là một điều gì đó khắc khoải mong chờ, là nỗi mong ngóng trở về, là cảm giác nôn nao đoàn tụ, là những hoang hoải của cõi lòng không bao giờ nguội tắt… như khoét sâu vào nỗi niềm những âm sắc chưa kịp gọi tên. Nhất là những chiều tàn nắng mỏng, sau giờ tan tầm chạy xe về phòng trọ, bỗng nghe tiếng còi tàu từ đường ray cắt ngang vọng lại. Dồn dập, ngân vang, rồi xa dần, xa dần mất hút… Tự nhiên cảm thấy lòng mình chơi vơi. Nhớ! Phải chăng giờ này mắt má đang đăm đắm nhìn về phía cuối trời? Má chờ gì trong cái nắng chiều hôm? Chờ bóng hình các con trở về? Chờ một năm mới đoàn viên? Phải rồi! Một năm mới đoàn viên! Khoảng cách luôn làm con người ta khắc khoải, bâng khuâng. Ở hai đầu cách trở ai cũng mỏi mong ngày về gần gụi như những ngày nắng luôn đợi một cơn mưa mát rượi tưới tắm khô cằn.

Và ở thời khắc này đây, khi tôi đã trải qua đủ những cay đắng ngọt bùi của cuộc sống, đã cảm được cái mong manh vô thường của đời người. Thì thanh âm của những ngày cuối năm trong tôi lại có đôi chút khác xưa. Ngoài những nôn nao, mong ngóng đợi chờ, những nhớ mong khắc khoải quê nhà còn là nỗi lo lắng cơm áo gạo tiền, là nỗi sợ mất đi điều yêu thương nhất. Năm cũ qua đi, năm mới đến, con trẻ ngày một lớn lên, tóc má thêm trắng phau phau sợi bạc. Cảm giác tuổi già của má mong manh như nắng chiều. Những đêm dài má thao thức không ngủ, sợi tóc nào bay mỏi về giấc mơ tôi. Giọt nước mắt có bao giờ chảy ngược. Sẽ đến ngày tôi như má bây giờ, mãi mỏi mòn chờ đợi sự trở về của các con.

Đôi khi ngước nhìn lên bầu trời thành thị, những cánh chim xoải rộng cánh bay tán loạn nơi nóc phố, mặt trời buổi hoàng hôn phố thị không lặn xuống ở phía ngọn núi xa xa mà lẩn khuất sau những tòa nhà. Tôi tự hỏi lòng, có sự đảo lộn rối bời trong thời khắc chuyển giao chăng? Phải rồi thanh âm của những ngày cuối năm khi ta đã đi qua những ngày xanh trẻ sẽ rối bời chứ chẳng giản đơn như thuở còn thơ ngây.

Thanh âm những ngày cuối năm đọng chút sương đêm bên thềm, chờ nắng mai lên hong khô sưởi ấm… Chờ ngày đầu năm mới đến, mặt trời sẽ lại rạng rỡ mọc lên từ phía nóc nhà xa xa cuối phố, kiêu hãnh trên nền xanh bao la. Rồi một mai tôi lại bước đi, nhón từng bước giữa thênh thang cuộc đời!

Tết cũ xuân xưa

Sau những ngày đông rét căm căm ủ ê qua những cơn mưa bụi giăng khắp các con đường. Một sớm mai thức giấc, trời đã ửng hồng, hơi lạnh cuối đông vội vã rời đi, để lại nắng xuân dịu ngọt buông mình trên cây lộc vừng. Bố tôi tất bật sửa sang lại căn nhà. Bố quét ve để khoác cho căn nhà một diện mạo mới, quét sạch những vết loang lổ, hậu quả của nhưng ngày mưa mùa đông mưa dầm thấm lâu, khiến tường vôi bở ra. Tay bố thoăn thoắt cột chiếc chổi vào sào tre cho thật chắc, rồi bắt đầu công việc. Bên trong bố quét ve màu xanh chân tường giáp với sàn quét ve nâu cho sạch. Bên ngoài bố quét ve màu vàng. Dưới cái nắng gầy hao của những ngày giáp tết cũng đủ để hong khô, ngôi nhà giờ đã bừng sáng để chào đón xuân về bên thềm.

Đến ngày hai ba tháng chạp, đã nghe từ đầu làng đến cuối ngõ lao xao tất bật chuẩn bị cho một cái tết đầm ấm, sum vầy và no đủ. Các vị bô lão thông báo cho mọi người trong làng về việc sẽ dâng lễ cúng Thành Hoàng, phân công từng nhà chuẩn bị những lễ vật và chuẩn bị dựng cây nêu ngay sân đình và ở cổng làng. Ngày xưa ông tôi kể rằng: ông Công ông Táo quanh năm suốt tháng chỉ ở xó bếp, đến ngày 23 là cưỡi cá chép về trời, tâu với Ngọc Hoàng những điều mắt thấy, tai nghe ở hạ giới, tất cả những việc tốt, việc xấu, việc đã làm và chưa làm được của con người, các vị ấy đều tâu lên cả. Những năm chống giặc ngoại xâm, rồi đến thời bao cấp, thiếu thốn đủ đường, sang lắm chỉ có đĩa xôi gấc, cút rượu trắng, con cá chép bắt ngoài đồng, thế rồi cũng xong.

Những năm nay cuộc sống đỡ hơn đôi phần nên có thêm việc sắm đồ hàng mã, rồi mâm cao cỗ đầy. Ông thì nghĩ Thần phật, tổ tiên luôn bao dung, từ bi, nên đôi khi bày vẽ xa hoa lãng phí quá, có khi các vị ấy lại quở cho ấy chứ”.
Bà và mẹ tôi sáng sớm để chuẩn bị sửa soạn lễ vật cúng ngày ông công ông táo. Mẹ tôi bắt con gà trống tơ, tối qua đã nhốt sẵn trong cái lồng ở xó bếp để làm thịt. Bà nội tôi chuẩn bị kỹ lưỡng để đồ xôi đóng oản cúng đình. Bà ngâm gạo từ hai giờ sáng bằng nước giếng cổ mà bố tôi đã kẽo két gánh về từ tối qua. Khi xôi đã chín, bà đơm ra chiếc mẹt. Tôi lăng xăng giúp bà chạy ra vặt những chiếc lá mít to nhất, đẹp nhất ở ngoài vườn, rửa sạch bằng nước mưa.

Ảnh: Nguyễn Luận

Mở vung ra, nồi xôi trắng tinh, hạt cơm nếp cái hoa vàng, thơm lừng làm nao nao lòng người. Bà tôi đơm xôi rất khéo, tay bà thoăn thoắt quệt nhuyễn bằng chày, bà làm rất đều tay, khi xôi đã tràn bằng mặt đế, bà lật ngửa cái lồng oản lên rồi úp vào cái lá mít, xoay xoay cái tay, dùng chiếc chày thục nhẹ một cái đã ra chiếc oản tinh khôi.

