23 C
Hanoi
Thứ Tư, Tháng 10 22, 2025

Lững thững… và yêu

C ó những buổi chiều, tôi ngước nhìn...

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...
Trang chủ Blog Trang 15

Chiếc bàn ủi con gà

diem-1
Tháng tám này, tôi chợt thấy nao lòng với những gì đã cũ. Rồi tôi tự nhủ bản thân sẽ mang ký ức của bà vào hành trang cuộc đời. Cũng như, chiếc bàn ủi hình con gà trống ấy, trọng lượng chưa đầy một ký nhưng “sức nặng” của ký ức khi nghĩ đến nó thì luôn trĩu lòng, luyến nhớ một lớp người như bà và day dứt, ám ảnh như những đốm lửa nhỏ thế hệ trẻ-như tôi bây giờ.

Đ ó là một vật dụng của kí ức. Và, chắc một điều những thế hệ trẻ sau này rất ít cơ hội nhìn thấy hay xa hơn là sử dụng nó. Vì hiện nay trên thị trường, bàn ủi hình con gà trống không còn phổ dụng. Nó được giới sưu tầm và buôn bán đồ cổ săn lùng rất nhiều. Để sở hữu nó người mua phải bỏ ra một số tiền rất lớn vậy nên những câu chuyện xoay quanh chiếc bàn ủi này luôn là đề tài thu hút và gây tò mò.

Chiếc bàn ủi được làm bằng đồng, hình tam giác, bên trên có quai cầm bọc gỗ, ở nắp khóa đóng mở có hình chú gà trống ngộ nghĩnh. Hai bên hông sát đáy, có đục những lỗ thông gió hình tròn nhỏ. Muốn sử dụng nó, phải chú ý là than đã hồng đều, không được nhiều hoặc ít quá, như vậy nhiệt độ mới đủ và thích hợp. Điều nữa là phải nhớ gạt khóa ngay chỗ con gà không thì bụi than sẽ bay tứ tung, có khi châm cháy quần áo. Để ủi được bồ đồ đẹp và cái quần phải theo đường ly, người ủi cũng phải có tay nghề. Đôi tay phải di chuyển lên xuống thật điêu luyện. Một điều thú vị mà tôi rất thích trong quá trình bà hướng dẫn, là con gà phía trước bàn ủi khi di chuyển, kêu “lắc cắc” nghe thật vui tai.

Không biết là chiếc bàn ủi hình con gà trống có tự bao giờ? Riêng bà tôi thì vẫn kể cho tôi nghe về nó trong những câu chuyện về ông. Bà tôi nói rằng, gọi bàn ủi con gà bởi phần chốt mở của nắp đậy loại bàn ủi than thường được đúc hình gà trống để trang trí và cách nhiệt tốt. Nên khi mở nắp để cho thêm hay lấy bớt than chỉ cần cầm con gà sẽ không gây phỏng cho người dùng, từ đó nhiều người quen gọi bàn ủi con gà. Mỗi lần bà tôi kể về vật dụng ấy, giọng bà rưng rưng, có gì đó nghẹn nghẹn, đôi lúc tôi thấy khóe mắt bà những giọt nước mắt lăn dài.

Hồi đó, ở quê bà, ba bốn nóc nhà mới có một cái bàn ủi. Và mỗi khi nhà nào có nhu cầu, chạy qua nhà kế bên mượn về mà ủi quần áo. Cứ như vậy, nhiều khi chủ của nó không biết nó đang hiện hữu ở ngôi nhà nào.

Vậy mà ông tôi, trước khi tập kết ra miền Bắc, lén ông bà cố lấy bán một tạ thóc mua tặng cho bà chiếc bàn ủi hình con gà. Ông nói với bà: “ Dù nhà mình nghèo thế nào nhưng ra ngoài quần áo phải thẳng, đừng để người khác cười vào mặt”. Nội tôi sạch sẽ, ngăn nắp và tươm tất. Mẹ tôi từ khi về làm dâu, sống chung với nội, học tích cách của nội nên quần áo trong nhà lúc nào cũng thẳng thớm và thơm tho.

Nội tôi xem chiếc bàn ủi như một kỉ vật vô giá! Cũng chẳng phải xoay quanh đồn thổi về giá trị bộ phận con gà được làm từ đồng lạnh hay nó là món hàng đồ cổ cực kì có giá trị. Mà nó là món quà tình yêu ông dành tặng riêng cho bà.

“Thời đó làm gì có liên lạc như bây giờ”. Những cánh thư bà gửi cũng phải mất cả tháng mới đến tay ông và ngược lại.Thư ông gửi về cho bà là những nhớ thương nơi đất khách quê người. Ông dặn bà, khổ cực rồi cũng qua, gắng đợi ông về. Thư bà gửi ra, nhắc ông giữ gìn sức khỏe. Ở trong này, không khí đánh giặc, cứu nước sôi nổi lắm! Bà còn tham gia công tác dân vận và hăng hái lao động sản xuất, chi viện cho chiến trường. Nhưng có một chi tiết bà không kể cho ông. Đó là, có bữa máy bay giặc quần đảo dữ lắm, bọn nó thả bom khắp làng trên xóm dưới. Những khi núp dưới hầm, một tay ôm chặt ba tôi tay kia bà giữ khư khư chiếc bàn ủi hình con gà trống.

Mãi sau này, khi ông tôi về, bà cất giấu giữ trong lòng, chẳng nói ra cùng ông. Bởi, tình yêu của bà bao năm chất chứa, gìn giữ và gói ghém ở đó hết rồi. Rồi khi ông từ biệt bà về với tổ tiên, bà sống với những hoài niệm đẹp với kỉ vật vô giá mà ông để lại. Cứ như, ông tôi vẫn còn hiện hữu đâu đó, xung quanh và rất gần với bà. Tôi đem sự băn khoăn thắc mắc hỏi bà thì bà cũng chỉ cười hiền từ, đôi mắt vẫn luôn dõi ánh nhìn xa xa.

Tôi gọi ông tôi, bà tôi là những người kết nối ký ức. Tuy rằng ký ức ấy chỉ còn là những hình ảnh vụn vặt, rời rạc, nhưng nó lại luôn hiện diện trong thẳm sâu tâm trí tôi, không sao phai mờ.

Ngày nay, người ta không còn sử dụng chiếc bàn ủi hình con gà trống nữa. Thời đại công nghệ điện tử phát triển, chiếc bàn ủi điện đã dần thay thế. Nó có nhiều công năng và tiện ích. Nếu nóng quá thì tự nó giảm nhiệt ngay. Còn có những chiếc bàn ủi hơi nước, bàn ủi cầm tay nhỏ gọn, tiện lợi và xinh xắn vô cùng. Nhưng chiếc bàn ủi hình con gà trống sẽ mãi đi qua tháng năm, đã và đang chứng kiến bao đổi thay thăng trầm của đất nước của những nếp nhà và lướt ngang qua cuộc đời mỗi con người.

Tháng tám này, tôi chợt thấy nao lòng với những gì đã cũ. Rồi tôi tự nhủ bản thân sẽ mang ký ức của bà vào hành trang cuộc đời. Cũng như, chiếc bàn ủi hình con gà trống ấy, trọng lượng chưa đầy một ký nhưng “sức nặng” của ký ức khi nghĩ đến nó thì luôn trĩu lòng, luyến nhớ một lớp người như bà và day dứt, ám ảnh như những đốm lửa nhỏ thế hệ trẻ-như tôi bây giờ.

Phố vào hè

quach-my-kieu
Nào, hãy nhắm mắt lại và cùng tôi dạo chơi trên nền tháng Năm của phố. Hãy cứ nhắm mắt như thế để tôi dắt bạn đi giữa những nhớ quên mà ta chưa có dịp nói cho nhau nghe. Tôi sẽ cùng những con ve kia hát khúc ca của tháng Năm. Khúc ca phố vào hè! Để phố được thấy nụ cười hiền hòa trên môi bạn, môi tôi, và chính trong lòng phố yêu thương.

T háng Năm về, Sài Gòn những ngày này trời oi bức. Nắng mang theo từng hơi nóng hừng hực như xát vào da thịt cái ran rát nồng gắt. Nắng rải thảm vàng xuyên qua ô cửa, một sắc vàng óng ánh trong veo, lúng liếng như đôi mắt đứa trẻ thơ chưa vướng bận âu lo.

Vài ba cung đường hoa Bằng Lăng bắt đầu nhuộm buồn tím ngát vào lưu bút tụi học trò, hoa Muồng Hoàng Yến rũ xuống từng chùm yểu điệu vàng rực góc bịn rịn chia xa. Những cơn mưa chưa về gột mát trời mây thênh thang… Đâu đó trong tán cây cổ thụ ven đường những con ve đã bắt đầu dạo vang khúc ca râm ran muôn thuở. Phố vào hè!

