25 C
Hanoi
Thứ Bảy, Tháng 10 18, 2025

Trong tiếng chuông chùa

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài...

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

S ớm nay ra đường, bất chợt...

Hát những giai điệu yêu thương

T huở còn thơ dại, tôi là...

Trong tiếng chuông chùa

TÁC GIẢ: NGUYỄN ÁI

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài tiếng mưa tí tách trên mái nhà, tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ, không gian vẫn còn rất im ắng, nghe rõ cả tiếng xào xạc của lá, tiếng gió lướt qua cửa nhà. “Boong…boong”, tiếng chuông chùa trầm ấm từ xa xa vọng lại. Âm thanh quen thuộc gợi về bao suy nghĩ miên man.

Nhớ ngôi nhà nhỏ ở một miền quê trù phú với hoa thơm trái ngọt bốn mùa nơi tôi lớn lên. Trong không gian xanh mát của các loại cây ăn trái, xanh tươi của các loại rau, xanh dập dờn sóng lúa là một ngôi chùa nhỏ. Cứ mỗi sáng sớm, khi tiếng chuông chùa trầm lắng ngân lên giữa không gian tĩnh mịch của màn đêm, tôi lại thức dậy, thắp chiếc đèn dầu học bài.

Chùa làng hồi đó không có sư, chỉ có một bà sãi trông coi hương đèn, lo kinh kệ, lễ lạt. Bà có một người cháu là bạn học với tôi, vì khó nuôi mà đem gởi ở chùa. Trong tiếng chuông chùa, tôi đã có những kỷ niệm ngọt ngào cùng bạn bè về một mùa thi.

Dẫu năm tháng đã phủ bụi mờ lên nhiều thứ, những ngày học cùng nhau trong tiếng chuông chùa như vẫn còn chưa bị che phủ bởi thời gian. Nhớ những ngày ôn thi năm ấy, lũ bạn cùng xóm cùng lớp rủ nhau xuống chùa ngủ lại để sáng sớm thức dậy theo tiếng chuông mà học bài. Cứ đúng ba giờ sáng, bài sãi, cô của bạn tôi mà chúng tôi cũng gọi bằng cô, lại thức dậy, mặc pháp phục, thắp nhang lên các bàn thờ, gõ những tiếng chuông đầu tiên, rồi gõ mõ tụng kinh. Bà nói, với người tu hành, tiếng chuông lời kinh đem lại sự an tịnh cho riêng mình và cầu mong sự bình an đến cho mọi người. Không biết nhờ sự thanh tịnh chốn thiền môn hay sự trợ giúp của Phật Trời mà chúng tôi đều đã vượt qua kỳ thi một cách dễ dàng. Âm thanh trầm ấm của tiếng chuông đã là một phần trong ký ức của tôi.

          Sau này, mỗi khi trong lòng có những tâm sự, những điều lo toan, tôi lại tìm đến cửa chùa dù tôi không phải là một tín đồ. Cửa chùa không hẹp hòi đã cho tôi được ghé lại và tìm một nơi chốn bình an. Trong không gian im ắng và thanh sạch của chốn tu hành, tôi thấy mình như được an ủi để lòng nghe lắng dịu hơn. Mọi muộn phiền như được rũ bỏ và tôi có thể tìm lại sự thoải mái cho tâm hồn. Trong mùi hương trầm, trong tiếng gõ mõ đều đều, trong lời kinh tiếng kệ, tôi như chìm vào những suy tư về cuộc sống. Tôi nhớ những người thân đã đi xa, tự hỏi họ đang ở đâu giữa mênh mông vũ trụ này. Họ đã đi qua cái ngắn ngủi và hữu hạn của kiếp nguời để về chốn nghỉ ngơi. Với tôi, họ như vẫn còn hiện diện dù là trong sự vô hình. Tôi từng nghĩ rằng cái chết là sự kết thúc. Tôi không tin vào sự tồn tại của cái gọi là sự sống sau cái chết cho tới lúc phải đau buồn chứng kiến những người thân ra đi. Khi mà những kỷ niệm, những yêu thương, những lời nói, việc làm, những nụ cười, ánh mắt của người thân vẫn còn nguyên trong tâm trí, làm sao để mình có thể tin được những bóng hình thân thương ấy mãi không còn nữa. Vậy nên, dẫu những hình hài đó đã nằm im dưới lòng đất lạnh, nhưng tôi tin họ vẫn đâu đây bên cạnh những người thân. Chỉ cần tim mình còn đủ yêu thương, họ sẽ ở bên trong những lúc lòng mình chông chênh nhất.

Tôi từng đọc ở đâu đó rằng, trong Phật Giáo, tiếng chuông không phải chỉ để báo hiệu giờ giấc mà nó còn đánh thức tâm linh, cho những linh hồn lầm lạc tìm về nẻo thiện mà tu hành niệm Phật. Với riêng tôi, tiếng chuông như một lời nhắc nhở về sự vô thường của cuộc sống, về sự nhiệm màu của muôn kiếp nhân sinh. Cái sống và cái chết không tách biệt mà đan xen nhau, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào dù một người còn khoẻ mạnh, còn trẻ tuổi. Bệnh tật và những tai nạn thương tâm sẽ đến theo một cách bất ngờ nhất. Khi hiểu ra những điều này, người ta có thể buông bỏ được những sân hận, hơn thua để đối đãi với nhau chân tình hơn để không phải ân hận xót xa khi âm dương cách biệt, khi mọi lời muốn nói, mọi điều muốn làm đều trở nên muộn màng. Những yêu thương chỉ còn trong tâm tưởng, không còn cơ hội để bày tỏ, sẻ chia. Đau xót khi mất đi người thân là điều không tránh khỏi, nhưng sẽ là đau đớn hơn rất nhiều khi nỗi nhớ thương đi cùng với sự ân hận, xót xa, tự trách mình.

          Người cha kính yêu của tôi đã qua đời đột ngột lúc ở gần ngay tôi. Nhiều năm đi qua, tôi không thể vượt qua được cảm giác tiếc nuối, những nhớ thương đến cháy lòng. Nếu nước mắt có thể giúp người ta quay lại thời gian, làm lại những điều đã bỏ lỡ, thì có lẽ Trái Đất này sẽ thêm biết mấy sông hồ. Có lẽ vì vậy mà tôi tìm thấy ở Phật Giáo một sự an ủi, sẻ chia đầy nhân văn. Ngày rằm tháng bảy, dịp lễ Vu Lan báo hiếu, những người còn cha còn mẹ đến chùa để cầu mong cha mẹ bình an, làm công đức để hồi hướng cho cha mẹ. Người cha mẹ đã qua đời cũng có thể làm những việc thiện để hướng về cha mẹ, cầu cho cha mẹ được siêu thoát, bình an ở thế giới bên kia. Tiếng boong boong đều đều không thúc giục, không vội vã khiến người ta như sống chậm hơn, suy tư nhiều hơn về ý nghĩa của cuộc đời. Sự sống bắt đầu từ đâu và linh hồn sẽ về đâu sau cái chết. Biết bao nhiêu là câu hỏi mà mỗi người chúng ta chưa thể tìm ra câu trả lời thoả đáng.

Âm thanh của tiếng chuông hướng con người tới sự thiện lương, để họ biết sống nhân ái hơn, biết chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh, khó khăn xung quanh. Đức Phật cho rằng đời là bể khổ, để làm người ai cũng phải trải qua những khổ đau. Có những khổ đau thuộc về quy luật như sinh, lão, bệnh, tử không ai tránh được, thì có những nỗi khổ đau đến từ bên trong mỗi người. Khi mình biết sống vì mọi người, biết hoà nhập, biết thương yêu, biết bằng lòng với những gì mình có thì cuộc đời không phải là một bể trầm luân mà là khoảng thời gian ngắn ngủi của kiếp người mình có thể cho đi để có thể vui cùng niềm vui của người khác. Chỉ bằng cách nghiêng mình để thấu hiểu với những mảnh đời bất hạnh, những số phận long đong ở xung quanh thì mỗi người mới có thể trân trọng những điều mình có được, để không phải ôm những sầu não không đáng có. Niềm vui của cuộc sống là sự sẻ chia, là trân trọng từng phút giây có được bởi nó rất có thể là giây phút cuối cùng. Cuộc đời của con người dẫu có sống đến trăm năm cũng là quá ngắn ngủi so với sự mênh mông của vũ trụ. Vậy mà những vô thường lại có thể khiến nó dừng lại bất cứ lúc nào. Một người đến với thế gian bằng tiếng khóc và hai bàn tay không. Ngày họ lìa đời cũng không có gì mang theo ngoài những tình cảm tiếc thương của những người ở lại.