Ông tôi quấn khăn mấn đội vào đầu, mặc chiếc áo dài the đen. Bà tôi đặt cái mâm oản lên đầu, một tay ông giữ mâm, tay ông cắp cơi trầu phết đỏ, trong cơi là những miếng trầu cau cánh phượng bà tôi đã têm tối qua. Ông đội ra ngoài đình, cùng các vị bô lão cúng Thần hoàng. Trong mắt ông, bà tôi và những người sinh, lớn lên ở làng, cả đời gắn với luỹ tre, bờ đê, với những cánh đồng lúa mênh mang thì “vạn vật hữu linh”. Nên những chiếc oản xôi ấy mang ý nghĩa phong thuỷ đặc biệt: “nếp cái hoa vàng tượng trưng cho sinh sôi, nước ở giếng cổ là món quà tạo hoá ban tặng cho người làng, xôi đồ trên ngọn lửa ấm nồng mang ý nghĩa chở che, ngọn lửa ấy chính là duy trì cho mối khăng khít giữa các thành viên trong gia đình. Thế nên một chiếc oản tưởng chừng như nhỏ bé, đơn sơ ấy lại ấp ủ cả ước vọng lớn lao, là thành tâm, thành ý của người nông dân chân chất thật thà dâng lên thần hoàng, mong ngài sẽ luôn bảo trợ cho làng, cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa mang bội thu”.​

Ảnh: Chử Hoàng Hải

Khi cây nêu của làng đã được các vị bô lão dựng ở đầu đình. Ông tôi trở về nhà, ra bờ ao chọn một cây tre thật thẳng nhất, cao nhất, ông chặt xuống, rồi dóc cho sạch thân tre, nhưng ông để lại ngọn và lá. Ông treo trên cây một vòng tròn nhỏ trong đó có vàng mã và lá bùa hình bát quái trừ tà. Bà tôi không quên bẻ nhánh xương rồng ở đầu ngõ đưa cho ông buộc vào. Khi dựng lên, chiếc khánh nung bằng đất, năm ngoái ông mua chợ Viềng, trong gió nó kêu leng keng đến là vui tai. Thế là âm thanh của tết đến, xuân về đã đến đầu ngõ nhà tôi. Sau khi làm xong ở nhà, ông còn đi vòng quanh xóm để phụ láng giềng dựng cây nêu.Thế là tết đã về đến ngõ. Những đứa trẻ con chúng tôi háo hức đi khắp xóm làng khoe quần áo mới.​
Sau này lớn lên, tôi vào nam lập nghiệp, hoà cùng nhịp sống năng động của chốn thị thành huyên náo. Nhìn thấy các bà, các mẹ, tươi trẻ, rộn ràng mua sắm và làm đẹp trong những ngày gần tết. Nhìn thấy các ông, các bác, các chú thong dong đánh cờ, nhâm nhi ly cafe thơm nồng. Tôi lại ngậm ngùi thương bà, thương mẹ, thương những người nông dân lam lũ trên mảnh đồng chiêm trũng mênh mang. Nơi đó, mỗi khi tết đến xuân về các bà các mẹ lại tất bật với nhưng lo toan, lễ nghĩa. Nhưng sau tất cả, tôi lại thấy mình hạnh phúc khi sinh ra và lớn lên ở làng, chẳng phải những khốn khó ấy đã giúp tôi có được một khoảng trời ký ức tuổi thơ tươi đẹp đó sao, chẳng phải nơi ấy tôi đã được sống trọn vẹn trong tình yêu thương của tình thân, của tình làng nghĩa xóm, của những phong tục dân gian đậm chất quê nghèo.

Bất giác tôi mỉm cười thích thú khi nhìn thấy trên tờ lịch bàn có in câu nói nổi tiếng của Edouard: “Văn hóa, đó là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học đủ đầy” .

Nỗi nhớ đầu đông

Tôi là Nguyễn Đình Ánh

Thành viên của Tản Văn Hay từ 17 tháng 11, 2019.

L ạnh của mùa đông đã dắt díu nhau về ngôi trường của tôi đôi đợt. Bận bịu quá nên tôi chẳng còn thời gian mà gian mà díu với từng cơn gió nhẹ, mà hẹn mà hò với từng cọng heo may len lén bên ô cửa nhỏ. Sáng nay lên trường, lại cảm nhận thêm đợt lạnh mới tràn về. Mưa bụi lất phất, lạnh la cà cả dọc hành lang dãy nhà hiệu bộ. Các cô cậu học trò đều đã khoác áo ấm, mấy bạn nữ đã choàng khăn…

Bỗng nhiên, tôi bâng khuâng nhớ về những ngày đầu đông xa lắc xa lơ năm nào. Tháng mười hai ấu thơ, rét mướt theo mẹ ra đồng, bẻ cải ngồng ăn, miệng thút thít vì vị nồng cay mà vẫn thích. Nhớ khoảng không gian êm đềm, bình lặng nơi cánh đồng quê. Ở đó, màu xanh của ngô khoai… bị phủ lấp bởi sương giăng buổi sáng. Nhìn kỹ mới thấy những bông hoa cải vàng tô điểm bằng những hạt sương mai lóng lánh. Dường như chúng đang cố vén màn sương để khoe sắc. Những luống khoai bắt đầu xanh tốt, hai bên luống những người nông dân cần cù còn trồng thêm rau cải để tăng thêm đồng thu nhập. Vì thế, những luống khoai dường như đã được lấp đầy bởi một màu xanh tươi tốt.

Cánh đồng quê muôn đời vẫn thế như bầu sữa mẹ nuôi nấng cả xóm làng trong những ngày giáp hạt. Mẹ xuống đồng tần tảo bòn từng bó rau đem ra chợ bán. Bà cũng ra đồng chọn những bẹ cải to xanh mướt, hái thành bó gánh về phơi qua vài nắng để muối dưa. Những đĩa dưa vàng óng cả tuổi thơ chúng tôi. Những đĩa dưa với khoai sắn là món thường nhật trong mỗi bữa ăn ở nông thôn ngày ấy. Buổi sáng ăn vội củ khoai với mấy quả cà muối, thế là lại vui vẻ đến trường. Những dưa cà, khoai sắn nuôi nấng chúng tôi dần lớn khôn…

Tháng mười hai năm cuối cấp ba, bạn bè bắt đầu viết lưu bút cho nhau mà có trang giấy ướt nhòe vì nỗi niềm xa cách. Những nét chữ trao gửi bao nhiêu nỗi niềm yêu thương của năm tháng học trò. Có ai đó viết tặng cho ai mấy vần thơ vào quyển sổ lưu bút mà đêm về thao thức. Có ai đó viết kín cả mấy trang giấy mà chưa chia sẻ hết nỗi niềm muốn gửi trao. Cũng có người chưa trao gửi được điều gì thì giờ biệt ly đã đến. Những đêm đầu đông, khi đang mải mê ôn bài bỗng gió luồn vào ô cửa nhỏ rồi chạm đến đánh thức làm xao động những nhung nhớ tuổi học trò. Cái lạnh đầu đông khiến ai đó bạo dạn đan tặng ai chiếc khăn ấm. Và rồi, nó thành kỷ vật đi theo ai đó suốt cả cuộc đời…

Tháng mười hai mịt mù sương khói của những buổi sáng mai ăn vội củ khoai để kịp đạp xe đến trường cùng mấy đứa bạn thân. Gió mùa thốc ngược vào chiếc áo khoác đã cũ. Lạnh đến tím cả chân tay. Vậy mà vẫn cứ vui đùa cùng nhau, cùng với những vòng quay của chiếc đạp cọc cạch bon bon đến trường đúng giờ. Nhớ cái lần nhờ cơn mưa phùn lất phất mà tôi có cơ hội chở người bạn ấy đến trường. Chả là đường trơn, bạn bị trượt ngã. Chiếc xe hỏng xích. Thế là có người tình nguyện nhiệt tình gửi giúp xe cho bạn và tủm tỉm cười với một ý nghĩ nào đó trong cái lạnh đầu đông. Đó có lẽ là cái cớ đẹp nhất trong quãng thời gian “ướp mộng học trò”. Và rồi, sau này có những phút giây nhớ lại, khoảnh khắc trong trẻo ấy lại đánh thức, khơi gợi bao kỉ niệm buồn vui của tuổi hồn nhiên áo trắng. Trong một phút giây nào đó, lòng chợt hỏi:

Em còn nhớ hay em đã quên?
Những tháng năm tuổi hồng vương lên lá
Em với ai hẹn hò rất lạ
Để rồi xa biền biệt phương nào?
Em còn nhớ hay em đã quên?
Tháng Mười Hai
vừa về chớm lạnh
Khăn em choàng
lấm tấm những giọt sương