Tôi đã cùng Sài Gòn đi qua bao mùa của tháng Năm và đã lưu giữ trong mình bao nhiêu kỷ niệm theo từng bước chân qua rồi nhỉ! Cũng gần hai mươi năm có lẽ, để giờ đây bàn chân đã quen quá những con đường, những tàn cây, những con hẻm ngoằn ngoèo sâu hút và cả những bụi bặm phủ đầy… Với tôi, nơi nào dấu chân đi qua nơi đó là kỷ niệm. Và tôi đã trân quý, cất giấu kỷ niệm vào sâu tim mình như thế. Mỗi lần dạo qua một cung đường, đi vào một con hẻm, thưởng thức một món ăn hè phố hay vô tình bắt gặp một quán cà phê nơi góc phố nào đó, lướt qua một gương mặt ai kia… Đều thấy mình như đã thân thương tự bao giờ. Đôi khi nhìn cảnh mà lòng như đi giữa những nhớ quên âm ỉ chẳng bao giờ nguội tắt.
Phố vào hè tôi đâm ra xao xuyến lạ. Tự nhiên tôi muốn dắt chính tôi tìm về những kỷ niệm đã ngủ yên thuở nào, quay lại thời sinh viên với bao ấp ủ về một chân trời mới gởi trọn vào ước mơ phố, cho nhớ thương lấp đầy khoảng không chung chiêng trong lòng đôi chút. Phải chăng sự rung động không đến từ những hào nhoáng bên ngoài mà đến từ những gì sâu thẳm bên trong?

Bạn có muốn cùng tôi đi qua nền tháng Năm của phố dưới những hàng cây rợp bóng để gió thả vài chiếc lá khô xuống tóc bạn, tóc tôi? Chúng ta sẽ dạo quanh giữa một rừng chóng chóng hoa dầu xoay tít, nhặt từng vốc đầy ắp tay những chiếc chong chóng màu vàng nâu bé xíu, tung mạnh lên cao rồi cười sảng khoái. Rồi tôi sẽ dắt bạn ghé lại mấy tiệm sách cũ nằm ẩn sâu trong con hẻm nhỏ, cùng nhau lục lọi, tìm kiếm những cuốn sách ưa thích, ta sẽ hả hê khi tìm được mà cười khúc khích. Hay chúng ta dạo qua khoảng sân trước nhà thờ Đức Bà và Bưu Điện thành phố một chút, nhớ mang theo một nắm thóc, mình rải ra rồi chỉ cần ngồi đó lặng thinh bạn sẽ thấy những chú bồ câu đậu xuống đường ung dung bước vòng quanh mổ thóc rồi dang cánh bay đi. Và còn nữa, hồi đó tôi thường đến một quán cà phê ở Thanh Đa, hãy cùng ghé vào, tôi sẽ chỉ cho xem góc bàn tôi hay ngồi ngắm mây trời gió nước và nghe nhạc Trịnh, quán mà tôi rất thích. Liệu bạn có muốn thong dong dạo phố phường trên nền tháng Năm như thế cùng tôi không? Nhưng nhớ là giữa con nắng tháng Năm rừng rực của Sài Gòn, với những người chưa quen nơi đây như bạn hãy tự tìm cho bản thân một chỗ trốn mình nhé. Tôi nghĩ là nên dạo chơi vào lúc chiều đã nhuộm màu ráng hồng trên nóc phố sẽ thi vị hơn, bằng không bạn sẽ thấy nắng tháng Năm Sài Gòn không mấy dễ chịu đâu đấy. Còn với tôi phố là nơi tâm hồn được vỗ về yêu thương da diết, nơi trái tim được ấp ủ với bao điều thân thuộc từ lâu đã trở thành máu thịt, nên những yêu thương luôn trỗi dậy thôi thúc bất kể mùa Hạ hay mùa Thu, hay những lúc phố gắt gỏng, đỏng đánh như người tình hay hờn dỗi tôi vẫn có thể chịu được và vẫn yêu.

Phố vào hè, chiều về, từng dòng xe tấp nập chen nhau, khói bụi mịt mù như cõng cả hoàng hôn màu đỏ gạch trên nóc nhà ai mà chuyển lưu hối hả. Nếu là ngày xưa, tôi sẽ thích lắm khi nhìn xe cộ vòng vèo uốn lượn như thế. Vậy mà giờ chỉ mong đứng từ ban công nhà mình lặng lẽ nhìn hoàng hôn lặn xuống sau bức tường xa xa rồi tia nắng cuối ngày tắt phụt loang lổ cả bầu trời đêm, thấy phố lên đèn trong bình yên là đủ.

Phố vào hè, cuộc sống mưu sinh càng nhọc nhằn tất tả, những giọt mồ hôi thấm đẫm lưng áo chiều tan tầm, những bàn tay gồng lên nặng nhọc đẩy xe hàng rong trong đêm muộn, những gương mặt xanh xao trước những dãy trọ ọp ẹp khu lao động nghèo phần vì nóng phần vì mệt, trở nên ưu tư hơn….Vậy mà phố vẫn thế, vẫn nghiêng mình chào đón, mở rộng vòng tay chở che mọi mảnh đời ngày này qua ngày khác với lòng bao dung vô bờ. Từ một thành phố của buổi đầu đặt chân đến. Xa lạ! những gương mặt và giọng nói không quen, với lối sống hào nhoáng xô bồ mà người quê phải giật mình thấy bỡ ngỡ, không phù hợp. Nhưng ngày ngày ở bên phố gắn bó rồi lại thành ra yêu thương, để từ đó phố như người tri kỷ. Tôi cũng vậy, ở một nơi xa đến hòa mình vào dòng chảy rồi tự nhiên yêu phố từ lúc nào không biết. Rồi ngày lại ngày cứ trở trăn bao nỗi niềm. Phố có hiểu?

Phố vào hè, đêm chưa bao giờ chìm lỉm trong mênh mông đen thẳm. Là do đèn điện chiếu sáng? Là khói bụi quyện vào sương? Hay do người Sài Gòn thao thức trong đêm hoài không ngủ được? Mà phố luôn lấp lánh những ánh đỏ, xanh, vàng quyện vào lòng đêm rực rỡ. Phố chắc hiểu có một người, mỗi đêm vẫn hay đứng ở ban công nhà mình ngước nhìn trời, thả vào đó bao dòng tâm sự, nên trả lời tôi bằng một tiếng rao sâu hun hút của cô hàng rong người miền trung nào đó. Trong đêm khuya thanh vắng, chỉ một tiếng rao cũng đủ sức lay động đến lạ lùng. Phố này, sao ở trong phố mọi thứ đều trở nên ẩn mật và đẹp đẽ đến vậy.

Nào, hãy nhắm mắt lại và cùng tôi dạo chơi trên nền tháng Năm của phố. Hãy cứ nhắm mắt như thế để tôi dắt bạn đi giữa những nhớ quên mà ta chưa có dịp nói cho nhau nghe. Tôi sẽ cùng những con ve kia hát khúc ca của tháng Năm. Khúc ca phố vào hè! Để phố được thấy nụ cười hiền hòa trên môi bạn, môi tôi, và chính trong lòng phố yêu thương.

Con đường bằng lăng

Nhà báo Việt Tâm

Cây gợi nhớ về người bạn gái năm xưa dịu dàng và duyên dáng. Đã mấy chục mùa hoa đi qua, chẳng biết bạn còn nhớ sáng đầu hè năm ấy bên nhau cùng lắng nghe tiếng lá cây vẫy gió. Những cánh hoa khô ép trong cuốn vở học trò cũng chẳng biết lưu lạc từ bao giờ. Chỉ còn nỗi nhớ vu vơ rất nhẹ, rất thoảng, trong veo sắc tím mỗi độ hè sang.

M ùa hè đến bắt đầu từ những con đường bằng lăng tím ngát. Có thể trong ký ức của ai đó là phượng hồng, là hoàng lan, ngọc lan… Riêng tôi ký ức nhung nhớ màu bằng lăng nhạt nhoà tím theo con đường tới trường. Sân trường cũng có bằng lăng, màu tím đan xen màu đỏ của phượng vỹ tạo nên bức tranh rực rỡ đón chào mùa hè.

Đừng nói là bằng lăng chỉ duyên dáng khi hè sang, khi hoa chùm chùm át cả màu xanh của lá. Tôi phát hiện ra điều đó khi cô bạn cùng lớp ý tứ bảo rằng bạn yêu bằng lăng suốt cả bốn mùa, cảm nhận vẻ đẹp dịu dàng của bằng lăng suốt cả bốn mùa.

Mùa đông lạnh lẽo cây ngủ tàng ủ dòng nhựa dưới lớp vỏ xù xì, mốc thếch. Từng chiếc lá vàng úa rụng rơi về cội, mặc cành cây khẳng khiu trong gió rét. Những cành cây chia nhánh nhỏ dần nơi đầu cành, đan xen khắc hoạ trên nền trời như nét bút ký hoạ của những hoạ sĩ tài ba. Vòm cây luôn gợi những suy tưởng về dòng tranh thuỷ mạc, chỉ đơn sắc giữa đen và trắng mà sống động hài hoà.

Khi xuân sang cành mới bắt đầu nảy mầm từ những cành cây khẳng khiu ấy. Bắt đầu là mầm bé xíu, màu nâu nhạt dần dần bung toả lá biếc, lá khi còn non cũng màu nâu ánh tía, nhạt dần nhạt dần chuyến sang sắc xanh mỡ, xanh non… Cả một vòm lá non biêng biếc mà cảm nhận nõn nà mềm mại, mạch nguồn nhựa sống ấp ủ suốt mùa đông chảy tràn trên sắc lá, đón nắng dành sức cho mùa hoa…

Ngày ngày đi lại theo con đường bằng lăng ấy tôi không khỏi cảm thán sự chuyển sắc theo mùa. Từng ngày, từng ngày mà biến hoá, hình dáng sắc màu chuyển chuyển như bức tranh biến động không ngừng. Khi tán lá mới đã căng đầy sức sống từng chùm nụ hoa nhu nhú đầu cành, lớn dần lên đan xen chen chúc để đến một ngày kia bất ngở bung nở, những bông hoa đầu tiên điểm sắc tím như nét bút của người hoạ sĩ tài hoa bắt đầu cho bức tranh mới… Hứng khởi thăng hoa với từng chùm từng chùm lớn dần lên, toả đầy cành lá, như những cây hoa, mùa hè vào độ căng tràn rực rỡ… Tôi thích ngắm từng phân đoạn thời gian với những thay đổi bất ngờ, để mỗi ngày ngước mắt dõi theo đều ồ lên ngạc nhiên, sung sướng từ trong tâm cảm.