          Những tiếng boong boong ấy vẫn ngày ngày ngân lên, vượt qua cánh cổng nhà chùa và vang xa vào từng ngõ ngách của phố xá, làng quê. Âm thanh trầm ấm đều đều vẫn lặng lẽ đi vào lòng người, khơi gợi những điều tốt đẹp, nhân văn nhất. Trong tâm thức của tôi, nó không đơn thuần là một nghi thức tôn giáo mà là một âm thanh của yêu thương và tỉnh thức. Tiếng chuông ấy từng là một kỷ niệm của tuổi học trò, của một miền quê yên bình, vừa nhắc nhở cho tôi nhiều điều về cuộc sống. Âm thanh ấy, cùng với bao thanh âm khác của cuộc sống đã neo giữ cho mỗi chúng ta một tình yêu cuộc sống, thêm trân quý từng phút giây của cuộc đời.

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

MAI LINH LAN

S ớm nay ra đường, bất chợt thấy gió heo may chạm nhẹ trên tóc, lay khẽ vạt áo. Tôi ngước nhìn bầu trời trong veo như lời ru cũ của bà thuở nào. Thu se sẽ về như thế. Những dịu dàng, mỏng mảnh, mát lành cứ chầm chậm len lỏi vào từng nhịp thở của đất trời. Tôi yêu mùa thu, yêu cả những trái hồng căng mọng, đỏ au, chín rộ vào những ngày trời hanh hao như thế. Bởi có những mùa thu trở về trong ký ức tôi chỉ bằng một màu duy nhất: Màu đỏ lựng của trái hồng chín trong vườn bà.

          Mỗi mùa thu, tôi lại hạnh phúc “nếm” những giấc mơ ngọt ngào trong từng trái hồng. Hồng da tre, đặc sản của mùa thu xứ Trà quê tôi có vỏ xanh mỏng như tơ, mịn như má em bé. Chỉ cần chạm nhẹ đã nghe mùi thơm dìu dịu. Thức quà quý tộc này để tủ lạnh, dùng thìa xúc ăn mát lịm như thạch, vị ngon không giống bất cứ loại hồng nào. Tôi cũng thích hồng đỏ mềm mỗi lần cắn một miếng là vị ngọt tan ngay đầu lưỡi, như dòng sữa mát dịu của đất trời thấm vào tận tim. Hồng giòn lại như tiếng thu gõ cửa, tí tách trong lòng, ăn đến đâu, tôi sảng khoái nghe âm thanh rắc rắc, giòn tan tới đó. Cuối thu, tôi lại mê mẩn hồng sấy: Hương thơm nồng, vị đậm đà, mềm mại.

Những buổi bên hiên nhà xưa cũ, nằm yên trên đùi bà, tôi mơ màng trong giấc trưa. Gió lùa qua kẽ lá. Hồng chín đỏ góc vườn. Lời bà chậm rãi: Các cụ bao đời nay lưu truyền câu nói: “Mùa thu ăn một trái hồng. Một quả hồng bằng mười vị thuốc”. Lời bà như rót mật vào tuổi thơ tôi.
Khu vườn nhà ngày ấy như một miền cổ tích ngọt ngào ru những giấc mơ thơ bé của tôi. Mảnh vườn trước sân dưới bàn tay tảo tần của bà, của mẹ, bốn mùa xanh tươi các loại rau, cây trái. Trong đó, tôi đặc biệt yêu thích cây hồng lặng lẽ nơi góc vườn.

Nơi miền nhớ trong veo, tôi thấy một cô bé lên mười, đang cuộn mình trong tấm chăn mỏng, bỗng bị đánh thức không phải bởi tiếng gà gáy mà bởi một thứ ánh sáng diệu kỳ. Những tia nắng mật ong của sớm mùa thu dường như được lọc qua một tấm voan màu đỏ cam rực rỡ. Tôi dụi mắt, bật dậy nhìn ngoài ô cửa sổ, trên nền trời trong vắt như ngọc, cây hồng trước sân đã bừng tỉnh. Hàng trăm quả hồng chín mọng đang đung đưa tựa như một lễ hội đèn lồng nhỏ được ai đó thắp lên dành riêng cho tôi. Khoảnh khắc ấy, lồng ngực tôi như có hàng trăm quả hồng chín cùng lúc vỡ òa ra. Tôi reo lên: “Bà ơi, hồng chín rồi!”.

          Và cứ thế, tôi lao ra khỏi giường, đôi chân trần trên nền gạch đỏ, chạy ào đi tìm bà như một ngọn gió nhỏ, háo hức muốn chia sẻ phát hiện vĩ đại của mình.Bà đang ở dưới bếp, lúi húi bên nồi bánh sắn bốc khói nghi ngút. Mùi thơm ngọt bùi của sắn quyện vào không gian. Nghe tiếng tôi, bà quay lại, tay vẫn còn vương chút bột trắng, đôi mắt ánh lên nụ cười hiền từ. Bà biết cháu gái bà đang mong chờ điều gì. Thong thả, bà rửa tay, bước chậm ra vườn. Tôi tung tăng chạy sau, cắp chiếc rổ tre lắc nhẹ bên hông như gõ nhịp theo niềm vui thơ trẻ. Miệng tôi thì không ngừng ríu rít về những “chiếc đèn lồng” ngoài vườn.

Cây hồng rung rinh trong nắng sớm như chào đón. Tôi đứng ngây người dưới tán lá đã ngả màu vàng úa, ngước nhìn lên. Cây hồng này, tôi biết nó còn lớn tuổi hơn cả chị em tôi. Thân cây xù xì, mốc thếch, hằn lên những dấu vết của bao mùa mưa nắng. Lòng tôi nhảy múa khi thấy từ thân cây già cỗi ấy, từng cành lá lại vươn ra kiêu hãnh, treo lủng lẳng trên đó là cơ man nào là quả. Hồng chín sau bao ngày nắng gió, âm thầm chắt chiu đủ nồng nàn của đất trời. Như lời hứa ngọt lành giữa mùa hanh hao.

          Tôi say sưa ngắm bà diện chiếc áo bà ba màu bã trầu, mái tóc trắng phơ phất, khuôn mặt hiền hậu, mà cứ tưởng tượng đó là bà tiên giữa đời thường. Đôi bàn tay gầy guộc của bà nhẹ nhàng, dứt khoát hái từng quả hồng chín mọng, đặt vào rổ. Chỉ đến khi bà nói: “Năm nay hồng sai và quả to hơn nhiều so với năm trước”, giọng đều đều, ấm áp yêu thương như tiếng thu, tôi mới bừng tỉnh. Tôi bê rổ hồng trên tay, cẩn thận như đang ôm một báu vật. Tôi được bà hướng dẫn rửa sạch và dâng lên thắp hương tổ tiên.

          Những ngày thu êm đềm, trong tiết trời lành lạnh những năm ấy, lòng tôi hân hoan đón chờ khoảnh khắc bà chậm rãi lấy quả hồng chín đỏ, mềm mịn như da em bé bảo cháu ăn đi.
Và bà kể chuyện cho tôi nghe về sự tích cây hồng vườn nhà. Cây hồng đã gấp hai tuổi tôi. Nó không phải giống hồng thường mà là một kỷ vật, một lời hẹn ước. Người tặng nó là ông Điểm – bạn chiến đấu vào sinh ra tử với ông nội tôi trên mặt trận biên giới phía Bắc. Giữa lằn ranh sinh tử nơi chiến trường, giữa cái lạnh cắt da của núi rừng, hai người lính trẻ đã hứa với nhau, ngày đất nước yên bình, họ sẽ về thăm nhau, mang theo sản vật quý nhất của quê hương mình làm quà. Nhưng đó mãi mãi là lời hứa.