Tháng mười hai trong vắt, tĩnh lặng, u buồn theo âm điệu bài thơ cô giảng “đưa người ta không đưa qua sông/ sao có tiếng sóng ở trong lòng/ bóng chiều không thắm không vàng vọt/ sao đầy hoàng hôn trong mắt trong….”. Tôi ngồi nghe những vần thơ ấy với những suy tưởng xa xôi. Cũng còn chỉ ít tháng nữa là chúng tôi – những bạn bè gắn bó ba năm dưới mái trường phổ thông sẽ chia xa nhau. Có thể trong số chúng tôi sẽ biền biệt phương trời chẳng bao giờ gặp lại nhau nữa. Cũng có thể phải mất nhiều năm sau chúng tôi mới có dịp hạnh ngộ với bạn bè, thầy cô. Chỉ nghĩ thế thôi mà lòng buồn mênh mang. Câu từ của những vần thơ bởi thế nó cứ vang vọng mãi trong lòng…
Điện thoại tít tít, trò nhắn “ Em nhớ trường, nhớ thầy, nhớ các cô nhiều lắm!”. Có lẽ mùa đông hồ dễ làm lòng người xao xuyến, nhớ nhung chăng? Đúng vậy, làm sao không nhớ không thương năm tháng học trò. Làm sao không nhớ không thương những buổi sáng tinh mơ, mấy đứa túm năm túm ba nơi cái ghế đá trước lớp học, ai ngang qua cũng nở một nụ cười chào nhau ấm áp cả sân trường. Nhớ cái dốc bao lần lên xuống nơi cổng trường. Con dốc ghi lại những lần muộn học bị các thầy cô Đoàn trường bắt phạt. Con dốc nhắc nhở bao lần ra chơi chạy ào xuống căng-tin ăn khao cái áo mới của nhỏ bạn. Con dốc bao lần lên xuống cho chúng tôi trưởng thành hơn…
“Tùng! Tùng! Tùng….” cô văn thư đánh hồi trống vang bay.
Tôi giật mình theo âm vang tiếng trống. Hình như thanh âm tiếng trống ấm áp hơn thường ngày. Hình như ai đó đang nhắc tên ai đó theo mùa, theo những ngón thon gầy nơi phố sá hay những con đường quăng quật nơi xa xôi. Tiếng trống thu vào lòng tôi và vỡ ra thành những thanh âm của hoài niệm xa ngái. Nỗi nhớ đầu đông da diết ùa về…

Gàu sòng mẹ múc ánh trăng

Tôi là Thúy Nga

Thành viên của Tản Văn Hay từ 26 tháng 8, 2019.

V ầng trăng lưỡi liềm mảnh mai trên bầu trời mênh mông vời vợi luôn gợi nhớ trong tôi về dáng hình của mẹ. Dáng mẹ cong cong tát nước gầu sòng trong những sớm mai, những buổi chiều hôm… Dáng mẹ cong cong như vầng trăng lưỡi liềm êm dịu…

Hình ảnh quen thuộc của mẹ mỗi khi đi tát nước về, quần thâm xắn ngang gối, áo cánh nâu ướt khoang loang lổ, những giọt mồ hôi chảy thành dòng trên gương mặt đỏ bừng của mẹ đã in hằn trong tâm trí của tôi từ những ngày thơ bé. Ôi, mẹ tôi tát nước gầu sòng!

Dáng hình của mẹ trong những ngày xa xưa khó nhọc ấy luôn hiện hữu trong ký ức của tôi. Tôi còn nhớ, ngày mới chia ruộng khoáng sản, tôi mười ba tuổi, bốn đứa em sau tôi lần lượt đứa này cách đứa kia hai, ba năm, nhỏ lít nhít. Nhà làm gần mẫu ruộng, đồng cao, đồng thấp mình mẹ tôi xoay sở, cấy lúa, làm màu, trồng khoai… Có vụ hạn hán, nước cạn tận lòng con ngòi, mương cái mương con khô lẻ đáy. Ruộng thấp ruộng cao, mẹ tôi cong lưng tát nước gầu sòng. Mẹ hay đi tát nước từ khi gà còn chưa gáy sáng, hoặc khi mặt trời đã lặn. Tôi ngây ngô hỏi” sao mẹ không đi tát nước ban ngày?”. Mẹ nói, tát nước ban đêm cho thong thả, không bị ánh nắng mặt trời, mà chỉ có ánh sáng mát mẻ của mặt trăng con gái ạ.

Có buổi sáng, bà gọi tôi dậy sớm khi trời còn nhìn chưa rõ mặt người,bà sai tôi xách theo ấm nước vối ra ruộng phần trăm tát nước với mẹ. Ruộng nhà tôi trên đồng cao nên phải tát chuyên hai lần tầu nước mới lên tới ruộng. Mẹ tôi đã đi trước để tát bằng gầu sòng từ mương lên đoạn máng cao hơn. Tôi vừa đi vừa còn ngái ngủ, chân bước thấp bước cao ra đồng. Phía trước bóng mẹ mập mờ khi thẳng khi cong, tay cầm cán gàu sòng, dướn cao người múc nước rồi lại cúi gấp cong người xuống. Cứ thế nhịp nhàng, từng gầu nước đục, nước trong được mẹ đổ gọn vào tầu nước trên cao. Dòng nước trườn mình chảy vào cái máng nhỏ rộng chừng hơn nửa mét, sâu qua gối người lớn, máng chạy men theo chiều dài, rồi lại chiều ngang ruộng lúa nhà hàng xóm. Từ tầu máng tôi cùng mẹ tát bằng gầu giai, vì tầu nước chỗ này cao gần lút đầu người, nước phải chảy qua một đoạn bờ bạ nhà bên rồi mới chảy vào tới ruộng nhà tôi.

Chả là mẹ mới dạy tôi biết tát nước gầu giai. Mười ba mười bốn tuổi mà tôi gầy khô như cây sậy, được cái rắn giỏi ít ốm đau. Hôm đầu tập tát nước gầu giai với mẹ, lúc thì tôi bổ chúi về phía trước vì vục nước nhiều quá, mẹ phải nhanh tay hất cái dây trôn gầu cho nước đổ bớt đi. Có khi tôi lại loạng choạng ngã bật ngửa ra phía sau, vì vục ít nước quá mà kéo gầu lên lại mạnh. Mẹ chỉ cho tôi cách điều khiển thả dây gầu miệng, dây gầu trôn thế nào để múc lượng nước vào gầu vừa đủ với sức của mình, kéo gầu đổ nước ra sao cho gọn. Vậy là đến cuối buổi tôi cũng đã biết tát nước gầu giai một cách nhịp nhàng, mặc dù chưa thuần thục cho lắm.

Tát cạn máng nước, tôi được nghỉ để chờ mẹ lại tát bằng gầu sòng từ mương lên máng. Tôi tung tăng chạy trên bờ ruộng nghe dòng nước đang nhẹ nhàng chảy vào ruộng lúa nhà mình. Tôi cảm nhận nước bò trườn vào từng gốc lúa. Gió nhẹ lao xao, trong lờ mờ buổi sáng, từng nhánh lúa như đang reo ca, múa hát. Tôi mường tượng cây lúa đang thỏa cơn khát, giống như tôi đi học về khát nước quá, chạy thẳng ra bể nước mưa, múc một gáo rồi uống ừng ực, chao ôi sao mà đã, mà mát ngọt đến thế! Hai mẹ con tát khoảng ba đến bốn máng nước thì đầy ruộng lúa, cũng vừa lúc bình minh ló rạng phía chân trời.

Có vụ mưa ít, nắng nhiều, trạm bơm nước bơm từ ngòi lên mương không đủ, mẹ tôi cùng mấy nhà phải rủ nhau tát nước chung cả gầu sòng, gầu giai, chuyên bốn, năm tầu nước mới lên tới ruộng. Đã thế nhà này chưa tát xong, đã có người khác xếp gầu chờ đến lượt. Có khi đến mười mấy, hai mươi nhà có ruộng một khu mà chỉ có một đường tầu tát nước. Nếu không có đường máng chung, phải tát nước chảy qua bờ bạ ruộng nhà khác, ruộng càng xa tầu, tát càng lâu. Bờ bạ thường thấp và mảnh, có khi đang tát bờ bạ nhà hàng xóm vỡ, thế là nước chảy toé loe hết vào ruộng nhà hàng xóm.