Cô bạn cùng lớp ngày xưa đã truyền cảm hứng ngắm cây cỏ mây trời cho tôi từ những quan sát và nhận xét tinh tế của cô ấy. Có lần cô ấy bảo: Bạn có muốn ngắm vòm cây này không, dưới đám mây trắng bồng bềnh mặt trời đang chiếu sáng ngay trên đám mây kia… Tôi hơi ngạc nhiên, cái cây này, ngày nào chẳng thế, mặt trời kia, vầng mây ấy… bao nhiêu ngày vẫn thế có gì khác đâu, chả có gì thú vị ở đây cả. Tôi đã tính bỏ đi thì bạn ấy bảo: Hãy kiên nhẫn một chút đi bạn! Vạn vật đang nói chuyện với bạn mà bạn chẳng biết. Tôi tò mò ngồi xuống chiếc ghế đá, nín lặng nhìn theo hướng tay bạn chỉ. Trong tĩnh lặng mà cảm nhận tiếng gió lào thào khẽ khàng vuốt qua khuôn mặt thiếu nữ của chúng tôi, khẽ tung lọn tóc mai loà xoà. Bạn bảo: Lấy tán lá kia làm cữ nhé, mặt trời đang từ từ vượt lên, đám mây cũng biến hình di động, mà lạ chưa có vài chiếc lá lắc lư qua lại, như bàn tay vẫy… Không phải gió, nếu là gió thì cả tán lá sẽ cùng đung đưa chứ, đây chỉ có vài chiếc lá thôi, trên một chiếc cành con con, như trò chuyện, như vẫy chào chúng tôi…

Suốt quãng thời gian học chung sau này, chúng tôi đã nhiều lần cùng nhau ngắm cây cỏ mây trời bên nhau như thế. Có những buổi trưa muộn đạp xe về nhà, mặt trời đứng bóng xuyên qua vòm lá loang loáng lướt qua từng vệt nắng nhưng nhưng bông hoa liên tục chuyển động thật thích mắt… Rất nhiều năm sau này, tôi vẫn giữ thói quen điềm đạm, lặng lẽ quan sát bốn mùa luân chuyển qua những con đường rợp bóng bằng lăng dịu dàng. Những lúc suy nghĩ rối bời với hiện thực cuộc sống, tôi dừng lại dưới hàng cây, lắng nghe một chút, tĩnh tại một chút, những nút rối dần dần được tháo gỡ, suy nghĩ lại sáng suốt cắt đặt từng việc sao cho phù hợp nhất…
Có mùa mưa giông, những cây bằng lăng trong luồng gió xoáy đã đổ ngã sóng xoài trên mặt đất. Tôi thầm tự hỏi: Cây cao lớn và vững chãi thế, sao có thể bật cả gốc rễ thế này… Giông bão qua đi, nhóm công nhân công ty cây xanh đã cưa bớt cành và nâng cây lên trồng lại. Một chiếc giá đỡ vững chãi từ bốn phía đã giữ cây đứng thẳng. Cái cây như tâm điểm ngắm nhìn mỗi ngày tôi đi qua con đường ấy. Một ngày kia bất ngờ thấy những mầm non đã mọc trở lại, ngay trên đoạn cành bị cưa bỏ, một sức sống lại dâng trào, ngút ngát, cây toả tán hồi sinh… Sau này tôi mới biết, loài cây bằng lăng ấy dù bộ rễ không khoẻ để chằng chịt bám chắc trong lòng đất, nhưng lại có sức sống bền bỉ mãnh liệt, dù bị nhổ bật lên rồi, khi được trồng lại với sự trợ giúp của giá đỡ, cây lại hồi sinh để kịp mùa hoa vào mùa hè phía trước.

Cây gợi nhớ về người bạn gái năm xưa dịu dàng và duyên dáng. Đã mấy chục mùa hoa đi qua, chẳng biết bạn còn nhớ sáng đầu hè năm ấy bên nhau cùng lắng nghe tiếng lá cây vẫy gió. Những cánh hoa khô ép trong cuốn vở học trò cũng chẳng biết lưu lạc từ bao giờ. Chỉ còn nỗi nhớ vu vơ rất nhẹ, rất thoảng, trong veo sắc tím mỗi độ hè sang.

Nghe tiếng mưa đêm

kim-loan-2

Tác giả: Kim Loan

Đ ôi khi, tiếng mưa đêm làm tôi nhớ đến tiếng đàn bầu. Tiếng đàn bầu đêm thâu, rỉ rả tình tang những thanh âm nhàu nhĩ. Tiếng mưa đêm chầm chậm như thể mưa chẳng vội vã gì, như thể còn cả đêm dài để mưa mặc tình thấm ướt chính mình, một cái thú đau thương dịu ngọt. Thỉnh thoảng mưa lại ào lên mái ngói một lần khi có cơn gió thoáng qua. Rồi cứ thế ngắt ngứ, đùa với những ai đêm dài không ngủ được.

Tôi cũng thường nằm nghe tiếng mưa đêm. Tiếng mèo ngao gọi bạn tình trên mái. Lúc nhỏ tôi rất sợ âm thanh này, tôi tưởng tượng như tiếng trẻ con khát sữa đòi mẹ. Mà mẹ nó lại bỏ đi đâu trong đêm như thế? Tôi lại nhớ người mẹ tên Nhung trong tuồng cải lương Tướng Cướp Bạch Hải Đường bỏ đứa con nhỏ mà đi. Tôi sợ chia xa, dù có bao nhiêu tuổi thì cái cảm giác chia xa đó vẫn như đứa con thơ ngác ngơ tìm mẹ. Tiếng mèo trong mưa đêm, đứa con lạc mẹ, có một người đàn bà lạc mất chính mình.

Tôi nghe những lời tình tự trong mưa, của những người yêu nhau nhưng lại không được sống cùng nhau, nhờ giọt mưa nối hai đầu nỗi nhớ như trong một bài hát. Tình yêu muôn thuở đều thế thôi, chỉ đẹp khi xa, “chỉ đẹp khi còn dang dở”. Có lẽ điều đó cũng nằm trong quy luật bù trừ, có cái này thì mất cái kia. Nếu không có cái mất thì cái được sẽ không còn thi vị. Cũng như mưa đến làm ướt những ngày nắng, mưa tưới mát nhưng mưa cũng lạnh thế nên tiếng mưa có khi buồn mà cũng có khi vui, khi chia xa, khi tình tự, lúc nhẹ nhàng, lúc ào ào như bão.

Tiếng mưa như là một bài hát kỷ niệm, một nhạc hiệu mà mỗi khi nghe ta lại nhớ những tháng ngày xưa cũ. Tiếng mưa khi nhặt khi thưa, quãng đời thơ ấu như thướt phim lúc nhanh lúc chậm trong tâm trí người thức cùng mưa đêm vắng. Có thể người sẽ nhớ đến hơi ấm của mẹ trong những đêm mưa lạnh. Có người sẽ nhớ người năm ấy cùng ta trú mưa dưới mái hiên rồi lại bâng khuâng không biết bây giờ người ấy ra sao. Có người lại nhớ đến người sống chung nhà với mình, nhưng là “người của ngày xưa”. Thời gian, thời gian khiến cho bao thứ đổi thay hay chính ta thay đổi mà cứ đổ thừa cho thời gian một cách vô tội vạ. Mưa cứ làm người ta nhớ những chuyện buồn, hay do người buồn rồi lại đổ thừa cho tiếng mưa đêm?

Tôi cũng nhớ đến chính tôi. Tôi của ngày 20 sôi nổi đầy nhiệt huyết, sống hết mình với những ước mơ. Cũng lại chính tôi của tuổi 30 trầm mặc hơn, bận rộn nhiều hơn, những ước mơ xếp vào một góc nhỏ tâm hồn dành thời gian cho bao đua tranh cơm áo gạo tiền, không cho phép bản thân ngơi nghỉ. Rồi đau đáu với mình hiện tại, có quá nhiều nuối tiếc, quá nhiều mong mỏi. Tiếng mưa khẽ khàng như là rơi nghiêng, tôi cũng nằm nghiêng vòng tay ôm lấy vai mình, người đàn bà đi qua bao mùa mưa vẫn tự mình sưởi ấm bằng ngọn lửa của lòng kiêu hãnh.

Cơn gió đi qua, vài giọt mưa đi lạc tạt vào ô cửa kính. Qua ánh sáng của từng cơn chớp giật, tôi thấy hàng cau oằn mình trong mưa, ngọn phất phơ bên này rồi đến bên kia. Vậy mà sáng mai thôi, hàng cau lại đứng đó như chưa từng nghiêng ngả, như mẹ ta bao lần đón đợi ta về, bao lần chở che ta qua những gió mưa của cuộc đời. Giông gió qua đi, tiếng mưa lại thánh thót như một bản nhạc thiền xoa dịu những ưu tư, chữa lành những tâm hồn thổn thức cùng đêm mưa vắng.