Ông nội tôi đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường lạnh lẽo. Vài năm sau ngày hòa bình, ông Điểm lặn lội từ Lạng Sơn, tìm về tận nhà tôi. Ông không mang theo gì cao sang, chỉ có một cây hồng giống nhỏ xíu, bọc trong lớp vải dù cũ. Ông nói, đây là giống hồng ngon nhất xứ ông, ông mang về để trồng trong vườn nhà bạn, coi như người bạn già của ông vẫn còn đây, vẫn thấy mùa thu quê nhà kết trái ngọt.

          Bà tôi đã nhận lấy cây giống như nhận lấy một phần sinh mệnh của người đã khuất. Bà cùng bố tôi tự tay đào đất, vun trồng cây hồng nhỏ bé ấy ở góc vườn. Cây hồng mang theo tình đồng đội thiêng liêng và sức sống mãnh liệt của núi đá, cứ thế bám rễ sâu vào lòng đất mẹ, chẳng cần chăm bón cầu kỳ. Cũng chẳng ngại nắng mưa, sương giá. Nó cứ vùn vụt lớn lên, sẵn sàng đơm hoa kết trái như thể đáp lại tình người gửi tặng.

          Cây hồng không những trở thành biểu tượng của tình đồng đội mà còn giúp gia đình tôi có bao mùa thu hạnh phúc, ngọt ngào. Sau ba mùa thu về nhà tôi, cây hồng đã cho quả và càng những năm về sau, quả càng sai trĩu, to mọng, ngọt hơn. Cũng nhờ cây hồng, gia đình tôi có thêm chút thu nhập vào mỗi vụ thu. Mọi người trong làng đều xuýt xoa: “Chưa thấy ai trồng được giống hồng vừa đỏ, vừa mềm, lại ngọt lịm như thế!”

          Ngồi bên bà, nghe bà kể chuyện, tay bóc vỏ từng quả hồng ăn, cảm nhận vị ngọt mát thấm vào đầu lưỡi, lòng tôi ấm áp lạ thường. Trong tâm hồn non nớt, tôi cảm nhận những trái hồng đỏ chính là món quà hạnh phúc mà bà dành cho tôi. Mỗi lần ăn miếng hồng mềm, ngọt, mát dịu mà bà đưa cho, tôi đều ngập tràn vui sướng, cứ hít hà mãi vị ngọt của món quà kỳ diệu.

Lứa hồng lộc đầu vụ, bà chọn phần đẹp nhất để thắp hương và biếu họ hàng. Những lần sau, bà xếp hồng quẩy gánh mang ra chợ bán. Tôi lũn cũn theo sau bà, phụng phịu: “Cháu ăn hồng cả cây không chán, cháu không muốn bán bà ạ!”. Bà nhanh nhẹn gồng gánh hai thúng hồng trên con đường nhỏ men giữa cánh đồng lúa chín vàng, không quên ngoảnh lại dỗ dành tôi: “Út ngoan, hồng nhà mình ngon lắm, phải chia sẻ cho nhiều người được thưởng thức nữa. Và nhất là, bán hồng để lấy tiền đong gạo về cho Út ăn cơm trắng và mua sách vở đi học chứ”.

Trên đường đi, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp người quen: “Hồng nhà bà năm nay lại được mùa, quả nào quả nấy đỏ au, nhìn đã thấy ngọt rồi!”. Bà mỉm cười, nụ cười mộc mạc và mãn nguyện. Tôi đi bên cạnh, lòng chợt thấy hãnh diện lạ kỳ.

Thời gian trôi qua thật nhanh, mang theo những kỷ niệm yêu thương về người bà đã khuất. Tôi lớn lên, rời xa quê nhà, đi học, đi làm, cuốn vào những vòng quay của cuộc sống hiện đại. Thỉnh thoảng, mẹ vẫn gửi lên cho tôi một thùng hồng nhỏ. Vị hồng vẫn ngọt như xưa, nhưng phảng phất một nỗi nhớ nhung da diết.

Bây giờ, mỗi lần trở về nhà, đi ngang qua vườn, tôi lại ngẩn người nhìn cây hồng cũ. Nó đã già đi nhiều, lá thưa hơn, cành cũng sần sùi, mốc thếch hơn xưa, nhiều cành đã khô mục. Nhưng thật kỳ diệu, cứ mỗi độ thu về, những quả hồng vẫn rực lên một màu đỏ ấm. Như thể có một nguồn sống mãnh liệt vẫn chảy trong thân cây già cỗi. Như có bàn tay ấm áp của bà vẫn lặng lẽ mỗi ngày vun trồng và chăm chút. Và như thể tình đồng đội của ông vẫn âm thầm chảy trong từng thớ gỗ, để nhắc nhở về một lời hứa không bao giờ phai.

Đứng thật lâu dưới tán hồng, như đứng giữa một khoảng trời cũ, tôi vẫn nghe đâu đây tiếng bà thủ thỉ kể chuyện, thấy nụ cười hiền và cả những ngày thơ bé dịu dàng như gió. Với tôi, quả hồng không chỉ là một thức quà quê. Nó là quả của thương yêu. Là ngọn lửa âm thầm cháy mãi trong khu vườn thân thương.

          Bất giác, tôi cầm trái hồng, cảm nhận sức nặng ngọt ngào trong bàn tay và mỉm cười mơ màng áp lên má. Tôi biết, có một trái hồng chín đỏ, như ngọn đèn lồng nhỏ không bao giờ tắt, vẫn luôn được bà thắp lên từ những mùa thu năm ấy, soi sáng cho tôi con đường ấm áp đi suốt cuộc đời. Để mỗi khi lạc bước giữa phố thị ngược xuôi, tôi vẫn tìm thấy lối về khu vườn thơm ngọt, rực đỏ ngày xưa…

Hát những giai điệu yêu thương

T huở còn thơ dại, tôi là đứa trẻ rất thích hát, hát một cách đầy bản năng. Những khúc ca không đầu không cuối, đôi khi chẳng rõ lời, cứ thế theo tôi trên từng bước chân, từng buổi chiều và bất cứ ở nơi đâu tôi cũng có thể hát. Hát những giai điệu yêu thương.

      Lên bốn tuổi thì tôi rời xa vòng tay bố mẹ, về quê Hải Phòng sống cùng ông bà nội và chú út trong những năm tháng tuổi thơ. Tôi không biết âm nhạc là gì, nhưng mỗi lần cất giọng, lòng tôi như dịu lại. Mọi nỗi buồn non nớt tựa cánh diều rơi dường như chợt tan đi trong một nốt ngân. Phải chăng âm nhạc còn là niềm an ủi, vỗ về, nuôi dưỡng tâm hồn cho con người.

      Khi đó, tôi còn quá nhỏ để hiểu hết nỗi thiếu vắng, nhưng có thể cảm nhận được một khoảng trống âm thầm đang mở ra trong lòng như cánh đồng mùa gặt vừa xong, rộng và trơ trọi. Với tôi, tiếng hát khi ấy không phải để hay, mà là cách duy nhất để tôi có thể ôm lấy chính mình trong một thế giới rất rộng và lạ, giữa những tháng ngày thiếu vắng vòng tay bố mẹ.