Lớn hơn, đủ chiều cao, sức lực để biết tát nước gầu sòng, tôi mới thấy nó vất vả thế nào,mới thấu sự cực nhọc của mẹ bấy lâu nay, mới hiểu tại sao ruộng cao, phải tát chuyên mấy lần tầu, mẹ hay đi tát nước vào lúc tối đêm hay khi gà chưa gáy sáng. Vì mẹ chỉ có một mình, nên tát nước ban ngày mất nhiều thời gian, khiến người khác phải đợi chờ lâu. Hơn nữa mẹ tranh thủ tát nước đêm hay sáng sớm, để ban ngày còn làm được nhiều việc khác nữa.

Khi tát nước gầu sòng, mực nước đầy nhưng mương máng sâu, khoảng cách để bẩy gầu bị hạn chế, tay sẽ rất mỏi vì luôn phải ở tư thế nâng ngang trước mặt rồi lên cao. Tầu cao, nước cạn thì khi hạ gầu múc nước phải rướn người, đưa tay cầm cán gầu lên cao hết cỡ, lúc bẩy gầu phải cúi thấp rạp người xuống, miệng gầu mới tới tầu đổ nước, gầu ngược gần như dựng đứng nên chỉ tát ít nước một, nếu tham múc nhiều nước sẽ toé ra ngoài, tát được đầy ruộng lúa lưng đau nhức, tay mỏi nhừ. Lòng mương, lòng máng mà hẹp, phải biết vị chí bắc ba thanh chân gầu cho phù hợp, khi hạ gầu múc nước cũng như bẩy gầu phải biết lựa chiều cán gầu, để cán gầu không mắc vào thành bờ. Tát nước cũng như làm bất cứ việc gì, phải có sự tôi luyện nhiều mới đúc kết được ra nhiều kinh nghiệm, mới thành thục nhuần nhuyễn. Người ta thường ví động tác tát nước nhịp nhàng, uyển chuyển đẹp như múa vậy!

Không biết trong những đêm tát nước dưới ánh trăng vàng êm dịu, tỏa ánh sáng mênh mang khắp nhân gian, mẹ có khi nào nhớ đến hai câu thơ: “ Hỡi cô tát nước bên đàng/ Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?” (*)? Có khi nào mẹ liên tưởng mình cũng như cô gái tát nước đêm trăng? Nếu có, mẹ có thấy vui, thấy phấn chấn trong lòng mà vơi đi bớt nhọc nhằn? Tát nước dù chỉ là một công việc quen thuộc của các bà, các mẹ, các chị, của bao thế hệ người nông dân một nắng, hai sương gắn bó với ruộng đồng, nhưng đã tạo nên một vẻ đẹp đặc trưng, dung dị mà duyên dáng, gợi lên bao xúc cảm để đi vào nhạc họa thơ ca.

Ảnh: Photo-graphe

Trong chiếc gầu sòng, mẹ không chỉ múc ánh trăng vàng, mẹ múc cả nắng mặt trời bỏng rát, múc cả những nóng bức oi nồng, những hanh hao giá rét ngày đông, mà mẹ còn múc cả những gió mưa, lũ lụt mùa giông bão. Mẹ gửi gắm trong từng giọt nước những lo toan, khao khát, những ước mong cho cây lúa nặng hạt trĩu bông, cho sắn khoai sai củ, cho hoa màu đơm hoa kết trái, mùa màng bội thu, cho chị em con và gia đình được no cơm, ấm áo!

Ruộng đồng ngày nay đã được san bằng, hạ thấp. Làm ruộng được máy móc hoá, bơm nước vào tận ruộng. Những cái gầu giai, gầu sòng, cùng nhiều vật dụng công cụ gần gũi, thân quen đã gắn bó với nhà nông bao đời nay đang dần vắng bóng, đi vào quên lãng, rồi đây chúng sẽ chỉ còn tồn tại trên những trang sách, trong ký ức, trong tiềm thức mà thôi!
Mẹ ơi, trong lòng con, hình ảnh mẹ tát nước gầu sòng cong cong như vầng trăng lưỡi liềm thượng huyền những buổi chiều hôm, như vầng trăng hạ huyền trong những sớm mai. Vầng trăng mẹ lưỡi liềm mảnh mai nhưng đủ sáng soi cho chị em con có tự tin, nghị lực vững bước trên đường đời.

Mẹ đã đi xa về miền sương khói. Mỗi lần trở về ngôi nhà xưa, con lại ngẩn ngơ nơi trái bếp tìm những gầu giai, gầu sòng, để tìm về dáng hình thân thương của mẹ. Bên gốc cây bưởi phía góc sân nhà, mẹ vẫn đang dựng chiếc gầu sòng, nét mặt mẹ dịu hiền cùng nụ cười đầy ấm áp sau vành nón nghiêng che. Gầu sòng mẹ múc ánh trăng!

(*) Thơ Bàng Bá Lân

Trăm năm ngọn cỏ mây trời

Ephoto360.com_16390b8ff46044

Tôi là Nhật Minh

Thành viên của Tản Văn Hay từ 30 tháng 6, 2021

T ôi lớn lên dưới mái nhà tranh gầy guộc liêu xiêu thơm mùi khói cơm chiều lửa đỏ, câu hát à ơi men theo vách thời gian đổ bóng xuống lời ru khi mẹ tôi tuổi đã xế chiều.

Có những trưa hè nắng như thiêu như đốt, tôi chân đất đầu trần, nghe tiếng í ới gọi nhau sau rặng tre mà trốn mẹ trốn cha rong chơi cùng lũ bạn. Bãi mía nương dâu làm nơi để trốn tìm, đuổi bắt. Chơi chán thì rủ nhau đi đào trộm củ sắn củ khoai… Chỉ một lúc thôi là mặt đứa nào cũng đen nhẻm và lem luốc với củ khoai hay bắp ngô nướng vội, tiếng cười trong trẻo rộn vang đan vào những lọn tóc đã ướt nhẹm, bết đầy bụi đất lẫn mồ hôi. Chẳng đứa nào bảo đứa nào, nhưng giây phút đó chúng tôi chỉ muốn nhảy ào xuống dòng sông tắm mát để xua đi cái bụi bặm và nóng nực của trưa hè.

Con sông quê yên bình bỗng chốc trở nên náo nhiệt khi bọn con gái cổ vũ, reo hò cho những đứa con trai tinh nghịch lộn nhào những vòng santo đủ kiểu trước khi vươn những cánh tay dài sải mình trên sóng nước. Chúng tôi thi nhau ngụp lặn và mất hút dưới lòng sông tươi mát, mặc kệ tiếng gọi vang dội cả khúc sông của những ông bố bà mẹ với chiếc roi dài và to tổ bố, hứa hẹn những trận đòn nảy lửa sắp xảy ra.

Rồi những buổi chiều hè trên triền đê lộng gió, chúng tôi ngồi vắt vẻo trên lưng trâu nơi đồng vắng, thả những cánh diều giấy bay cao, xa tận cuối chân trời. Tiếng sáo diều dập dìu cùng mây gió, như tiếng lòng của những đứa trẻ thơ khát khao về một tương lai đủ đầy, tươi sáng. Chẳng ai nói, chẳng ai hay, nhưng mặt đứa nào cũng rạng ngời hạnh phúc, ước mơ cha giờ đây tiếp nối cuộc đời con.

Khi nắng vàng chỉ còn loang lổ trên mặt dòng sông, những đàn chim mỏi cánh chao nghiêng bay về tổ ấm, đó cũng là lúc chúng tôi lững thững dắt trâu về. Bản đồng dao nhỏ dần vì đứa nào cũng phần nhiều thấm mệt. Khói cơm chiều bảng lảng trên mái rạ khiến chiếc bụng sục sôi với điệu nhảy tango vì cơn đói cồn cào.

Sau bữa cơm tối, tôi nằm trên chiếc võng đung đưa để nghe bà kể chuyện. Những câu chuyện cổ tích từ trong sách vở, hay câu chuyện về những năm kháng chiến chống giặc lẫy lừng của ông cha theo hơi nồng của miếng trầu phả vào tâm hồn suốt cả tuổi thơ tôi. Cứ thế, bà vừa gãi lưng cho tôi vừa phe phẩy chiếc quạt mo mà tưởng như dịu mát cả đêm hè. Dưới ánh trăng vàng như rót mật, tôi nhắm mắt lim dim rồi chìm vào giấc ngủ trong câu hát ru ầu ơ ví dặm của bà.