Mưa, tiếng mưa đêm như lời tâm sự của một người bạn tri âm, người bạn mà ta mãi không nhận ra, chỉ khi ta tìm về với chính mình mới phát hiện ra bạn ấy vẫn là người yêu ta nhất. Bạn ấy có thể là cô gái 20 nhiệt thành. Bạn ấy có thể là người phụ nữ 30 bận rộn. Bạn ấy cũng có thể là người đàn bà tự sưởi chính mình và cũng đang nằm nghe tiếng mưa đêm.

Xao xuyến tháng Năm

nguyen-ai

Tháng Năm về, nhớ những con đường đất đỏ mưa trơn trượt. Nhớ những chiếc xe bò kéo lăn bánh lộc cộc trên đường quê, những chú bò mệt nhoài vì sức nặng. Giờ thì những con đường đã được trải nhựa, máy móc đã thay thế sức người và trâu bò. Thành phố giờ đây đã đàng hoàng, tươi đẹp hơn xưa. Đi giữa những con đường hoa, lòng xao xuyến bồi hồi với điệp khúc tháng Năm.

Tháng Năm , cái nắng vàng như mật ong đem hơi nóng nồng nàn tưới tắm lên từ những hàng cây, con đường, góc phố đến những vườn rau, ruộng lúa ven đô. Những con đường bằng lăng tím ngát, những con đường hoa muồng hoàng yến vàng tươi như thắm hơn trong màu nắng. Trong những sân trường kia, phượng vĩ cũng đã bừng cháy đỏ cùng dàn giao hưởng ve sầu réo rắt ngân nga.

Từng đàn bướm vàng tung tăng bay lượn, đậu trên các khóm hoa hồng, những chậu hoa lan, trên các loài cây lá trên các vườn nhà, trên những con đường đầy hoa và trên cả những khóm hoa dại hoang sơ. Sau những nhọc nhằn của cả một chặng dài thay đổi, những chú bướm đang có những ngày tươi đẹp nhất trong đời.
​Những cô cậu học trò sắp bước vào những ngày cuối của năm học với những bài thi, với những nỗi lo toan, những đêm trắng thức cùng bài vở. Trồng cây đã đến ngày hái quả, những thầy cô giáo cũng đang vào những ngày cao điểm bận bịu với giáo án, bài thi, mong những đứa học trò mình chăm chút sẽ có được những thành tựu như mong đợi.

​Nhớ một tháng Năm nào lâu lắm, mình cũng là một đứa học trò đang căng thẳng với những ngày thi. Quyển lưu bút chuyền tay, giữ lại cho nhau những tình cảm thơ ngây rất đỗi học trò. Rời mái trường rồi, mỗi đứa một nơi, hẹn gặp nhau mỗi tháng năm về, khi hoa phượng đỏ rợp trời và bằng lăng tím màu thương nhớ.
Bao năm tháng đi qua, màu mực tím thơ ngây ấy vẫn còn trên trang lưu bút, mà mỗi đứa bây giờ tóc đã điểm sương, gặp nhau biết mấy ngậm ngùi khi kẻ còn người mất. Những câu chuyện xưa kể hoài không hết, tuổi đời dẫu đã chất chồng mà bên bạn bè ta vẫn mãi là những đứa trẻ thơ. Thời gian dẫu đã lùi xa, nhưng kỷ niệm vẫn còn tươi nguyên trong ký ức.

Tháng Năm, ngồi trong nhà nhìn ra hàng cây phía trước, nghe ra rả tiếng ve ngân mà nhớ những ngày sắp vào hè một thời xưa cũ. Lúa đã cắt xong, rơm đã phơi thành đống. Những ngày nông nhàn lại trong tiết trời mưa nhẹ, má ngâm bột xay làm món bánh xèo cho bầy con quây quần ăn ngay tại bếp. Món bánh xèo quê chỉ có bột gạo và hành lá, chấm với mắm nêm mà đổ ra cái nào ăn hết cái đó, vừa ăn vừa hít hà vì cay vì nóng. Vậy mới biết cái ngon đôi khi không nằm ở nguyên liệu, cách chế biến mà nằm ở niềm vui được hồi hộp chờ đợi và sự quây quần bên nhau.

Qua rồi những niềm vui tuổi thơ, những ngày được cùng nhau ngồi bên bếp lửa của má. Lại là những lo toan, bận rộn cho những đứa con lần lượt bước vào những kỳ thi quan trọng. Đâu phải chỉ có học trò mới có nỗi lo đèn sách. Nỗi lo của người đứng ngoài nhiều khi còn căng thẳng hơn cả người trong cuộc. Lại ước chính mình được vào phòng thi, làm những bài thi như ngày nào. Hồi hộp chờ mong kết quả cùng con trẻ, để rồi vui buồn theo những cảm xúc ấy.

Tháng Năm Tây Nguyên, mùa hạ và mùa mưa. Những dòng nước chảy từ những sườn đồi tạo thành những con mương. Trời mưa càng to, dòng nước chảy càng cuồn cuộn, nhớ thời trẻ thơ không biết sợ hiểm nguy cứ chạy băng vào những dòng nước để tìm cảm giác thích thú rồi lại tự hỏi những dòng nước ấy chảy về đâu, có giống như những bài địa lý mình đã học, suối chảy vào sông, sông đổ ra biển lớn. Nước có sự tuần hoàn như vậy, còn con người ta theo năm tháng lớn lên, già đi, rồi đi về một thế giới khác, biết đâu có thể trở về trong một hình hài nào khác. Những suy nghĩ của một thời trẻ thơ sao thật là ngây ngô quá đỗi.

Tháng Năm, mùa của những loại quả chín. Những trái ổi vừa giòn, vừa chua, vừa ngọt, những trái mận vườn mọng nước, những trái xoài chín cây ngọt lịm, mít thì nhiều vô kể…Nhưng nhớ nhất của một thời tuổi thơ là những loại quả rừng mà giờ đây, với sự thu hẹp của những cánh rừng, những loại quả ấy ngày càng hiếm hoi hơn. Những cây trâm to cao cho thứ quả tím ngọt nhỏ xinh ăn vào là tím cả lưỡi cả răng. Mà cái thú vị nhất là đi vào rừng, trèo trên cây và hái. Giờ thỉnh thoảng cũng có người bán loại trái cây này nhưng chắc chắn không tìm lại được sự thích thú của ngày xưa. Một loại trái khác từ một loại cây bụi mọc hoang rất nhiều trên các gò đồi là trái mề gà. Trái mề gà có màu vàng đẹp mắt nhưng ăn vào thì chua lắm. Ngày đó bọn trẻ hay nói với nhau câu học được từ người lớn: Ăn một trái mề gà uống ba thang thuốc…Không biết có thật không nhưng trẻ con vẫn cứ ăn và cứ lớn như cây cỏ quê nhà. Bao nhiêu loài cây, bấy nhiêu loài quả. Những nỗi nhớ mang mùi quả chín thật ngọt ngào làm sao khi tháng Năm về.

Tháng Năm về, nhớ những con đường đất đỏ mưa trơn trượt. Nhớ những chiếc xe bò kéo lăn bánh lộc cộc trên đường quê, những chú bò mệt nhoài vì sức nặng. Giờ thì những con đường đã được trải nhựa, máy móc đã thay thế sức người và trâu bò. Thành phố giờ đây đã đàng hoàng, tươi đẹp hơn xưa. Đi giữa những con đường hoa, lòng xao xuyến bồi hồi với điệp khúc tháng Năm.

Đêm xoang của núi

Tôi ngồi ngẩn ngơ trước những vòng xoang lúc nhặt lúc khoan mà nghe như có cả tiếng núi đồi vọng lại. Nụ cười giao cảm, ánh mắt của trai gái múa xoang trong veo như nước giữa rừng già. Những bước chân trần cứ nhịp đều đều như tiếng tỉ tê của dòng suối nhỏ gần đấy. Thứ âm thanh của thiên nhiên mà người phố thị luôn ao ước. Đang đứng thả hồn theo những bước xoang, tôi được cô bạn đi cùng đoàn kéo vào hòa nhịp. Vòng tròn cứ nới rộng ra khi cả chủ khách vừa uống rượu vừa nhảy múa. Cô gái người Banar kéo tay tôi cùng vít cần bằng cái nhìn lúng luyến, dễ thương. Ta lâng lâng trong men rượu của núi rừng, ta đung đưa cùng em trong điệu xoang sóng sánh. Thời gian ơi xin ngừng lại để đêm thâu huyền cửu kéo dài mãi ra cho vòng xoang càng nới rộng, để những trầm tích văn hóa từ ngàn đời lại có dịp trỗi dậy trong đêm trong veo của núi rừng.

B ok Tới những ngày đầu tháng tư không khí vẫn còn chút vương vấn của nàng xuân nên không gay gắt lắm. Mặt trời xòe tia nắng cuối ngày xuyên qua những tán rừng keo vào mùa thu hoạch trước khi khuất núi để trả lại bóng đêm cho buôn làng. Lòng người lữ khách lỡ trót đa mang niềm yêu thương với xoang mà rộn ràng, rạo rực khi hoàng hôn choàng tím những con đường giờ đã được bê tông phẳng lì. Mỗi một dân tộc trên khắp đất nước này đều sở hữu cho riêng mình những nét văn hóa đặc trưng mà nó trở thành linh hồn của cộng đồng.