      Ban ngày, ông bà ra đồng sớm, chú út đi học xa. Ngôi nhà ba gian im lìm, chỉ còn tôi lặng lẽ một mình. Tiếng hát của tôi cho dù non nớt, nhưng đã trở thành người bạn vô hình, nắm tay tôi qua những chiều đơn độc, những sáng mong ngóng bước chân ông bà trở về từ đồng xa.
Có những buổi trưa lặng gió, tôi ngồi ở bậu cửa, chống tay vào cằm, mắt nhìn xa xăm qua vạt nắng nghiêng, và hát. Rồi có những buổi chiều nắng vỡ tung trên thềm gạch, tôi thả mắt ra khoảng trời nhàn nhạt phía trước, nơi đàn chim sẻ nhỏ vừa sà xuống rồi vụt bay đi. Khi ấy, không biết làm gì hơn, tôi lại cất tiếng hát. Âm thanh nhỏ nhoi ấy vang lên trong khoảng trống vắng của ngôi nhà, nhẹ như hơi thở, nhưng đủ để tôi cảm thấy không còn lẻ loi nữa.

      Chú út dường như thấu hiểu niềm yêu thích âm nhạc nên đã dạy tôi những bài hát, chú còn dạy tôi chơi đàn. Tôi rất nhớ và thuộc làu một bài hát. Lần đầu tiên tôi hát được trọn vẹn cũng như giai điệu một bài, “Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh”.

      Có lúc, tôi vừa đi vừa hát giữa con đường quê thênh thang, cánh đồng lúa vàng hoe nắng cháy. Tiếng hát vang lên xua đi cái nắng rát bỏng trên da. Đó là tiếng hát của tuổi thơ, của những buổi trưa rong chơi cháy bỏng, của những cảm xúc nguyên sơ và cả những nông nổi đầu đời nhưng rực rỡ như bao mùa phượng đỏ.

     Lớn lên, tôi vẫn giữ thói quen hát như một phần tất yếu của đời sống. Dù là khi đứng bên bếp lửa đang reo, tay đảo nồi cơm sôi, hay cả lúc khom người cho lợn ăn mỗi chiều. Đến khi lập gia đình, tôi mới thật sự thấm thía một điều tưởng như đơn giản ấy. Âm nhạc và lời ca không chỉ để vui, để yêu, mà còn để chữa lành. Nó là thứ thuốc vô hình, xoa dịu những vết xước và những tổn thương trong tâm hồn của con người. Âm nhạc với tôi như hơi thở vậy, có những ngày mệt mỏi, tôi chỉ cần nghe một bài hát cũ. Câu hát ngân lên, như thể ai đó vừa nhắc tôi rằng: “Mọi chuyện rồi sẽ qua.”Một người cha ru con ngủ bằng tiếng hát khe khẽ. Một người con gái thẫn thờ hát giữa đồng vắng. Một cụ già vừa tưới rau vừa ngân nga câu vọng cổ. Có lẽ ai trong chúng ta cũng từng hát, không phải để ai nghe, mà để lòng mình bớt cô đơn.

      Tôi đã chứng kiến điều ấy từ bố vợ tôi, người đàn ông cao lớn, điềm đạm, cả đời làm khoa học và sống bằng lý trí, nhưng lại có một tâm hồn nghệ sĩ ẩn trong những câu hát dịu dàng. Bố vợ tôi không may bị bệnh bạch cầu ở tuổi xế chiều trong lúc vẫn còn đang làm việc trong viện nghiên cứu khoa học. Từng ngày một bệnh tật lấy đi sức lực của bố, nhưng tôi thấy rõ gương mặt và sự can đảm, dù hơi thở đã mỏng như khói sương, ánh mắt đã mờ dần theo từng đợt thuốc truyền, nhưng ông vẫn luôn nở nụ cười và khe khẽ cất tiếng hát khi một mình.

      Rồi bố tôi sang Đức, lúc đó bệnh tình trở nên nghiệt ngã hơn. Căn bệnh máu trắng, cái tên nghe lạnh buốt, không bao giờ hứa hẹn, vẫn không thể khuất phục được bố. Hai năm sống cùng gia đình nhỏ của tôi, bố vẫn giữ cho mình thói quen dậy sớm, mở radio, nghe nhạc và hát khe khẽ. Sau đó bố tôi vẫn làm việc. Ngoài tiếp tục nghiên cứu công trình khoa học, bố còn ra đề thi cho trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội.

      Những sớm mùa đông, khi tôi ngồi trong bếp nấu nước, thường nghe thấy giọng bố tôi ngân lên theo một bản nhạc tiếng Anh xưa cũ. Giọng bố run run, đôi lúc đứt quãng, như thể từng nốt nhạc cũng đang chống chọi với sự đau đớn và cái chết. Nhưng với tôi, mỗi câu hát ấy như một lời thì thầm: “Bố tôi sống… thêm được một ngày nữa…”

      Mỗi khi tôi vào phòng tôi lại nghe được tiếng hát của bố, giọng hát mong manh như sợi tơ trời. Bố không bao giờ than thở, không muốn ai nhìn thấy sự yếu đuối của mình. Mệt đến mấy, bố vẫn gượng dậy âm thầm nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa, như thể ông vẫn còn nguyên vẹn sức lực của một người khỏe mạnh. Một buổi chiều, tôi đi làm về và bắt gặp bố đang giặt áo cho tôi dưới vòi nước lạnh, đôi bàn tay gầy guộc tím tái trong làn nước. Bố vợ tôi vừa giặt vừa hát. Tôi chạy đến, nghẹn ngào:- Bố à… bố đừng làm nữa, bố rất mệt rồi..! Tôi thấy mình ứa nước mắt từ lúc nào mà không biết. Đáp lại lời tôi bố nói. ”Tớ thích làm cho cậu, cậu yên tâm nhé!”

      Bố vợ tôi dù bệnh nặng, nhưng những ngày cuối đời vẫn miệt mài bên trang giấy, những đề thi tiếng Anh vẫn cặm cụi ngồi soạn, những sổ tay nghiên cứu gạch ghi chi chít. Bố vẫn cất lời ca theo những bài hát ở Radio. Bố vợ tôi sống như chưa từng biết đến giới hạn của sự sống. Cống hiến như thể thời gian vẫn còn rất dài, dù từng khoảnh khắc đã tính bằng giờ, bằng phút.

      Ngày bố vợ tôi mất, thế giới như chùng xuống, lặng đi một nhịp. Không còn tiếng nói cười thường nhật, trong tôi chỉ còn sự im lặng đặc quánh, như làn sương đọng lại trên mi mắt, khiến lòng không thôi thổn thức. Bố ra đi nhẹ như chiếc lá rời cành khi mùa thu khép lại sau một đời xanh mướt, hiền lành, và trọn vẹn.

      Bố tôi không phải là người thích nói nhiều về bản thân. Nhưng ông để lại một di sản không dễ gì phai mờ, một đời cống hiến cho khoa học, cho đất nước, cho những lớp học trò chưa một lần chạm tay mà vẫn kính phục. Tiến sĩ Trần Hợp Thanh, không chỉ là một nhà khoa học tận tụy, mà còn là một người cha, một người thầy, một người đàn ông biết sống bằng trái tim và bằng tiếng hát.

      Tiếng hát của bố vợ tôi không phải là bản nhạc cầu kỳ, mà là những câu hát mộc mạc, nhỏ nhẹ cất lên giữa gian bếp sớm, giữa sân nhà chiều gió, và trong căn phòng lạnh giữa những ngày bệnh tật. Mỗi câu ca ông cất lên như một giọt sương rơi vào lòng đất nứt nẻ, khiến tâm hồn người bên cạnh trở nên dịu lại, ấm áp.

      Âm nhạc không thay đổi được số phận, nhưng nó làm cho số phận ấy trở nên đáng sống hơn, âm nhạc là cây cầu bắc qua những khoảng lặng, là nhịp thở nối giữa người với người. Tôi hát như thể chạm tay vào tuổi thơ xa ngái, nơi mái ngói rêu phong của ngôi nhà ông bà nội, nơi trái tim non nớt của một đứa trẻ bốn tuổi đã biết thế nào là nỗi nhớ mẹ cha. Tôi hát để nhớ một người cha vợ đáng kính, người từng dạy tôi rằng: sống là phải biết rung động, ngay cả trong khổ đau. Tôi hát để nhớ đến chú út, người dạy tôi từng nốt nhạc đầu tiên.