“Ầu…ơ
…Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường đời… Ầu ơ.”

Vào mùa gặt, khi trời vẫn còn thấm đẫm giọt sương đêm, lũ trẻ chúng tôi lại tíu tít gọi nhau nhảy nhót lên chiếc xe thồ lạch cạch nối đuôi nhau ra đồng từ buổi sớm. Trên xe lỉnh kỉnh nào nước, nào khoai và cơ man là bánh. Chỉ nhìn thôi mà nước miếng cũng đã chảy thành dòng.
Chúng tôi chạy khắp cánh đồng để chơi trò rượt đuổi, nô đùa không biết chán. Chỉ khi ông mặt trời bắt đầu hắt những ánh nắng chói chang xuống ruộng lúa vàng ươm đang nứt toác vì khô hạn, và những bó lúa được chất lên chiếc xe thồ đầy ú ụ, thì chúng tôi mới lại nhảy phốc lên xe để theo về tuốt những bó lúa bằng máy tuốt đạp chân.

Những bàn chân chai sần của cha của mẹ cứ thoăn thoắt đưa lên đưa xuống nhịp nhàng và bó rơm được ném vun vút chất thành từng đống, nhiệm vụ phơi rơm dĩ nhiên là của những đứa con nít chúng tôi. Bước chân dịu êm hơn khi mặt đường làng được phủ đầy những sợi rơm vàng óng, chú trâu đủng đỉnh nhai những cọng rơm còn xanh mát hương vị của đồng quê sau lũy tre làng.

Tất cả những kỉ niệm đó như những thước phim cũ kĩ được cất giấu trong nhà kho kí ức, dẫu có thể bị phủ mờ bởi lớp bụi của thời gian nhưng chẳng bao giờ mất được. Bởi vậy mà mỗi lần đọc bài thơ “Chăn trâu đốt lửa” của cố thi sĩ Đồng Đức Bốn lòng tôi lại rưng rưng bồi hồi khó tả, tuổi thơ xưa, nay có dịp được ùa về.

“Chăn trâu cắt cỏ trên đồng
Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.”

Tôi chỉ được ở bên mẹ ngót nghét những tháng năm của tuổi thơ khờ khạo, đến khi chập chững lên mười cũng là lúc mẹ đi bước nữa, tôi rời nhà vào cô nhi viện, cứ thế rồi đằng đẵng xa quê cho tới tận bây giờ.
Có lẽ vì tôi quá mẫn cảm nên những đêm đầu lên thị trấn, trong giấc ngủ chập chờn, tôi vẫn thường bị đánh thức bởi âm thanh của những cô lao công quét rác:

“Đêm con nằm nghe tiếng chổi tre
Mà nước mắt chảy dài trên má
Con muốn đổi thân quen thành lạ
Để rồi vào lớp học ngày mai”

Suốt thời niên thiếu mẹ và bà đã luôn có mặt ở đó, dịu dàng dung chứa tuổi thơ tôi. Bây giờ bà không còn, mẹ có gia đình mới, khiến những bước chân phiêu bạt của tôi khi trở về quê cũng chông chênh đến lạ. Mãi đến khi mái đầu đã điểm sương với tâm từ đủ lớn, trên vai đã thôi mang giỏ chất đầy ưu phiền của phàm phu tục tử như những ngày trẻ dại chập chững vào đời…Tôi mới đủ tự tin trở về trong một chiều thu man mác, những mong được ngồi bên hiên nhà nghe lại câu hát à ơi vọng từ xưa cũ.
Như gốc cây khô bị người tiều phu đốn ngã, tôi bần thần tựa mình vào hàng cau trước cổng, nơi từng ngóng mẹ đi làm đồng về cuối mỗi buổi chiều hôm. Mẹ tất bật lo toan cơm áo gạo tiền chỉ để cuối chiều nhìn thấy nụ cười ấm trên môi của đứa con thơ vẫn còn ngờ nghệch. Người đánh đổi cả cuộc đời bằng những vết đồi mồi trên gương mặt đã sạm đen vì rám nắng, nếp gấp thời gian hằn sâu trên vầng trán và những vết chân chim nơi khóe mắt thâm quầng, những mong tương lai con là ngày mai tươi sáng. Có yêu thương nào đáp đền được hết sự hi sinh…

Nhớ những ngày trời mưa tầm tã, tôi ngồi bên bậu cửa lần nhổ những sợi tóc sâu đã bạc sờn vai mẹ… Giờ tóc trắng thôi bay mà nước mắt rưng rưng loang lổ cả chiếc áo nâu sòng. Gió thu không thổi nữa, chiếc lá vàng cũng chẳng cố nổi để đừng rơi.

Bà dẫu có là người của muôn năm cũ, nhưng tất cả những kí ức về người sẽ chẳng mờ phai. “Cõi trầm luân nghìn trùng ở cả hai nghĩa đen và bóng. Giá có thể yểu mệnh để gặp lại người, con sá gì những năm tháng phù du…” – Toại Khanh

Tôi bây giờ chỉ như người lữ khách của quê hương với đôi chân mải miết lang thang qua bao miền sơn khê phảng phất mùi cỏ dại. Chọn núi non làm nhà, chim muông làm bạn, thứ hành trang cho một cuộc phù sinh là y bát trong tay đã thấm đẫm những câu chuyện đời, chuyện đạo. Dẫu vậy, vẫn xin gửi niệm thương bất tận tới quê hương trong suốt cuộc hành trình, dù không vẹn tròn nhưng đẹp lắm, vì mình đã từng có mặt cho nhau.

Khúc hát của những viên sỏi

Tôi là Trần Thị Hồng Anh

Thành viên của Tản Văn Hay từ 29 tháng 12, 2019.

Đ ã bao giờ bạn ngồi giữa một dòng sông đang cuộn chảy để ngắm cho thỏa thích những hòn sỏi tròn nhẵn xung quanh? Đã bao giờ bạn ngồi một mình giữa không gian xanh ngát, vắng vẻ mà ngắm nhìn bãi đá sỏi trong tiếng nước rì rầm cùng gió? Đã bao giờ bạn mặc lòng mình trôi theo nước, đá và mây ngàn gió núi mà nghe lời thầm thì của chúng?

Và rồi một lần tự hỏi, không biết những hòn sỏi đã đi qua bao nhiêu chặng đường và thời gian của cõi đời để có hình hài như tôi đang nhìn thấy hôm nay? Cơ duyên nào đem chúng đến với vùng đất heo hút, vắng lặng này để gặp tôi trong một buổi chiều có nhiều nắng gió đến vậy?

Trên bãi đá sỏi giữa tiếng nước reo, giữa bạt ngàn những đồi keo hoa vàng, tôi cầm lên một viên sỏi gần bằng nắm tay, ngắm nghía các vòng vân màu vàng nhạt mà hình dung về hành trình của nó. Nó từ đâu đến? Từ những ngọn núi cao quanh năm mây phủ hay từ một triền đồi nào đó trong mùa mưa tháng tám khi giông bão về? Từ một khúc sông đầy thác ghềnh của thượng nguồn xa xôi hay là một dòng suối nhỏ chảy ngoài bìa rừng? Không biết, chỉ thấy chúng có vẻ mịn láng chứ không xù xì xấu xí như những hòn sỏi mà tôi đã nhìn thấy ở quãng sông phía dưới thị xã sầm uất kia. Những hòn sỏi dưới đó ẩn trong làn nước mùa cạn phủ đầy rêu trơn tuột như chưa bao giờ phải chịu sự tàn phá của thời gian và của dòng nước chảy xiết nơi này.