Với người Banar, Jrai và các dân tộc khác nơi tây nguyên hay vùng cao của các tỉnh miền trung, điệu xoang và tiếng cồng chiêng là thứ làm đắm say lòng người nhất. Tôi cứ mong cho đêm buông thật nhanh để được thưởng thức và hòa vào vòng xoang huyền thoại, để được nhịp nhàng cùng tiếng cồng chiêng quyến rũ nơi non cao của huyện trung du Hoài Ân quê mình.
Chẳng biết xoang có từ bao giờ mà chỉ biết nó gắn bó với bao đời người, bao mùa rẫy, bao mùa lễ hội để rồi mê hoặc những ai đã từng chiêm ngưỡng, hòa nhập cùng xoang. Những con người nơi miền rừng xanh núi đỏ này sinh ra đã nghe tiếng chiêng ngân đêm đêm nơi nhà sàn. Những em bé khi đôi chân đi chưa vững được mẹ, được bà địu trên lưng đến những đêm xoang.

Chúng lớn lên trong không gian văn hóa đa sắc màu như thế nên làn điệu truyền thống của dân tộc mình ngấm sâu vào từng tế bào trong cơ thể. Khi lớn lên chỉ cần nghe tiếng cồng chiêng, đôi chân, đôi tay của những con người Banar ấy đã uyển chuyển, nhịp nhàng mà chẳng cần phải tập luyện công phu gì. Lớp già ra đi, lớp trẻ lớn lên lại tiếp bước giữ gìn để những vòng xoang, nhịp cồng chiêng là chiếc cầu nối quá khứ với hiện tại, để núi rừng ngân mãi âm vọng từ ngàn đời.

Khi bóng đêm bao trùm lên những con đường ngoằn ngoèo uốn lượn theo những sườn núi, những ngôi nhà mới xây tường vôi còn mới tinh của xã Bok Tới đã lấp lánh ánh đèn. Già Yang Danh khoác chiếc áo thổ cẩm truyền thống của dân tộc mình bước ra giữa sân cất giọng sang sảng bằng tiếng Banar như một lời hiệu triệu cho đêm xoang. Tiếng của già vang vào màn đêm nơi rẻo cao tĩnh mịch thôi thúc những bước chân ăn vội bữa cơm tối hay lùa nhanh đàn trâu, đàn bò về chuồng để đến với đêm xoang. Ông còn cất giọng hát gọi mời. Tiếng hát của già Yang Danh lanh lảnh hòa vào không gian mênh mông mà vọng xuống dưới thung sâu hay bay ngược lên những ngọn núi để gõ cửa từng nhà tụ hội. Khi không gian nhỏ của nhà sinh hoạt cộng đồng đã kín người, tín hiệu khai hội bắt đầu.

Những cô thôn nữ với váy áo thổ cẩm nhún nhịp đều đặn xoay theo vòng ngược kim đồng hồ trên những đôi chân trần đẹp tựa như những sợi thổ cẩm đang cuộn trên những con quay lúc nhanh, lúc chậm. Vũ điệu khỏe khoắn, hồn nhiên, mộc mạc mà đầy cuốn hút như cái lòng, cái dạ của đồng bào nơi đây. Những động tác của tay khi múa xoang chẳng khác gì em đi tra hạt bắp, em đi hái măng rừng hay nhổ cỏ cho cây lúa trên rẫy lên đều. Mọi thao tác của lao động, sinh hoạt hàng ngày như dồn vào điệu xoang để những người lữ khách như tôi cứ ngồi mà ngẩn ngơ ngơ ngẩn. Trước mắt ta không chỉ đơn thuần là điệu múa mà là sự mô phỏng, tái hiện đời sống cộng đồng cư dân nơi non cao này. Nếu nói cái linh hồn của xoang là những động tác mượt mà, trau chuốt đến từng chi tiết thì những tuyến lượn mềm mại là sự điểm tô cho điệu xoang thêm lung linh, đắm say. Đội hình lúc dàn hàng ngang lúc quay sang hàng dọc rồi lại lượn vòng trông rất đẹp mắt. Hồn người, hồn đất hay những cung bậc tình cảm được bộc lộ rõ ràng qua thứ ngôn ngữ hình thể độc đáo này.

Những đôi tay của các cô gái uyển chuyển, mềm mại lên xuống. Những đôi chân trần nhún nhẹ nhàng đúng nhịp và đặc biệt là khuôn mặt cực kỳ biểu cảm. Tôi đọc được sự rạng ngời ánh lên qua đôi mắt như biết nói. Đôi bắp tay cuồn cuộn của chàng trai vỗ trống Chơ-gút đi đầu chỉ huy dàn cồng chiêng như mê hoặc người xem.

Những tiếng trống đều đều nhưng đôi lúc lại phá nhịp tạo nên tiết tấu độc đáo. Dàn cồng chiêng làm nhịp cho xoang vang lên thứ âm thanh lôi cuốn lòng người. Dáng điệu rắn rỏi, cái nắm tay chắc nịch vỗ vào núm cồng phát ra tiếng vang rền. Âm réo rắt với nhịp nhanh hơn của chiêng lớn, chiêng bé ngân nga lúc sâu lắng, lúc thôi thúc trầm hùng. Những vòng xoang cứ sóng sánh, sóng sánh cùng tiếng cồng chiêng như bất tận, mênh mông mà không biết khi nào kết trong bóng đêm huyền diệu của núi rừng.

Tôi hỏi một cụ gia người Banar về xoang khi ánh mắt đầy viết chân chim của ông đang theo dõi những vòng xoang trên sân. Cụ kể tôi nghe bằng giọng tiếng Kinh lơ lớ nhưng đầy niềm tự hào về loại hình văn hóa độc đáo của dân tộc mình. Xoang Sa mơk rộn ràng, sôi nổi mỗi khi dân làng mở hội mừng lúa mới. Xoang A tâu chậm rãi, u buồn trong lễ Pơ thi (bỏ mả) tiễn đưa lần cuối người đã khuất cắt đứt mối liên lạc với thế giới phồn thực. Xoang Long Đeh và Khiêl thể hiện sự mạnh mẽ, dũng mãnh của các chiến binh trong lễ đâm trâu, Xoang Tap Sơ gơr mỗi khi làng về vùng đất mới. Bây giờ một số điệu xoang đã mai một đi nhiều lắm không còn như xưa nữa do sự phát triển của xã hội và sự giao thoa văn hóa vùng miền.

Tôi ngồi ngẩn ngơ trước những vòng xoang lúc nhặt lúc khoan mà nghe như có cả tiếng núi đồi vọng lại. Nụ cười giao cảm, ánh mắt của trai gái múa xoang trong veo như nước giữa rừng già. Những bước chân trần cứ nhịp đều đều như tiếng tỉ tê của dòng suối nhỏ gần đấy. Thứ âm thanh của thiên nhiên mà người phố thị luôn ao ước. Đang đứng thả hồn theo những bước xoang, tôi được cô bạn đi cùng đoàn kéo vào hòa nhịp. Vòng tròn cứ nới rộng ra khi cả chủ khách vừa uống rượu vừa nhảy múa. Cô gái người Banar kéo tay tôi cùng vít cần bằng cái nhìn lúng luyến, dễ thương. Ta lâng lâng trong men rượu của núi rừng, ta đung đưa cùng em trong điệu xoang sóng sánh. Thời gian ơi xin ngừng lại để đêm thâu huyền cửu kéo dài mãi ra cho vòng xoang càng nới rộng, để những trầm tích văn hóa từ ngàn đời lại có dịp trỗi dậy trong đêm trong veo của núi rừng.

Hình hài của nỗi buồn

nguyen-hien

Vậy thì, sao tôi lại phải giằng co với nỗi buồn. Tôi nhận ra, mình phải đối đãi với nỗi buồn như mình đã đối đãi với niềm vui: Ân cần, dịu dàng, không chối bỏ. Tôi biết mình cần tận hưởng nỗi buồn, mỗi lần nó đến, hãy để nó xâm chiếm hồn tôi, yên lặng cùng nó đi hết đoạn hành trình. Nhất định, đến một lúc nào đó, nỗi buồn sẽ rời tôi mà đi để còn sống tiếp trong một hình hài khác. Còn tôi, lại an nhiên sống, tiếp tục chờ đợi, chờ đợi ngày nỗi buồn quay trở lại, tìm tôi…

C hiều rơi nghiêng theo tia nắng giấu mình trong lá cỏ. Tôi ngồi lặng lẽ nơi góc nhà với cuốn sách trên tay. Nơi ấy có cửa sổ nhìn ra bao la núi đồi nhưng tôi chẳng nhìn ra ngoài kia dù chỉ một lần, cũng chẳng chú tâm vào trang sách đang lật dở. Trong góc tối, tôi miên man trong vô vàn suy nghĩ rồi tự hỏi mình: Hình hài của nỗi buồn ra sao?