      Tôi hát không phải vì mình hát hay, mà vì trong từng giai điệu, tôi thấy lại chính mình, mềm mại, biết ơn, còn đủ yêu thương để sống tiếp giữa một cuộc đời nhiều mất mát. Hát để biết rằng lòng mình chưa khô cạn. Hát để cảm ơn cuộc đời, dù đôi khi thật mỏi mệt, vẫn còn đẹp, vẫn còn đáng để yêu thêm lần nữa…

      Mai này con tôi lớn lên, tôi chẳng mong con phải hát hay, càng không mong con được nổi tiếng. Tôi chỉ mong, khi buồn, mỏi mệt, hay thấy lòng chùng xuống giữa những tháng năm bấp bênh… con vẫn còn có thể hát. Một câu thôi cũng được…Để thấy lòng mình dịu lại. Để thấy đời vẫn đáng sống. Để nhớ rằng, trong mỗi người chúng ta, luôn có một bài hát cất lên từ nơi sâu thẳm nhất của yêu thương.

CÙNG MỘT TÁC GIẢ

Đời nến

K

ý ức con người là một thứ vô cùng đặc biệt. Nó có thể được khơi dậy và tái hiện ở bất cứ thời điểm nào bởi cả năm giác quan: nghe, ngửi, nếm, sờ, nhìn. Một giọng nói, âm thanh quen thuộc. Một mùi hương quen thuộc. Một mùi vị quen thuộc. Một cảm giác quen thuộc hoặc có thể là một hình ảnh quen thuộc cũng đủ để gợi nhắc và gọi về cả một bầu trời ký ức. Và cũng bởi vì thế, khi ta còn sống, ký ức vẫn sẽ luôn tồn tại.

     Một buổi sáng cuối Xuân, khi tiết trời vẫn còn vương vấn chút ẩm ướt và se lạnh còn sót lại, tôi ngồi bên ấm trà, đọc dở cuốn sách có tên Những Ngọn Nến Cháy Tàn của Márai Sándor. Và thật kỳ lạ làm sao, vào lúc ấy, tôi đã tưởng tượng ra xung quanh mình hình như có mùi nến cháy.

     Tất nhiên nó không phải là mùi nến thơm mà bây giờ người ta vẫn hay sử dụng. Đó là một thứ mùi khen khét, nồng nồng rất khó diễn tả của những cây nến thường có hai màu trắng và đỏ mà chúng tôi đã từng dùng rất nhiều khoảng hơn chục năm trở về trước.

     Mùi hương thoang thoảng ấy đã dẫn dắt ký ức của tôi trở về với những buổi tối tuổi thơ ngồi dưới ánh nến. Ấy là những năm đèn đường còn thưa thớt, hệ thống điện chập chờn, khu phố nhà tôi thường xuyên bị mất điện vì quá tải. Ngày ấy, không có nhiều nhà cao tầng và tất nhiên các hộ gia đình cũng không cổng kín tường cao như bây giờ. Chỉ cần mất điện, ngay lập tức có thể sẽ nghe thấy rất nhiều giọng nói vang lên cùng lúc: “Ơ, mất điện rồi à!”; “Chán thật, vừa mới cắm được nồi cơm”; “Thế là hôm nay không được xem phim rồi” cùng với những tiếng thở dài chậc lưỡi… Và rồi chỉ vài phút sau: bóng tối dần xua tan bởi ánh nến. Hồi ấy, rất ít những gia đình có máy phát điện. Chúng tôi khi ấy nhà ai cũng phải dự trữ sẵn một vài cây nến trong nhà dùng để thắp vào mỗi dịp như thế này và cứ mỗi lần như vậy, cả dãy phố nhà tôi giống như một bức tranh sống động lung linh hiện lên trong ánh nến.

     Ngọn nến soi tỏ, hắt lên tường những hình thù ngộ nghĩnh mà lũ trẻ chúng tôi thường cùng nhau đùa nghịch. Mấy anh chị em cùng thi nhau trỏ lên tường, đứa thì khoe mình đang tạo bóng con thỏ, đứa lại nói mình đang tạo bóng hình con chim, con chó … Lúc ấy tôi còn nghịch dại, tranh thủ vân vê những giọt sáp nến nóng chảy chưa kịp đông lại để nặn thành đủ thứ hình dạng mặc cho hơi nóng bỏng rát cả tay. Tuổi thơ tôi cứ như thế, lần lượt được hiện ra sắc nét dưới ánh nến trong mùi nến cháy thân thuộc.

     Gia đình tôi nấu cơm bằng thứ ánh sáng mờ mờ ấy, quây quần ăn cơm cùng nhau cũng dưới ánh lửa yếu ớt bao trùm. Hồi bé, có lẽ đứa trẻ nào cũng sợ mất điện vì sợ tối, sợ sẽ không được xem những chương trình ti vi yêu thích nhưng thực ra khi lớn lên rồi, nhiều khi nghĩ lại chỉ thèm muốn một cảm giác ấm áp và quây quần như thế. Dưới ánh nến, bữa cơm còn chả nhìn rõ món gì với món gì mà vẫn ăn vội ăn vàng, vui vẻ. Dưới ánh nến, người ta chẳng còn mỗi người một công việc như ngày thường, chỉ tập trung cùng nhau ngồi trò chuyện rôm rả để giết thời gian chờ đến khi có điện. Hàng xóm quây quần, anh em ríu rít.

     Mỗi một dịp đến Tết Trung Thu, trẻ con chúng tôi đứa thì xách theo đèn lồng tự chế từ các hộp xà phòng, giấy bìa, lon nước, đứa có điều kiện hơn thì được bố mẹ mua cho đèn ông sao, con cá. Nhưng hầu như các loại đèn ấy đều thắp sáng bằng lửa nến, và là loại nến cây truyền thống chứ không giống như những thứ đồ chơi rực rỡ ánh đèn như bây giờ. Nhiều năm trôi đi, những ánh nến cứ tưới tắm lên tuổi thơ của chúng tôi những ngọn đèn kì diệu và huyền ảo dưới vầng trăng cổ tích để rồi cho đến tận bây giờ, ánh đèn ấy thi thoảng vẫn xuất hiện trong giấc mơ của những chàng trai, cô gái đã lớn khôn.

     Chúng tôi cứ thế lớn dần lên, những ánh nến ngày đó cũng dần dần được thay thế bằng ánh đèn hoặc các loại nến thơm, nến cốc khác. Tuổi thơ chúng tôi cũng lùi xa từ lâu cùng với những điều đã trở thành quá vãng. Đời nến cũng giống như đời người. Kể từ thời khắc được thắp sáng, ánh nến chứa đựng cả những hào quang rực rỡ xen lẫn giữa những tiếc nuối bi ai của sự lụi tàn ngắn ngủi. Khi ngồi trước ánh nến, với tuổi trẻ là niềm thích thú hiếu kì trước ánh lửa bập bùng như đang nhảy nhót đùa vui, với tuổi trưởng thành lại là sự chững chạc tĩnh lặng, quan sát một cây nến còn đang cháy dở mà cứ ngỡ như đang được chứng kiến, thấu tỏ cả một cuộc đời.

     Ngồi trong một căn phòng trước ánh nến, có đôi lúc tôi bỗng giật mình thảng thốt, chợt nhận ra, những cây nến của ông, của bà, của bác tôi đều đã lụi tàn và cháy hết. Thay vào đó, trên bầu trời lại xuất hiện thêm một vài ngôi sao mới. Tôi lặng nhìn những cây nến còn lại đang cháy dở với đủ kích thước dài ngắn khác nhau, có lẽ, chúng đều đã và đang cháy hết mình cho một cuộc hành trình ý nghĩa. Những cuộc hành trình đầy đủ thăng trầm…

Những ánh trăng quê

N hìn ánh trăng chảy tràn trrên khắp đường làng ngõ xóm, tôi bần thần tự hỏi, trăng có tự bao giờ, trăng có trước hay loài người có trước. Trăng từ ngày đã đi vào thơ ca nhạc họa, đi vào đời sống của người làng quê chúng tôi.