Không gian hoang sơ, vắng lặng như trong một miền cổ tích nào đó. Chỉ có tôi và bãi đá vừa gặp. Tôi tự do bước trên đá sỏi, cảm giác nhồn nhột dưới gan bàn chân như đang đứng trên chiếc máy mát xa chạy bằng điện. Bất giác tò mò và ngạc nhiên vì mênh mông đá tròn mịn như ai đó mài giũa sẵn nằm ngay giữa sông. Bãi đá cách với bờ một quãng sông hẹp, dòng nước êm đềm chảy trong thủy trình không ngừng nghỉ của mình. Thoáng chút sờ sợ khi nghĩ bất chợt nước trên nguồn mà đổ về thì tôi và bãi đá không biết như thế nào. May mà bầu trời vẫn xanh và lá vẫn rì rào khe khẽ.

Bãi đá thoai thoải nằm trọn giữa dòng sông. Mùa nước cạn khiến cho nó trở thành một hòn đảo nhỏ hình elip náu mình giữa không gian xanh ngát. Một vài vệt mây lạc lõng làm bãi đá thi thoảng sẫm lại rồi vụt sáng như ánh đèn đổi màu ở một quán cà phê nào đó ngoài phố. Ánh nắng của mùa đông làm cho những hòn sỏi lấp lánh như thủy tinh. Tôi thơ thẩn nhặt lên tay mình một vốc sỏi lớn bằng đầu ngón tay cái, tự nhiên chùng lại trong phút chốc. Ngày trước, để kiếm được một vốc sỏi như thế này, đám trẻ bọn tôi phải bới tung cả đống cát sỏi nhà hàng xóm mới lựa được. Những hòn sỏi thuở ấy đâu có tròn trịa đều đặn như vốc sỏi trên tay tôi. Ấy vậy mà, chúng tôi chơi chuyền, chơi ô quan say mê, không nhớ giờ về nhà. Cũng lạ thật, không biết ai nghĩ ra mà mỗi hòn sỏi của mỗi trò chơi có các kích cỡ, hình dáng thậm chí màu sắc khác nhau.

Này nhé, hòn dẹt, mỏng thì chơi nhảy lò cò. Hòn tròn to bằng quả chanh thì chơi chuyền, đánh chắt. Hòn nhỏ thì rải ô ăn quan, chơi cờ gánh cùng với mấy thanh tre. Có thể nói gia tài của chúng tôi khi ấy chủ yếu là sỏi đá được cất trong túi áo, túi quần. Còn giữ nhiều đến mức quần tụt xuống, vừa chạy vừa giữ cạp quần mà vẫn không nỡ lấy hết ra ngoài. Nhiều hôm mẹ vừa giặt đồ vừa gọi từng đứa ra chỉ vào chậu nước đầy cát mà dọa rằng sẽ cho mỗi đứa dăm roi nếu còn bỏ sỏi đá vào áo quần nữa. Nhưng rồi có ai nhớ đâu! Ngày mai lại tụ tập, lại giành nhau từng viên sỏi như chưa từng có lời mẹ dặn. Chơi chán lại đổ ra đếm, so số sỏi của mình với bạn bè để xem ai thắng nhiều hơn. Các trò chơi với sỏi đá cứ vậy mà đi theo chúng tôi suốt những năm tháng tuổi thơ êm đềm bên gia đình.

Ảnh: Quang Vinh

Đá ở đây có rất nhiều cỡ. Nhưng không quá to, chỉ độ bằng cái nồi cơm điện ba cân trở lại. Đa số là màu trắng, vàng mơ hay màu kem, rất ít màu xám hay đen như khi bị lẫn trong cát hay ở dưới bóng cây ven bờ. Tôi chọn hai hòn đá to hơn cái bát ăn cơm, có màu trắng ngà dự định mang về để dằn lên hũ cà, hũ dưa muối bên bếp. Ngày còn ở nhà, mẹ thường sai tôi mang hòn đá trong hũ cà rửa sạch rồi mang ra phơi nắng, chờ muối mẻ tiếp theo. Cà mẹ muối thường chắc, giòn, không bị úng vì được làm cẩn thận rồi nén chặt, chỉ cần muối mặn thêm chút là để dành ăn đến tận mùa mới. Những năm tháng xa nhà, rồi theo chồng xa xứ, tôi cứ nhớ mãi vị cà mẹ muối ngày xưa.

Dòng sông miên man chảy về xuôi. Bãi đá tĩnh tại như không hề có sự biến động xung quanh. Vẫn lặng lẽ phô màu trắng trên bao sắc xanh của trời, nước và cây lá. Sóng nước chạm vào bờ đá tung lên như các bông hoa màu trắng bạc xòe nở, cuốn một vài viên sỏi lăn, lăn theo dòng trôi. Nhìn theo những viên sỏi, tôi chợt hiểu vì sao đá lại tròn, vì sao đá nhẵn thín? Một đời đá đi theo con nước đầy vơi, ai dám bảo đá không chênh vênh? Ai dám bảo đá có một đời bình yên? Đá đã tự trau mình dưới dòng nước để tròn xinh đến vậy, ai biết được đá đau cỡ nào? Ai biết được đá bị bào mòn bao nhiêu? Ai biết được đá nhẫn nại thế nào? Chỉ biết bây giờ đá đẹp như đóa hoa bung nở trong tiết trời ấm áp của mùa xuân.

Tôi tung một vài hòn sỏi lên, sắc vân vàng trắng óng ánh trong ánh nắng chiếu xiên xiên xuống bãi. Cảm giác man mát, nằng nặng lan tỏa trong lòng bàn tay. Nhìn đám mây trắng đang bồng bềnh phía xa, tôi tự hỏi: con người, làm được như đá không? Tự mình đi qua khó khăn, gian khổ để rèn giũa, để hoàn thiện bản thân hơn? Có ai dám quăng mình vào trong giông bão cuộc đời để tích góp thêm một chút kiên cường? Có ai dám mặc cho những va chạm của đời gọt giũa để trở nên vẹn tròn hơn? Con người cũng như đá, phải trải qua những biến cố của thời gian và cuộc sống, mới có thể hoàn thiện mình, mới hiểu mình là ai giữa chốn nhân gian này. Để rồi, từ sự thấu hiểu giá trị con người mình mà sống có ý nghĩa hơn, mà buông bỏ hết mọi tham – sân – si trần tục kia. Cây lá đung đưa trong gió, thầm thì hỏi tôi: Đá dám, sao người thì không?

Dòng sông vẫn rì rào chảy xung quanh. Khi vòng qua khúc giữa, sông nghiêng mình như trao một nét cười nhẹ tạm biệt bãi đá nơi tôi đang ngồi. Bãi đá sáng lên giữa những màu xanh bất tận của sóng, của lá trong cuộc chia tay không hẹn ngày trở lại. Không biết lần chia tay này hòn sỏi nào sẽ đi cùng dòng sông? Hòn sỏi nào tiếp tục hành trình phiêu lưu vô định của mình? Hòn đá nào ở lại để chờ mùa nước lên đang đến? Để rồi có gặp lại đâu đó thì cũng không còn nhận ra nhau giữa bao nhiêu dâu bể của đời. Đến lúc ấy không biết đã tròn một đời đá hay chưa? Chỉ biết những hòn sỏi vẫn mãi hát khúc ca của mình giữa dòng sông, vẫn tiếp tục làm đẹp mình giữa những biến động của thời gian.

Bụi chuối sau hè

lam-hung-2

Tôi là Lâm Hùng

Thành viên của Tản Văn Hay từ 1 tháng 11, 2019.

C ây chuối có nhiều công dụng trong cuộc sống người dân Nam Bộ nói riêng. Dân gian có câu tục ngữ “chuối đằng sau, cau đằng trước”; bởi thường thì những ngôi nhà quê trồng hàng cau trước ngõ và bờ chuối sau nhà. Người có phận người, cây cũng có phận cây. Nếu cây tre được xem như là biểu tượng của sự vững chãi cứng rắn, mang dáng dấp người cha, thì cây chuối ngược lại luôn mềm mại, dịu dàng như người mẹ vậy.