Người ta thường gắn nỗi buồn với hình hài của những giọt nước mắt trong veo, mặn chát. Khi mọi thứ đã quá sức chịu đựng, nỗi buồn như giọt nước tràn ly, cõi lòng vỡ, nước mắt rơi xuống như những mảnh vụn của nỗi buồn, chỉ có trái tim ở lại, câm lặng và tái tê. Gánh trên vai quá nặng, bất cứ một tác nhân nhỏ nào cũng có thể như chiếc áo, bất thần rơi xuống, khẽ thôi nhưng có thể quật ngã được một con lừa, Nào phải “thân lừa ưa nặng” chỉ là mọi thứ không thể nào khác được, là như thế, bắt buộc phải là như thế. Cuộc đời như một con đường, có những nơi dù sớm dù muộn, dù nhanh dù chậm ta vẫn phải đi qua, cũng như có những điều ta đã biết trước sẽ xảy ra nhưng đến khi nó đến, ta vẫn nghẹn ngào rơi nước mắt.
Nỗi buồn có lúc mang hình hài của khuôn mặt lặng như thinh không, đằng sau đó là sâu thẳm những nỗi niềm. Thật ra, niềm vui khó giấu còn nỗi buồn, dù muốn dù không vẫn phải giấu. Nơi nước lặng là nơi biển sâu nhất.

Con người càng mang nhiều tâm tư càng trầm tĩnh và ít nói, lặng lẽ cất kín đi mọi thứ, thậm chí họ giấu những điều đó đằng sau nụ cười. Đâu phải tất cả nụ cười ta có đều là dáng vẻ của niềm vui? Để hiểu thấu một người, đọc niềm vui đã khó, nhạy cảm với nỗi buồn của họ càng khó hơn bội phần. Dù thế nào, sống trên đời vẫn cần lắm sự sẻ chia, niềm vui nhân lên, nỗi buồn bớt lại, hình hài của nỗi buồn vì thế trong khoảnh khắc nào đó chìm vào quên lãng, trái tim dịu lại, khuôn mặt người vơi đi những vô hồn.

Nỗi buồn đôi khi mang dáng hình của vầng trăng nơi sân nhà trong một đêm tháng mười chớm đông, chớm mùa mưa gió. Vầng trăng khi ấy, nhìn vào thật trong trẻo, tinh khiết nhưng lành lạnh, cái cô quạnh của trăng trên bầu trời mênh mông đã thấm vào hồn người hay nỗi buồn của người đã in hằn lên cái nhìn trăng khuyết mà bất giác tôi khẽ run lên khi cơn gió nào đi lạc qua sân nhà tôi rồi nghịch ngợm trêu đùa? Tôi đã không ngắm trăng khi trăng mang màu ấm áp của mùa hè, tròn đầy của mùa thu, để giờ đây, nhìn trăng lòng tôi đầy tiếc nuối, giây trước mắt tôi còn ngập ánh trăng, giây sau chỉ còn là đám mây đen đang chầm chậm nuốt chửng trăng vào lòng.

Nỗi buồn trong tôi vì thế, vẫn đang ngập tràn chẳng thể nguôi ngoai. Trong đêm tối, cái cây lớn trước nhà vẫn đang cố vẽ lên nền trời một dáng hình khẳng khiu, vững chãi.

Rồi một ngày, tôi thấy nỗi buồn mang hình hài của một đóa hồng mới nở còn đẫm giọt sương đêm. Sương long lanh trên những cánh hoa mềm e ấp. Tôi ghé lại, hít hà mùi thơm dịu ngọt, bất giác nỗi buồn quyện lấy hương hoa mà nhẹ nhàng khép lại, từng chút, từng chút một. Phía chân trời, bình minh đã dậy, ráng đỏ sau bóng núi đang từ từ tỏa ra, giọt sương rơi, tôi khẽ dợm chân bước vào ngôi nhà nhỏ. Nơi ấy các con tôi đang say ngủ, gương mặt trẻ thơ an tĩnh, bé bỏng chẳng có hình hài, dấu vết của nỗi buồn. Đấy là nguồn sống của tôi, là cái neo tôi đang bám vào và thắp lên trong tôi niềm hi vọng. Suy cho cùng, con cái vẫn là nơi cha mẹ tựa vào, là ánh sáng cho những ngày đầy giông bão. Nguồn sống của một người bắt đầu bằng sơ tâm đơn thuần, không toan tính, không vụ lợi, bon chen, một nụ cười có thể cứu vớt được cả một cuộc đời đang ngả nghiêng chống đỡ với đủ mọi mưa quăng gió giật, có thể chực ngã bất cứ lúc nào. Chỉ chút nữa thôi, ngôi nhà của tôi sẽ lại rộn rã tiếng cười nói của các con, tôi lại tất bật với những hối hả đời thường như bao ngày qua vẫn vậy, bởi vì tôi là mẹ.

Tôi đã bao lần muốn vẽ lại dáng vẻ của nỗi buồn. Đó có thể là đôi mắt đang long lanh ngấn lệ, là khuôn mặt thiếu vắng nụ cười thật sự, là vầng trăng khuyết hao gầy trên bầu trời vắng vẻ, là bông hoa đẫm sương như tôi nói ở trên… Tôi muốn vẽ để tìm cách xóa đi vì nếu nỗi buồn có một hình hài cụ thể, tôi có thể xua đuổi được nỗi buồn nhưng nếu không có dáng vẻ, mông lung và mơ hồ, nỗi buồn sẽ còn mãi ở đó, trở đi trở lại như một niềm ám ảnh dù cho ta có cố gắng xua đuổi như thế nào đi chăng nữa.

Tôi muốn lòng tôi không còn buồn, chỉ còn lại toàn niềm vui, hi vọng. Nhưng tôi nhận ra, mong muốn của tôi là không thể, nỗi buồn có thể chẳng là gì cũng có thể là tất cả những gì tôi đã gặp, mỗi lần hóa thân lại là một dáng vẻ khác nhau, nó có thể đến tìm tôi khi bình minh vừa hé cũng có khi đến vào một buổi chiều mà bóng tối đang dần lấn át ánh sáng, ôm trọn mọi thứ vào lòng nó, giấu đi những bí mật thẳm sâu. Tôi muốn xóa bỏ nỗi buồn khác nào muốn đôi mắt không biết khóc, vầng trăng chỉ toàn tròn trịa, ấm áp, đóa hoa chỉ nở mà chẳng tàn, một năm chỉ còn lại ba mùa… Tất cả đều là những chuyện vô nghĩa lí và trái với quy luật của tự nhiên.

Vậy thì, sao tôi lại phải giằng co với nỗi buồn. Tôi nhận ra, mình phải đối đãi với nỗi buồn như mình đã đối đãi với niềm vui: Ân cần, dịu dàng, không chối bỏ. Tôi biết mình cần tận hưởng nỗi buồn, mỗi lần nó đến, hãy để nó xâm chiếm hồn tôi, yên lặng cùng nó đi hết đoạn hành trình. Nhất định, đến một lúc nào đó, nỗi buồn sẽ rời tôi mà đi để còn sống tiếp trong một hình hài khác. Còn tôi, lại an nhiên sống, tiếp tục chờ đợi, chờ đợi ngày nỗi buồn quay trở lại, tìm tôi…

Nghĩ về sen

T ôi đến với sen như một định mệnh. Khởi đầu là cái tên mẹ đặt cho tôi- Lê Phương Liên. Phương là thơm, Liên là sen. Mẹ bảo mong tôi sẽ luôn là một đóa sen thơm tâm thiện, lan tỏa tình yêu thương tới mọi người.

Ngày còn bé cho đến khi học phổ thông tôi cũng chưa hiểu gì mấy về ý nghĩa của hoa sen, chỉ thấy trên vách tường mẹ có treo hai bức tranh cá chép và một bức tranh hoa sen. Mẹ bảo trong một lần đi thăm cha tôi đóng quân ở Hải Phòng, cha cùng mẹ ngồi bên một hồ sen thơm ngát. Hình như bên Kiến An thì phải. Rồi sau đó mẹ mang bầu và sinh tôi, đặt tên là Liên, gửi gắm bao ước vọng. Còn tôi luôn nhớ về một cô bé tên Liên trong câu chuyện tôi từng đọc. Cô bé tay ôm bó sen hồng thì thầm cùng sen lời nguyện cầu cho mẹ mình qua cơn bạo bệnh. Cô bé có đôi mắt buồn như chim từ quy trong mùa giã bạn.

Và tôi từng viết cho mình nhân ngày sinh:” Mẹ đặt tên em loài hoa sinh ra từ bùn sâu nước lặng/ cay đắng ngọt bùi vẫn thẳng dáng trắng trong”.
Thi thoảng mẹ tôi cười mà nói rằng: tất cả chúng ta trên cuộc đời này đều như một bông hoa sen, phải chấp nhận mọi thử thách và biết vươn lên trong cuộc sống.

Nếu cuộc đời là cội rễ của những khổ đau ngang trái, đó chính là bùn, thì con người là bông sen, phải biết vươn lên khỏi mặt nước để tìm ánh sáng.
Sen thân thuộc với người Việt tự ngàn xưa. Khắp cả ba miền đất nước, nơi nào sen cũng ngát hương mỗi độ hạ về.

Sen là loài thực vật thân thảo rất đặc biệt, nảy mầm từ củ sen nằm trong bùn đất. Đêm về, bông sen chìm trong nước và sáng hôm sau khi bình minh ló rạng, những bông sen như bừng tỉnh thắp sáng mặt hồ. Lá sen xanh thẫm đẫm nước xòe ra, tựa như những chiếc ô to tròn đan nhau che kín mặt hồ.