     Ông bà cụ kỵ tôi sinh ra đã có ánh trăng rồi. Tôi lớn lên đã có trăng đi vào trong lời ru ngọt ngào của bà của mẹ. Trăng đã ở trong truyện cổ tích, đưa tôi vào những giấc mơ kỳ diệu.Tự ngàn xưa trăng đã là bầu bạn của loài người, hay ít ra cũng là nơi quê hương yên lành của làng quê tôi.

Có những hôm trăng tròn như cái mâm bằng bạc nhô lên khỏi dãy núi đàng đông. Trăng nhô lên khỏi ngọn tre, đúng trong nhà nhìn ra cứ tưởng những ngọn tre cong như chiếc cần câu đang treo cái đèn lồng rực rỡ. Ánh trăng ngời ngời rải một màu vàng lên trên nền trời bắt đầu sẫm lại. Một thứ ánh sáng huyền diệu thả xuống làng quê đang chuẩn bị bữa cơm chiều muộn.

     Mẹ dọn cơm ra sân, ánh trăng thay ánh đèn dầu rọi sáng khắp sân nhà. Cả nhà quây quần bêm mâm cơm, bao nhiêu chuyện trong ngày các con đua nhau kể, bữa ăn mới thú vị làm sao. Trăng trung tuần vời vợi, ăn cơm xong anh em chúng tôi kê chiếc chõng tre ra sân nằm ngữa nhìn trăng. Hình cây đa chú Cuội rõ mồn một. Bài hát đồng dao “ Chú Cuội nằm gốc cây đa, bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời, tối về cha đánh ba roi, đánh xong rồi lại bắt ngồi trông trâu.”. Mấy đứa lại xuýt xoa thương cho chú cuội, quanh năm suốt đời không được học hành vui chơi mà chỉ quanh quẩn bên gốc cây đa chỉ có chị Hằng làm bầu bạn.

     Ngày mùa ở nông thôn trăng là bạn bè thân thiết. Cơm tối xong cha rủ lúa bông ra sân để trục. Chúng tôi tha hồ chạy nhảy lên sân lúa đang nguyên hạt, tiếng hạt lúa rụng sào sạo dưới những đôi chân trần nhỏ bé. Ánh trăng theo vòng quay cót két của cái trục đá làm cho ánh sáng loang loáng như những tia chớp hắt ngược lên bầu trời cao tít đầy sao. Đêm trăng sáng đội sản xuất tổ chức sinh hoạt, mọi người ngồi dưới ánh trăng, bên ấm nước chè xanh điếu thuốc lào thi nhau nhả khói.

     Trung thu không những là niềm háo hức đợi chờ của bọn trẻ mà còn là niềm vui của người lớn. Cha tôi ngồi tỉ mẩn tì mần trau chuốt từng cái nan tre. Mẹ đi chợ mua mấy tờ giấy màu. Cha cắt dán cho tôi cái đèn lông xinh xinh. Trung thu ánh trăng sáng vằng vặc, bọn trẻ con tập trung rước đèn lồng vòng quanh đường làng ngõ xóm. Tiếng trống ếch vang vang, ánh trăng rung rinh theo nhịp chân nhịp nhàng của trẻ nhỏ. Trăng đồng hành cùng bọn trẻ chúng tôi, soi rõ từng bước chân nhỏ xinh xinh. Sau khi phá cỗ vui chơi thỏa thích ở đình làng, trăng ân cần theo chân từng đứa trẻ vào đến tận ngõ.

     Mẹ quảy đôi gánh đi nhổ mạ đêm, tiếng giũ đất soàn soạt, hạt đất rải tung tóe lên nón đội đầu làm cho ánh trăng tan ra từng mảnh nhỏ. Hạt đất nhỏ bắn tung tóe làm cho ánh trăng vỡ vụn nhuộm ánh trăng như có ngàn ngàn mảnh sao băng lấp lánh. Ban ngày nắng nóng, các bà các chụ rủ nhau đi cấy ban đêm. Tiếng cắm mạ xuống mặt ruộng nghe lách tách hòa lẫn với tiếng ếch nhái râm ran tạo nên một âm thanh huyền bí. Ánh trăng vỡ loang ra trên mặt ruộng tạo thành những con sóng vàng nho nhỏ chạy vào xung quanh bờ. Đêm khuya thanh vắng ánh trăng tự mình tan chảy thành dòng xuống đường làng. Ánh trăng tràn trề như dòng ánh sáng chảy mãi chảy mãi vào cuối tận đường làng xa tít. Dưới tán lá cây ánh trăng len lỏi thả xuống đường từng vũng sáng trông như những bông hoa to bằng bạc. Cơn gió thoảnh qua lá cây ánh trăng lay động làm các bông hoa vỡ ra chảy lênh loang trên mặt đất.

     Có những đêm mùa đông, ánh trăng như đông cứng lại trên các cành cây ngọn cỏ. Trời lạnh vạn vật dường như cũng lười vận động, tôi tưởng như đưa tay ra là có thể vốc được từng nắm ánh sáng bỏ vào trong túi áo. Đêm càng về khuya ánh trăng càng sáng. Bờ cây bụi cỏ ban ngày trông bình thường, đêm qua ánh trăng chỗ sáng chỗ tối tạo nên những hình thù kì dị. Gió lay động làm cho chúng nhảy múa, đàn chó trong làng thấy lạ thi nhau sủa trong rấm rẳn. Những đêm như vậy mẹ tôi bảo, đó là tiếng chó cắn ma làm cho chúng tôi rúc đầu vào tấm chăn mà không dám thò đầu ra. Bao nhiêu là chuyện kể về trăng, chúng tôi nghe đi nghe lại đến thuộc làu.

     Đêm trăng sáng, tôi theo mẹ đi gánh nước đêm. Tay cầm cái gàu múc nước bằng mo cau, mắt nhìn lên trời thấy trăng đang bước theo mình từng bước. Ra đến giếng làng ngó xuống, tôi thấy trăng mằm tận dáy giếng tự khi nào. Chiếc gàu nhẹ nhàng thả xuống, ánh trăng tan ra hàng ngàn mảnh lay động theo sóng nước, cái giếng bỗng sáng lấp lóa giống như một giếng vàng ai đã nung chảy. Ánh trăng sóng sánh theo đôi thùng nước nhún nhẩy về nhà. Những giọt nước văng ra mang theo ánh trăng rơi xuống đất hòa lẫn với muôn vàn ánh sáng đang rờ rỡ dưới đôi bàn chân thoăn thoắt của mẹ. Có nhiều đêm mặt trăng bị khuất, mẹ bảo, mặt trăng bị “Trai ăn”. Chúng tôi không biết “Trai” là gì nhưng giận Trai và thương trăng vô cùng.

     Trăng đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của người dân quê tôi. Các cụ cao niên trông trăng để doán biết thời tiết, “ Trăng quầng thị hạn, trăng tán thì mưa.”. Mẹ tôi trông trăng theo tục ngữ ông cha truyền lại, canh thời gian để dàn xếp công việc. “ mồng một lưỡi trai, mồng hai lá lúa, mồng ba câu liêm…” cứ như vậy cũng đủ biết trăng gần gũi thân thương đến mức nào rồi.

     Trăng khuyết lại tròn. Cái quy luật của thiên nhiên nhưng gieo vào lòng người một niềm tin hy vọng. Con người ta trong cuộc sống có nhiều lúc gặp khó khăn nhưng luôn tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng, cũng như ánh trăng tròn rồi lại khuyết. Con người bầu bạn cùng trăng, nhưng có lẽ mặt trăng cũng rất quyến luyến loài người. Có những ngày đầu tháng mặt trời đã lên cao nhưng mặt trăng cũng chần chừ không chịu lặn. Mặt trời đàng đông, mặt trăng lơ lửng đàng tây như đang luyến tiếc một hành trình dang dở. Trăng thân thương được ví như một người mẹ dịu hiền, “Một mẹ sinh được ngàn con, sáng ra chỉ thấy còn lại một cha, mặt mẹ như hương như hoa, mặt cha nhăn nhó chẳng ma nào nhìn.”. Trăng là đề tài cho các thi nhân ngâm vịnh. Thú chơi ngắm hoa thưởng nguyệt của những tao nhân mặc khách, đã có từ xưa luôn luôn tồn tại và phát triển.