Cũng như bao miền quê khác, miệt châu thổ Cửu Long có nhiều loại chuối khác nhau như: chuối xiêm, chuối mật, chuối hột, chuối dong, chuối hương, chuối già, chuối cau, chuối sáp… Mỗi loại chuối cho ta những hương vị khác nhau cùng với những món ăn độc đáo từ thân chuối, trái chuối và cả bắp chuối nữa… Ở quê, lúc đầu mùa mưa, khi không tìm được cá, thì chuối cây xắc nhuyễn nấu canh chua với khô (còn gọi là nấu xiêm lo). Hay đơn giản hơn là vắt vào chuối xắt một miếng chanh rồi ăn với mắm kho cũng rất tuyệt vời. Những món ăn từ chuối cây thật dễ làm và đặc biệt là dễ lưu vào ký ức mình đối với những ai xa quê.

Khi nhà bất chợt có khách, không phải lúc nào cũng tìm được bắp chuối, nhưng chuối cây thì luôn có sẵn. Một con gà thả vườn nấu cháo hay chỉ cần luộc lên rồi xé phay trộn với chuối ghém, rau răm là có món đãi khách không kém phần thịnh soạn.
Sau nhà trồng vài bụi chuối sẽ cho người dân quê không chỉ có loại trái chín bổ dưỡng mà còn là loại rau sạch quanh năm. Thường thì những quày chuối lớn người dân quê phải chặt ra từng nải đem phơi nắng cho ráo mủ rồi đem dú. Nếu chuối có quày nhỏ và nhiều quá thì cứ lấy dây treo lên chái bếp để chín từ từ…

Buổi xế trưa, các mẹ, các chị hay làm bánh chuối hấp vì không cần phải ra chợ mua nguyên liệu. Xay bột, nạo dừa và đập chuối cho dập trộn vào bột rồi hấp là xong… Những miếng bánh quê bình dị, thân quen ấy còn đọng hoài vị ngọt, hương thơm từ vườn dừa, bờ chuối sau nhà…
Còn trong mùa nắng khi chuối chín nhiều chỉ còn việc ép chuối làm khô. Chuối khô chỉ cần xắt sợi, thêm một ít gừng củ thái chỉ và một nắm đậu phộng rang nữa là làm được món chuối ngào đường. Món này dùng để uống trà và cũng có thể làm món lót dạ trong buổi xế trưa để chờ đến bữa cơm chiều. Muốn bảo quản món chuối ngào đường được lâu chỉ cần dùng lá chuối gói lại thành đòn như bánh tét vậy.
Nhắc đến bánh tét, nhiều người không thể quên những ngày giáp tết hay nhà có đám giỗ đều có gói bánh tét, bánh ít. Lá chuối lúc này đã phát huy hết tác dụng của nó. Thường thì làm bánh tét có nhiều loại nhân như nhân đậu, nhân mỡ hoặc nhân hỗn hợp… Và, có lẽ phổ biến hơn cả là bánh tét nhân chuối vừa có sẵn không phải mua vừa ăn không ngán… Ngày tết cũng như ngày thường có thể nói lá chuối tươi dùng để gói nhiều loại bánh và các loại thực phẩm khác như: nem, chả…
Thời còn nghèo khó, tàu chuối khô, người ta dùng làm dây, bện võng hay để nguyên cắt vào làm ủ chuối cho heo tránh muỗi vì không có mùng… Chuyện ngày xưa ông bà mình kể lại lúc nghèo đói và chiến tranh loạn lạc phải dùng đến củ chuối thay cơm… Còn thân cây chuối sau khi đốn quày cũng không phải là thứ bỏ đi, vì đó còn là nguồn thức ăn chính cho gia súc, gia cần thời trước.

Những người lớn tuổi một chút hẵn sẽ còn nhớ nhà ai cũng có cối và chày giã gạo trong nhà. Hai vật dụng gia đình ấy còn dùng để giã chuối thật nhuyễn làm thức ăn cho heo và vịt xiêm. Chăn nuôi thời ấy có câu “lấy công làm lời” là như vậy.
Cái chất độn cho gia súc, gia cầm này rất tiện lợi vì dễ kiếm. Chuối giã xong đem cho heo, vịt ăn tươi cũng được, hoặc cho vào khạp ủ chua cho ăn năm ba bữa mới giã tiếp lần sau…
Cây chuối còn là người bạn thân thiết với trẻ em trên vùng sông nước này… Ngày mới lớn, đứa trẻ nào cũng thích nô đùa cùng với dòng sông, bến nước. Khúc chuối tươi làm phao quả là tuyệt vời. Ôm xuôi cây chuối đến tận bụng và cứ thế mà chòi đạp mà thỏa thích vẫy vùng… Và, cứ thế cả buổi chiều khuấy động một khúc sông quê, cho đến khi cằm đứa nào cũng “mọc râu” và mẹ gọi ăn cơm chiều mới chịu buông khúc chuối để lên bờ…
Hồi trước, nhiều vùng nông thôn sâu chưa có nhiều chiếc cầu được xây dựng như bây giờ. Không ít người đến lớp nhờ những chiếc bè chuối đón đưa. Chỉ cần một đoạn dây mắc qua đôi bờ và ở khoảng giữa đoạn dây ấy buộc vào cục gạch, cục đá cho dây chìm xuống lòng sông để xuồng ghe qua lại không vướng. Và cứ mỗi lần qua sông chỉ việc ngồi trên chiếc bè chuối mà phăng dây là qua sông an toàn. Trong cái vất vã ấy, biết bao thế hệ trẻ em ở miền quê này không thể nào quên câu chuyện kể Trần Minh Khố Chuối thi đỗ Trạng Nguyên để mà cố gắng vượt khó học hành và thành đạt trong cuộc sống…
Nhưng dù có đi đâu, ở đâu, mỗi khi bắt gặp cơn mưa đầu mùa, lòng ta lại nhớ về cái âm thanh lộp độp của những tàu chuối sau hè… Nhớ những buổi xế trưa với những miếng bánh chuối hấp với nước cốt dừa béo ngậy còn đọng lại nơi đầu lưỡi… Nhớ đêm giao thừa thức chờ nồi bánh tét chín tới… Trong miền ký ức ấy đã dậy lên tất cả nỗi nhớ quê hương – mà có lẽ không có gì gần gũi hơn, mộc mạc hơn như bụi chuối sau nhà, vì chuối như một bà mẹ quê chịu thương chịu khó.

Tết nhớ niêu cá trắm đen ủ trấu nếp

tran-thuy

Tôi là Trần Thủy

Thành viên của Tản Văn Hay từ 17 tháng 3, 2020.

C hạp đã về. Trời buông dần bóng chiều trong cái lạnh tái tê. Tiếng chuông nhà thờ thả từng tiếng ngân nga trên những nóc nhà xám lặng. Tôi đứng nhìn ra trời chiều. Ai mang ảm đảm rải lên mùa đông, ai rắc ưu tư vào lòng người con xa xứ. Để mỗi khi chạp về ngang ngõ, bỗng thấy miên man nhớ Tết thật nhiều.

Nhớ cái không khí tất bật vội vàng mà ăm ắp niềm vui. Nhớ bữa cơm tất niên cả nhà quây quần bên nhau kể về một năm đã qua với những thăng trầm được mất. Và nhớ nhất, ấn tượng nhất vẫn là niêu cá trắm đen ủ trấu nếp, mẹ được học từ ông ngoại. Mẹ đã dành bao thời gian và tâm huyết để làm món Tết cho con.

Mẹ tôi quê ở thị xã Phủ Lý thuộc tỉnh Hà Nam, nơi hạ lưu của ba con sông hợp nhau lại là sông Đáy, sông Nhuệ, và sông Châu Giang. Nơi một vùng chiêm trũng mà thiên nhiên xung quanh ưu đãi chỉ có mênh mang biển nước và những sản vật từ sông nước dâng tặng.

Mẹ kể rằng, ông ngoại tôi vốn là một họa sĩ truyền thần rất khéo. Người từ khắp nơi trong tỉnh hay gửi ảnh đến cho ông vẽ lại. Vào dịp Tết, ông cặm cụi ngồi vẽ suốt cả ngày cho kịp khách. Hồi đó họ thường hay mang cá tươi đến trả công cho ông.

Bà ngoại tôi bận bịu đi buôn gạo từ Phủ Lý đến Nam Định, Thái Bình. Việc chế biến cá một tay ông đảm nhiệm. Ông kho cá rất khéo, tỉ mỉ như cách ông kiên nhẫn phẩy từng sợi tóc, lấy thần cho từng bức ảnh.