Sen có cả hương lẫn sắc, nhưng lại không nồng nàn như lan như huệ, mà chỉ dịu nhẹ thanh khiết như thoảng có thoảng không. Sắc sen đằm thắm, cánh trắng phớt hồng, nhụy vàng tươi tắn tạo nên một nét đẹp dịu dàng và thanh cao. Chẳng ong bướm nào vo ve quấy nhiễu sen kiêu hãnh ngẩng cao đầu cùng trời xanh mây trắng.

Bắt đầu từ giữa tháng năm, khi tiếng ve ran ran trên vòm lá, khắp ao hồ lá sen đã rưng rức xanh chở che cho những ngón sen vừa chớm. Làng tôi có một cái giếng ở đầu làng, chẳng hiểu sao lại được đặt tên rất gợi:”Giếng bờ môi”. Trưa hè trời nắng chang chang. Lũ học trò chân không dép, đầu không mũ, về ngang giếng là nhao xuống ngắt vội vài lá rồi chung nhau đội lên đầu. Mùi lá sen thơm dịu lẩn vào mái tóc chớm dậy thì theo hoài tôi những tháng năm xa…

Cuối mùa sen, những chiếc lá ngả dần sang màu nâu. Sen đã hoàn thành sứ mệnh tận hiến của mình. Tôi trở về làng thầm nghe gió hát: “Giếng làng sen tàn cánh lụa/Heo may thêu nỗi nhớ mùa” Phòng khách nhà tôi luôn dành cho sen một góc trân trọng để trưng bày mỗi mùa sen đến.
Những nụ sen mua về sớm còn chum chúm nụ, chỉ qua một đêm đã nở bung kiêu hãnh, khoe hết sắc trắng tinh khôi hay sắc hồng lộng lẫy.

Sen đẹp và thơm khi còn là nụ, khi nở và cả khi tàn. Chỉ sau một hoặc hai ngày hoa dâng hiến hết mình cho hương sắc. Những cánh hoa còn tươi nguyên đã rời cuống, phủ mềm xung quanh chiếc bình sứ, để lại trong lòng tôi sự tiếc nuối bâng khuâng.

Tháng 5 tôi về thăm Làng Sen quê Bác. Trong nắng hè oi ả, những búp sen hồng làm dịu đi cái nắng chói chang của miền Trung. Tiếng hát trong trẻo mà da diết vút lên: “Từ làng Sen, có một chàng trai chí lớn…” Mùi hương trầm quấn quyện hương sen, tôi thầm gọi: Bác ơi!”.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà Phật dùng hoa sen để biểu trưng cho sự thanh tịnh. Hình ảnh “Phật tọa tòa sen” đã khắc sâu vào tâm trí của các Phật tử khi đến chùa đảnh lễ. Bát chè hạt sen được thành kính dâng lên ban thờ vào các dịp lễ tết. Cốm làng Vòng bọc trong lá sen tươi là món quà không thể quên khi du khách về thăm Hà Nội… Và, với tất cả những tự tính trên, hoa sen được chọn làm Quốc hoa của Việt Nam.

Hoa sen là hiện thân cho ý chí nghị lực và nhân cách của người Việt. Chiếc áo dài truyền thống cùng chiếc nón mang họa tiết hoa sen, là hình tượng của người phụ nữ Việt Nam dịu dàng, khiến bao bạn bè trong ngoài nước mến mộ.

Tôi từng độc thoại cùng sen, như độc thoại với chính mình. Đời người, đời sen là sự tương tác tương sinh. Và cả hai cùng chung một đích đến: Mơ nhụy vàng bông trắng lá xanh.
Và để cùng:
Thơm/trên bầu ngực ánh sáng.

Bên thềm giếng xưa

Tác giả: Thanh Nga
Tác giả: Thanh Nga

Nơi giếng khơi trong chẳng bao giờ gạn đục, bao nhiêu chiếc gầu múc mẻ miệng rồi đổ vào thau những dòng nước mát. Nhà ông ngoại giờ đây, bác Cả cũng đã già, tóc bác bạc trắng như ông hồi trước. Bác dùng nước máy tiện lợi hơn cho sinh hoạt gia đình. Chiếc giếng khơi đứng chơ vơ một mình bên gốc nhãn. Tôi về thăm lại chốn xưa, đứng bên thềm soi mình xuống lòng giếng, bóng nước hiện lên bao ký ức thân thương.

N ắng vắt sang hè, cây bưởi nhà ông ngoại lao xao tiếng ve đồng loạt khúc hát reo vui. Trên bầu trời, những tầng mây trắng lả lơi biến hình trong tích tắc. Nơi ấy, trong khoảng sân nhà ông tôi, có chiếc giếng khơi mạch nguồn trong veo trong vắt.

Mẹ tôi kể, ngày ông từ chiến trường trở về, ông cùng bà cất ngôi nhà ngói thay thế ngôi nhà tranh. Thợ đào chiếc giếng nhỏ dưới gốc nhãn, ông không muốn bà phải vất vả đi gánh nước nơi giếng khơi của làng mãi tít xóm xa. Giếng chẳng sâu lắm, chừng mươi mét vừa chạm đáy lộ ra những phần đất sét, các mạch ngầm như được lọc sẵn từ dưới lòng đất tua tủa phun ra, cơ man nào là nước. Gạch xếp xung quanh thành giếng, thỉnh thoảng có tán dương xỉ bén rễ mọc lên. Nơi bờ giếng ấy, biết bao rưng rức tuổi thơ tôi, những hình ảnh chẳng thể nào nguôi phai mờ trong tâm trí tôi cứ hiện về dồi dội. Dùng dằng quá khứ, nhung nhớ ngày xưa – yêu thương như bến bờ cứ rộn ràng thổn thức.

Ngày đó, tôi còn là đứa trẻ lên ba, kiễng đôi chân mà cũng chẳng thể nào cao được bằng bờ giếng, tôi muốn nhìn xuống xem mẹ vừa múc gầu nước có gì dưới đó mà mát, mà trong. Mẹ cho tôi đứng lên một hòn đá nhỏ, tôi nhìn xuống qua đôi mắt tròn xoe, bờ giếng cũng là hình tròn xoe hơn cả đôi mắt tôi hấp háy. Cả một giếng nước sóng sánh, mẹ múc bao nhiêu chiếc gầu bằng sắt cũng chẳng thể nào cạn được.

Ông đổ từng gầu, trút vào chiếc xô nước thật to để tưới cho gốc táo. Mùa xuân nào cũng vậy, khi cành táo sum suê ban tặng cho lũ trẻ chúng tôi chùm quả màu xanh xanh nấp sau những chiếc lá. Lá táo mọc so le thành hàng, quả táo cũng gắn với đầu cuống mọc đan xen cùng cành lá. Nhưng mỗi năm, khi cây trút hết lứa quả cuối cùng, cành táo cũng gầy gò chẳng buồn vươn sải. Ông lấy chiếc cưa gỗ, cành lá rơi xuống, thân cây trơ trọi một mình. Nhưng từ mắt thân cây, những mầm xanh thi nhau mọc lên như cuộc hồi sinh trở lại. Mỗi buổi chiều, ông nhìn ra nơi gốc táo, thấy nắng làm đất khô cong, ông lại múc nước dưới giếng tưới cho cây. Nơi phía cổng nhà ông ngày ấy, tán lá táo xòe ra đón nắng đội mưa, tôi được ăn bao nhiêu lứa quả, tôi được ngắm nghía bao lần những mầm xanh hồi sinh, và cả mỗi bình minh, những giọt sương vẫn đều đặn treo trên cành lá táo.

Mẹ đi nhổ mạ về vừa đặt quang gánh cạnh cầu ao, múc gầu nước mát, mẹ rửa chân cho tan lớp bùn đất bám vào chiếc xà đùi. Anh Hai con bác Cả vừa xách lưng giỏ cua, thả chạc gầu múc nước dội từ đầu xuống dưới bàn chân. Nước giếng trong, giọt bắn tung bắn tóe. Tôi cười xòe mỗi lần anh Hai kêu “Mát quá Na ơi!”, anh lại thả dây chạc nhanh thoăn thoắt, miệng hát yêu đời. Tuổi thiếu niên vừa trạc chín, mười, chắc ngày ấy, anh chẳng bao giờ nghĩ, cuộc đời mình sẽ vất vả mai sau. Chỉ có khe khẽ thương nhau, khăng khít tình cảm gia đình đầm ấm.

Chị Gái có mái tóc dài mượt như nhung, chiều lưng lửng nắng, chị vừa đi cắt cỏ trên đồng về. Bà nấu nước bồ kết pha trong chiếc thau nhôm đặt nơi thềm giếng. Chị cúi đầu xuống, tôi múc nước bằng chiếc gáo dừa, dội nhẹ vào mái tóc cho chị gội đầu. Nước chảy tới đâu, tóc chị mịn thành thớ đen tuyền thật đẹp. Chị quay mái tóc cho khô, rồi búi tạm lên cao để giặt nốt bộ quần áo còn phơi trên sào cho ráo nước.

Tôi chạy ra ngõ chơi với đám bạn cùng xóm. Trò chơi nhảy dây, mồ hôi vã ra như tắm, tôi chạy về nhà, thả dây chạc, múc nước từ dưới giếng. Xoay chiếc gầu sắt chỗ nào không mẻ, đặt miệng vào, uống từng ngụm nước ừng ực mát trong.