     Trăng treo vời vợi trên trời cao, nhưng đã chứng kiến cho bao cuộc trao duyên hò hẹn. trăng tác thành duyên chồng vợ. Trăng thao thức cùng với người vợ, người mẹ trông ngóng những người chồng người con đang ngoài mặt trận. Trăng khuyết rồi đầy, củng cố niềm tin sắt đá, mọi chuyện dù khó khăn đến mấy rồi cũng sẽ đến ngày viên mãn. Người thương tính từng tuần trăng một để đợi chờ người thương.

     Đêm nay tôi ra sân ngẩng mặt lên nhìn trời. Trăng chơi vơi giữa bầu trời rộng lớn. Không còn những bờ tre có cây tre cao vút cong như cái cần câu để kéo trăng lên khi trăng vừa mờ mọc. Trăng vẫn tròn vành vạnh đang thả xuống nhân gian một ánh vàng rười rượi. Bầu trời hình như chật lại. Cũng có thể là tôi đã lớn, đã già. Cũng có thể là làng xóm đã mọc lên các nhà cao tầng che khuất sự phóng khoáng muôn đời của ánh trăng. Tiếng gió xào xạc như tiếng thở dài, tiếc thương cho một thời xưa cũ. Những đứa trẻ thế hệ bây giờ ánh điện đã thay mất những ánh trăng xưa. Sau khi học bài xong chúng không còn nô đùa dưới ánh trăng như thế hệ chúng tôi, mà chỉ có những trò chơi trên mạng internet. Nhưng tôi tin rằng vẫn còn có những người chung thủy với ánh trăng xưa, những mùa trăng thương nhớ. Ánh trăng đã in vào ký ức một thời không thể nào quên.

Chỗ dựa mang tên ba

HOA HẠ

Ba tôi có một thói quen lạ. Mỗi khi ngồi nghỉ, ba không bao giờ tựa lưng vào thành ghế ngay, mà sẽ hơi nhoài người về phía trước, hai bàn tay đan vào nhau đặt trên đầu gối. Dáng ngồi đặc trưng ấy, hơi còng xuống như gánh điều gì đó vô hình, đã in sâu vào tâm trí tôi từ thuở bé. Đó không phải là kiểu ngồi thoải mái, thư giãn, mà là tư thế của một người luôn sẵn sàng, hoặc còn vương vấn điều gì chưa yên. Cái dáng hình còng xuống ấy, giản dị mà ám ảnh, nói với tôi nhiều hơn vạn lời về gánh nặng và trách nhiệm ba mang trên vai.

     Bàn tay ba không đẹp. Nó thô ráp, chai sạn, gân guốc như rễ cây cổ thụ bám vào đất. Những vết sần ở lòng bàn tay, những móng tay cụt ngủn có dính chút đất hay dầu máy là minh chứng cho bao năm tháng ba làm bạn với cuốc cày, máy móc, với những công việc nặng nhọc để nuôi sống gia đình. Tôi nhớ hồi nhỏ, tôi thường nghịch ngợm sờ vào lớp da cứng ấy, thấy sần sùi và hơi đau. Ba chỉ cười hiền, nắm lấy bàn tay bé xíu của tôi, cái nắm thật chặt nhưng không làm đau. Cái siết tay ấy, dù không nói ra, lại là lời hứa hẹn về sự bảo bọc, là cảm giác an toàn tuyệt đối trong thế giới chông chênh của một đứa trẻ.

Ba tôi ít khi nói chuyện phiếm. Những cuộc trò chuyện sâu sắc giữa hai cha con thường diễn ra trong sự im lặng hoặc qua những hành động cụ thể. Ba không giảng giải lý thuyết, mà chỉ làm. Khi muốn dạy tôi về sự cẩn thận, ba không nói “con phải cẩn thận”, mà sẽ cùng tôi làm một việc gì đó đòi hỏi sự tỉ mỉ, ví dụ như sắp xếp lại đống công cụ lộn xộn, và chỉ khẽ nhắc “chú ý một chút con nhé”. Bài học cứ thế thấm vào tôi một cách tự nhiên, không giáo điều, không áp đặt. Nó giống như dòng nước mát lành thấm dần vào đất khô, âm thầm mà hiệu quả.

     Ước mơ lớn nhất của ba có lẽ là được nhìn thấy tôi trưởng thành và hạnh phúc, theo cách riêng của tôi. Ba chưa bao giờ vẽ sẵn một con đường hay đặt ra một khuôn mẫu cho tôi phải đi theo. Ngược lại, ba luôn là người đẩy tôi ra khỏi vùng an toàn, khuyến khích tôi khám phá thế giới. Tôi nhớ như in ngày tôi khăn gói lên thành phố học đại học. Ba không khóc, nhưng đôi mắt ba đỏ hoe. Lúc chia tay ở bến xe, chỉ vỗ vai tôi thật mạnh và nói bằng giọng hơi khàn: “Đi đi con, đi thật xa vào. Đừng sợ gì hết. Cứ đi đi… ba ổn mà. ” Câu nói ấy, cùng với cái vỗ vai còn in dấu sức mạnh, đã trở thành lời dặn dò thiêng liêng tôi mang theo suốt hành trình xa nhà. Đó không chỉ là lời động viên suông, mà còn là sự khẳng định về một điểm tựa không bao giờ mất đi, dù tôi có bay đến tận chân trời nào.

Thỉnh thoảng, khi ba ngồi hút thuốc trong bóng tối, nhìn từ xa, tôi bắt gặp những khoảnh khắc yếu mềm, không phải sự yếu đuối của thể chất, mà là sự mỏi mệt của tâm hồn. Càng lớn, tôi càng nhận ra rằng ba tôi cũng chỉ là một người bình thường với những nỗi lo, những áp lực riêng, không phải lúc nào cũng mạnh mẽ hay biết cách giải quyết mọi vấn đề. Có lần, tôi vô tình đọc được vài dòng ba ghi trong cuốn sổ cũ, nói về những khó khăn chồng chất, về nỗi lo cơm áo gạo tiền. Lần đó, tôi mới thực sự hiểu hết “gánh nặng mưu sinh” là gì – nó không chỉ là công việc, mà là cả một tảng đá đè nặng lên trái tim người cha. Chính những khoảnh khắc ấy, cùng với sự hy sinh thầm lặng đến mức vô lý khi người luôn đặt nhu cầu của vợ con lên trên hết, đã dạy tôi cách nhìn ba không chỉ bằng đôi mắt của một đứa con, mà bằng sự thấu hiểu của một người trưởng thành. Tôi học cách lắng nghe sự im lặng của ba, học cách cảm nhận những điều không được nói ra, và yêu ba hơn bằng một tình yêu của sự thấu hiểu và sẻ chia.