Cá mè kho với chuối xanh, cá quả với tiêu đen, cá nheo với măng chua, cá chép với dưa cà… Món nào cũng ngon, nhưng đặc biệt nhất vẫn là món cá trắm đen kho riềng ủ trấu nếp. Món ăn gia truyền các cụ để lại mà ông kỳ công chuẩn bị mỗi dịp Tết đến xuân về.

Giống cá trắm đen là một loại cá đặc sản của vùng đất Hà Nam. Cá đẻ trứng ở thượng lưu, nhưng sinh sôi nảy nở lại xuôi xuống hạ lưu, nơi có mực nước sâu và ấm hơn để vẫy vùng nên cá rất to, mỗi con phải nặng vài cân. Đây là giống cá không ăn tạp, chỉ ăn trai sò, ốc hến, do đó thịt rất săn và ngọt.
Những con cá trắm chằn chặn lưng đen, vẫn còn sống, vẩy sẫm màu bóng đẹp, được ông chọn nuôi trong cái lu sành để ở góc sân. Khi cây đào trước ngõ he hé những nụ hồng xinh, qua ngày 23 tháng chạp, ông sai mấy đứa con đi xin rơm nếp và trấu nếp về chất đầy góc bếp, mà phải là trấu nếp không lẫn tạp mới chuẩn vị.
Sáng 29 Tết, bà ngoại nghỉ chợ ngồi gói bánh chưng, bánh rợm. Ông ngoại chuẩn bị tay dao tay thớt. Cá được ông đem mổ, đánh vẩy, rửa sạch bằng muối, bóc hết màng đen rồi cắt thành từng khúc đỏ hồng, tươi rói.
Mẹ tôi và cậu út lăng xăng ngồi giã riềng, chẻ mía, bóc hành khô để làm bổi. Những củ riềng chắc như gỗ, những củ hành tím tròn căng, phần được mẹ đem thái thật mỏng, phần được cho vào cối đá giã mịn.
Cậu út chọn một gốc mía lau già rám vàng, chẻ thành từng miếng như đốt ngón tay. Cái nồi đất cỡ lớn có nắp nổi nhô lên cao được rửa sạch sẵn sàng. Cứ hết lớp bổi xếp đầy dưới đáy nồi để chống cháy là đến những khúc cá đều chằn chặn, xen kẽ ở giữa những miếng thịt mỡ vẫn còn nguyên bì.
Tiếp đến là muối, lớp bổi mịn, vài ba lát gừng, mấy quả ớt cay, chút hạt tiêu và cuối cùng phủ thêm dăm lát chanh có vỏ. Nước chế để kho cá trong suốt quá trình, là thứ nước chè tươi pha loãng. Ông nói rằng, chính cái màu vàng nhạt và vị chan chát của lá chè xanh, sẽ làm cho miếng cá mượt như hổ phách, sẽ không hề còn chút vị tanh và để lâu cá không bị hỏng.

Đến quá trưa, cả căn bếp rực hồng. Những gộc gỗ bén lửa nổ lép bép. Nồi bánh chưng lục bục sôi, niêu cá kho được ông đun đều tay bằng rơm nếp bốc khói nghi ngút. Gần cạn, được ủ bằng trấu nếp liu riu, rồi lại được chế thêm nước chè tươi pha nóng.
Mùi thơm của trấu đỏ lửa, mùi mật mía, mùi giềng tiết ra, ngấm vào từng thớ cá, cứ sực nức trong gian bếp nhỏ. Thỉnh thoảng ông lại nhìn ra sân mong ngóng. Ngoài kia, màu thời gian như trùm lên thị xã, ba người con lớn của ông đi làm ăn xa vẫn chưa về.
Chỉ đến khi những bước chân rộn rã bên thềm nhà, tiếng chào bố mẹ râm ran, ông mới yên lòng. Quá nửa đêm, mẻ cá ủ trấu quyện khói đủ 12 tiếng đã khô nục, bánh chưng cũng tới lúc thật nhừ. Ông mới cho phép mình đi nghỉ.
Mẹ bảo, mâm cơm thắp hương chiều 30 nhà mẹ, luôn trang trọng có đĩa cá trắm đen với bát cơm nóng trắng ngần. Đó vừa là món ăn tinh tế dâng cúng tổ tiên, vừa thể hiện sự ấm no của một năm gia đình thuận hòa, xuôi chèo mát mái.
Bưng bát cơm thơm, gắp miếng cá rắn đanh, xương chín rục, mà lòng háo hức. Mùi hương của các loại gia vị quyện cùng mùi trấu nếp rất lạ, rất đằm. Vị cá đậm đà, vừa ngọt vừa bùi, đủ se se đầu lưỡi, miếng thịt mỡ như tan trong miệng. Món ăn dân dã mà sang trọng thanh cao. Cả nhà cứ tấm tắc khen ngon, hương Tết hối hả dập dìu.
Mẹ đi lấy chồng lên ngoại thành Hà Nội định cư. Hành trang mẹ mang theo có một cái niêu đất nhỏ. Ngày Tết người ta ới nhau đụng lợn, mẹ chỉ lo tìm mua bằng được cá trắm đen. Bố thì chờ vụ mùa đến, lại vào làng xin về một tải trấu nếp thật to để dành cho mẹ. Tôi vẫn nhớ như in cái ngày cả nhà vui như có hội.
Chị em tôi tíu tít rửa lá dong cho bố gói bánh chưng, xăng xái chuẩn bị các loại bổi cho món cá kho của mẹ. Ai cũng tất bật vội vàng mà luôn miệng cười nói rổn rang. Lúc tôi chạy qua chỗ bố học gói bánh, lúc lại lúi húi giúp mẹ bên niêu cá. Mọi nguyên liệu vẫn như cách ông ngoại làm. Chỉ khác, mẹ thêm nước mắm cho thơm, thêm nước hàng cho cá đượm màu.
Tháng chạp trời tối thật nhanh, gió mùa hun hút lạnh. Trong căn bếp đỏ lửa, cả nhà tôi trải chiếu quây quần ngồi chơi tú lơ khơ, vùi khoai tây nướng. Củi vẫn rực, nồi bánh vẫn sôi. Trấu đượm hồng, ủ niêu cá om mùi trấu thơm riu riu chín nục.
Bữa cơm đầu năm có gạo Tám xoan ăn với miếng cá thơm lừng mà như được thưởng thức thứ cao lương mỹ vị. Niềm hạnh phúc ngời lên trong ánh mắt cả nhà.
Vào một chiều se sắt cuối thu, bố theo ông ngoại về với trời xanh mây trắng. Chẳng còn ai thủ thỉ sớm khuya, chẳng còn ai đi xin trấu nếp để dành. Mẹ buồn, lay lắt ốm. Tết năm đó nhà tôi không gói bánh chưng và cũng chẳng có niêu cá kho của mẹ.
Những vất vả buộc trên vai người phụ nữ sớm góa bụa. Những thay đổi của cuộc sống hiện đại hối hả vội vàng, đã khiến mẹ không còn đủ thời gian cho một món ăn đòi hỏi sự cầu kỳ nhẫn nại. Niêu cá ủ trấu bỗng trở thành ký ức.
Và ở nơi xa, tôi vẫn chế biến cho chồng con những nồi cá kho hai lửa. Cũng khá đầy đủ nguyên liệu như mẹ đã làm, nhưng chẳng bao giờ tôi tìm lại được thứ hương vị rất riêng, rất lạ.
Thứ hương vị chỉ còn trong nỗi nhớ miên man, được kết tinh từ đất, từ cánh đồng, dòng sông. Được chưng luyện qua ngọn lửa hồng, thấm ngọt những tâm huyết chắt chiu, đầy yêu thương của ông của mẹ.
Đưa tôi trở về nơi có căn bếp nhỏ, về những kỷ niệm êm đềm bên người thân, về một vùng quê ngã ba sông thanh bình yên ả.
Ngoài kia Tết đến thật rồi!