Buổi tối mùa hè, trăng treo mình trên đỉnh ngọn tre, trăng soi mình xuống dưới lòng giếng nhỏ. Chị tôi rửa bát khi cả nhà vừa ăn bữa tối bên ngọn đèn tỏ, chiếc gầu gieo xuống dưới lòng giếng, tan loãng mất vầng trăng. Chị Gái bảo tháng sau đi lấy chồng, chị sẽ rất nhớ Na, nhớ mọi người, nhớ không gian cả nhà vui vầy bên bờ giếng. Chị nhớ những ngày giáp Tết, chị rửa lá dong cho bà gói bánh chưng. Chị nhớ ngày mùa đông, nước dưới giếng chẳng lạnh mà còn lan hơi ấm. Nhiệt độ dưới giếng đông hay hè vẫn thế. Mùa đông về, đông chỉ bắt nạt cỏ cây và những mái nhà bằng cách giấu đi những chùm nắng cho cái lạnh sổ lồng, nhưng nước dưới giếng vẫn ấm những giọt nước vắt trong.

Chị tôi đi lấy chồng, ở bên kia sông, nơi mẹ tôi cũng từng ở bên đó dắt tôi trở về quê ngoại. Bên kia sông người ta dùng bể nước hứng mưa, người ta dùng nước sông thay nước giếng. Ngày chị đi lấy chồng, bên bờ giếng, tôi đã khóc vì nhớ người chị đã sang sông. Người hay cõng tôi đi chơi những đêm trăng tròn soi bóng. Bao chàng trai làng ngỏ lời trông ngóng mà chị chẳng ưng. Duyên số ghép cùng chị se tóc thề với anh Minh đi lính về, vỏn vẹn có dăm ngày gặp mặt.

Thời gian khe khắt, cuộc sống chảy trôi. Ông bà tôi theo tổ tiên về với mây trời, anh Hai tôi bước vào đời vướng tình duyên lận đận. Mẹ tôi công việc xoay chiều bận rộn, vẫn bon chen giữa muôn màu cuộc sống, mong đổi lấy chuỗi ngày bình yên. Trái đất xoay, miệng giếng tròn mà lòng người chẳng gặp nhau để vành vạnh chữ duyên. Cuộc đời cuốn xoáy liên miên những đổi thay chẳng thể nào níu kéo. Gốc táo ông trồng, một ngày mùa thu thân già khô lá héo, mắt cây thôi nhú những mầm xanh.

Nơi giếng khơi trong chẳng bao giờ gạn đục, bao nhiêu chiếc gầu múc mẻ miệng rồi đổ vào thau những dòng nước mát. Nhà ông ngoại giờ đây, bác Cả cũng đã già, tóc bác bạc trắng như ông hồi trước. Bác dùng nước máy tiện lợi hơn cho sinh hoạt gia đình. Chiếc giếng khơi đứng chơ vơ một mình bên gốc nhãn. Tôi về thăm lại chốn xưa, đứng bên thềm soi mình xuống lòng giếng, bóng nước hiện lên bao ký ức thân thương.

Sớm mai pha trà mời cây và hoa

duc-hanh

Đổ bã trà bỗng rùng mình chảy nước mắt bởi liên tưởng đến không ít phận đời. Sau phút dâng hiến nồng nàn thì còn lại một chút này thôi. Quân tử né bước tiểu nhân đạp bừa. Ô hô. Có mấy ai biết bã trà đã nát vẫn còn thơm? Mới hiểu: Hương trà như ước mơ của loài người. Thơm và mong manh.

D ậy sớm pha trà. Bình minh chớm hé. Cây lá trong vườn còn ngái ngủ. Chỉ có tiếng chim miên man trò chuyện với hoa và gió. Rót trà mời cây và hoa. Tâm trí lửng lơ theo hương trà. Chuyện cũ lại ùa về.

Nhà xưa có một đồi chè. Gánh rạ phủ luống chè, tưới tắm chăm bón vất vả. Khi chè đến lứa phải hái trong ngày, đêm về bắc chảo gang sao bằng hai thanh tre hình mái chèo. Như thế gọi là sao suốt. Bếp lửa lúc cháy to lúc chỉ lim rim. Mặt cúi xuống chảo, mồ hôi rỏ xuống than hồng rực. Không biết số giọt mồ hôi tuôn xuống và số búp chè trong chảo kia bên nào nhiều hơn? Vừa mơn mởn xanh đã khô héo dần, rồi khô cong sau vò, rũ, đảo, xoa miệt mài, một mẻ chè sao tầm 7 đến 8 tiếng mới thật sự đạt yêu cầu.

Sao vội với thời gian ngắn hơn vẫn được nhưng trà không ngon. Nhìn người sao chè biết tâm tính nóng vội hiếu thắng hay khoan hòa sâu sắc. Sao chè như làm thơ. Uống chè như thẩm thơ. Lúc trẻ trung chỉ biết Uống trà thật nhanh và chẳng mấy khi quan tâm đến Màu – Hương – Vị.

Đến tuổi trung niên chuyển từ Uống trà sang Thưởng trà. Mới ngẩng đầu nhắm mắt đưa chén trà ngang mũi mà thưởng thức hương thơm. Mới ngắm màu nước xanh pha vàng nhẹ. Rồi chậm rãi nhấp từng giọt trước chát sau ngọt hậu của trà mà xuýt xoa, mà khà từng tiếng nhỏ. Thực ra tiếng khà ấy là biến âm của tiếng kêu sung sướng khi con người hưởng lạc thú. Nhưng cũng chỉ dừng ở đó bởi thưởng trà thường trong đám bạn hữu ồn ào. Rồi say chuyện say người mà quên cả trà.

Phải ngoài 60 tuổi mới từ Thưởng trà sang Ngẫm trà. Cá biệt có người trẻ hơn nhưng sống nội tâm và từng trải thì chả cần đến tuổi 60. Ngẫm trà có bốn kén chọn: Kén bạn tri âm. Kén trà ngon. Kén chỗ ngồi lặng lẽ. Kén tâm trạng không cào cấu đua tranh hận thù. Nhóm ấy uống chậm và ít. Uống trong im lặng. Nhìn chén trà như nhìn lòng mình. Ngắm ấm trà như ngắm quãng đời đã qua. Hương trà như hương người yêu từng đến từng bay mất. Vị trà là số phận nếm trải có đắng chát mới có ngọt ngào.

Đổ bã trà bỗng rùng mình chảy nước mắt bởi liên tưởng đến không ít phận đời. Sau phút dâng hiến nồng nàn thì còn lại một chút này thôi. Quân tử né bước tiểu nhân đạp bừa. Ô hô. Có mấy ai biết bã trà đã nát vẫn còn thơm? Mới hiểu: Hương trà như ước mơ của loài người. Thơm và mong manh.
Nào, rót mời cây và hoa thêm chén nữa. Bỗng lẩn thẩn nghĩ về những lễ hội trà. Vài chục bàn tre trúc bày trên quảng trường. Trăm quý nhân khoan thai ngồi chờ đợi. Trăm trà nương xinh như tiên áo mỏng phất phơ đôi bàn tay như múa. Họ pha trà rót trà mời trà với nụ cười e ấp. Khách nâng chén uống trà ào ạt. Cảnh động Tâm động. Không gian thưởng trà như sân khấu. Dù muốn hay không người thưởng trà và trà nương buộc phải trở thành diễn viên. Vậy lúc đó hương vị của trà còn lưu giữ trên môi và trong tâm người thưởng trà được bao lâu? Uống như thế cũng không hề gì. Mỗi cách uống trà đều có giá trị và mục đích riêng khi đặt vào hoàn cảnh cụ thể.

Chợt nghĩ đến chuyện đọc và ngâm thơ trong phòng nhỏ. Chỉ trên dưới chục người nghe. Không gian nhỏ và tĩnh. Khách mời chọn lọc. So với đọc và ngâm thơ trên quảng trường hàng nghìn người thì vừa tương đồng vừa khác biệt vô cùng. Tương đồng ở chỗ vẫn là chuyện đọc thơ và nghe thơ. Nhưng thơ cổ động vang vang trên quảng trường phải dễ hiểu dễ nhớ. Người nghe có đủ mọi thành phần và trình độ. Nhiều người vốn ghét thơ, vậy mà hôm ấy nghe thơ lại thích phát cuồng. Thì ra đó là hiệu ứng lây nhiễm của tâm lí đám đông. Lúc đó thơ không hay nghe rồi cũng thấy hay. Nếu thơ hay vừa vừa sẽ trở thành kiệt tác. Vì mọi người xung quanh đều vỗ tay gào thét ngất ngây. Uống trà tập thể nơi quảng trường có lẽ cũng tương tự như thế.

Tôi cùng vài người bạn mê uống trà theo nhóm nhỏ trong tĩnh lặng. Như mê nghe quan họ mộc tại các làng cổ, nghe hát chay không cần nhạc đệm. Khi không được về ngồi trên chiếu hoa làng Diềm mà nhắm mắt lắc lư, miệng ngân nga câu huê tình ngọt thăm thẳm, thì đành chen thục mạng ra sân hội, tìm chỗ nằm thẳng cẳng mắt lim dim lắng nghe Người ơi người ở đừng về. Ấy cái việc thưởng trà tập thể nơi đông người huyên náo cũng giống như đọc thơ trên quảng trường cho ngàn người nghe. Cũng như xem và nghe quan họ trên sân khấu hiện đại. Chả có gì là xấu hay sai sót. Chỉ là có tuổi rồi, lại cổ hủ nên không thích mà thôi.
Đã đến chén trà thứ ba rồi. Nào, mời cây và hoa lần nữa.