     Có một câu thơ mà mỗi lần vô tình đọc được ở đâu đó, hoặc nghe ai đó nhắc đến, lòng tôi lại trùng xuống, nghĩ ngay đến ba:

Cháy suốt đời con, mùa hạ cháy tàn cây
Hun hút gió Lào, ào ào bụi cát
Cha một mình trong cơn gió ngược
Nắng như nung bỏng mặt đường làng

Lê Thành Nghị

Dù ba tôi không phải lúc nào cũng cõng tôi đúng nghĩa đen khi đi làm về, nhưng cái “lưng cha” ấy luôn là chỗ dựa, là nơi tôi cảm thấy an toàn nhất trong “cả một thời thơ bé”, cụ thể chính là dáng đi của ba mỗi ngày, là sự thay đổi rõ rệt trên tấm lưng từng một thời là cả thế giới của tôi.
Mối liên kết giữa tôi và ba không phải lúc nào cũng cần lời nói. Có những buổi tối, chúng tôi chỉ ngồi cạnh nhau, cùng xem một chương trình truyền hình, cùng nhấm nháp ly trà nóng, và cảm nhận sự hiện diện của nhau. Sự gắn bó ấy vượt qua ngôn ngữ, là sự kết nối của hai tâm hồn, là sự an ủi lẫn nhau trong bộn bề cuộc sống. Chỉ cần biết ba tôi vẫn ở đó, vẫn dõi theo tôi bằng ánh mắt hiền từ của ba là đủ để tôi cảm thấy an lòng, đủ để tôi có thêm sức mạnh bước tiếp.

     Thời gian là dòng chảy không ngừng nghỉ, mang theo tuổi tác và những đổi thay. Mái tóc của ba ngày càng bạc đi, bước chân ngày càng chậm lại. Tôi biết, mình không thể níu giữ tuổi xuân cho ba nhưng tôi có thể cố gắng sống thật tốt, thật ý nghĩa để đền đáp công ơn dưỡng dục ấy. Tôi muốn ba được thấy con gái mình trưởng thành, vững vàng và hạnh phúc trên con đường mình đã chọn. Bởi lẽ, dù tôi có đi đâu, có làm gì, thì trong trái tim tôi, hình bóng cha vẫn luôn là ngọn hải đăng soi đường và là điểm tựa vững chắc nhất. Tình cha không phải là thứ để cất giữ trong ký ức như một hoài niệm đã qua, mà là dòng nhựa sống chảy mãi trong tôi, tiếp thêm năng lượng và định hình nên giá trị cốt lõi của bản thân. Ba tôi là thế đấy, một con người bình dị nhưng phi thường, một tình yêu lặng lẽ mà sâu sắc.

     Và dẫu thời gian có phủ bụi lên vạn vật, có làm phai nhạt bao điều, thì hình bóng người với cái lưng còng và đôi bàn tay chai sạn – vẫn mãi là ngọn lửa ấm áp cháy mãi trong tim, soi đường cho tôi đi. Đời tôi dẫu đi đâu về đâu, vẫn mãi là đứa con bé bỏng của ba. Con đường con đi, luôn có bóng cha dõi theo, và hơn hết, là có một chỗ dựa vững chắc mang tên Ba.

Người đàn bà vắng chồng

N

gày cuối năm bình lặng như một dấu hỏi, treo trên nền trời trăng còn xanh chiều. Vài con én biển xô nghiêng vạt mây bạc trước mũi tàu liếp chiếp. Mentaria treo cờ Panama đưa tôi đến Đầm Môn– bán đo nằm trong vịnh Vân Phong như mộtdải khói biếc nối nối liền nhữngđiu tản mạn, cơ hồ xa vắng.

Tàu giảm tốc độ, nghe rõ khẩu lệnh “Port easy” và sau đó là “Dead Slow ahead” của vị thuyền trưởng già. Sau nửa vòng bẻ lái con luồng dẫn vào Đầm Môn hiện ra trước mắt tôi chờ đợi. Trời ạ nó là một hoang đảo!

Stop engine! Tiếng ông thuyền trưởng vang buồng lái.Tôi dõng dạc xác nhận: Stop engine!Chừng 5 phút sau hoa tiêu lên tàu dẫn tàu cập cảng Đầm Môn. Gọi là cảng nhưng thực tế nó chỉ là 3 mố cầu đủ để chúng tôi bắt dây áp sát tàu vào máng rót cát. Đó là loại cát xuất khẩu dùng cho ngành công nghiệp thủy tinh pha lê.

     Khi tàu ổn định vị trí và làm xong các thủ tục nhập cảng cũng là lúc đồng hồ chỉ 20h. Mentaria sáng trưng một vùng bởi xa leo xa lét bên tả bên hữu, ánh đèn những làng chài ven biển Đầm Môn thoi thóp đến mông lung.

Vào sáng hôm sau tàu vẫn chưa thể làm hàng do máng rót của cảng có vấn đề về kỹ thuật. Chúng tôi có một ngày để rong ruổi những đồi cát bất tận và trải nghiệm bãi biển nguyên sơ xứ này.

     Ngày đó Đầm Môn chưa có những con đường trải nhựa nối vào các thị trấn và thành phố như bây giờ. Chỉ có những con đường cát men theo những uốn lượn của bán đảo mà thành. Chúng tôi đi cho hết gió, đi cho hết cát, đi cho tàn ánh mặt trời và tê dại đôi bàn chân, chỉ có ánh mắt và còn tim không hề mỏi mệt. Anh bạn tôi đã làm quen được mấy cô thôn nữ hẹn hò tán tỉnh tối đi bẻ xoài trên đồi cát mịt mùng.

Bán đảo Đầm Môn nhoài mình vào những cồn cát chạy dài, với hơn 20 đảo lớn nhỏ thuộc vịnh Vân Phong, thuộc xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, nằm cách thành phố Nha Trang khoảng 80km theo quốc lộ 1A về phía bắc.

Đang là mùa trăng, con trăng non bất cẩn như khuyết mãi chẳng tròn. Tôi đi dọc làng chài ven chiều mà ngước ánh trăng lên. Đầm Môn đẹp như một người con gái vụng dại cả đời như chưa từng nhìn thấy đám trai thành phố.

     Trăng còn lên, thủy triều trườn êm, thêm những bờ cát mềm như bờ vai cô gái. Lại là những cô gái mà tôi gặp, lại là những ánh mắt mỉm cười không nói năng. Tôi thấy làm lạ rằng ở làng chài này hiếm hoi lắm mới nhìn thấy đàn ông thanh niên, mà chủ yếu là phụ nữ, người già và trẻ nhỏ. Họ đi đâu cả rồi, những người đàn ông như tôi?

Đàn ông trai tráng ở đây thường làm việc trên những tàu câu cá ngừ đại dương, quanh năm trên biển hiếm hoi lắm mới trở về nhà một ngày mãn vụ. Cuộc sống lênh đênh của họ vất vả lắm, nơi ăn chốn ở cũng chẳng lấy đâu mà sang trọng và lịch lãm như con tàu của tôi.

     Tôi vẫn đi dọc những làng chài gài ánh trăng phai, lên mắt môi những người đàn bà vắng chồng, lên bàn tay những người thiếu nữ nắm vào đâu mỗi bận hoàng hôn. Thiếu vắng đàn ông, mùi cá nướng thơm nồng cũng trở nên dửng dưng. Thiếu vắng đàn ông, đàn bà cũng trở nên quạnh quẽ ngay cả trong những bình minh dòng thủy triều đang dâng tràn lung linh.

     Thiếu vắng đàn ông những đôi mắt người đàn bà miền biển đặt trên bậu cửa sổ lạc hồn. Như một bông hoa lên hương đêm hường cắm trong một cái ống bơ hoen gỉ. Là hoen gỉ chứ không phải là một sự bất toàn ta vẫn thấy đâu đó trong Wabi sabi. Đời gì mà lạ lùng, đời gì mà ngập ngừng, những con mắt còn chưa kịp yêu thương. Hoang dại. Đó chẳng thể gọi là sự cô đơn vì tất thảy niềm cô đơn thế gian đều bất lực để cắt nghĩa cho những người đàn bà hoang vu…

Trăng lên cao. Trăng nhìn sao. Những người đàn bà nhìn nhau. Thủy triều bối rối. Tôi đã đi qua nhiều những đêm trăng rơi vàng trên biển. Trăng trên biển thì đẹp vô cùng, đừng hoang phí sắc đẹp mà so bì với ánh trăng trên biển. Nhưng sao trăng ở những làng chài ven biển này có gì mà lạ vậy.

     Tôi thấy trăng bạc, tôi thấy trăng nhạt, tôi thấy trăng lạc trong đôi mắt những người đàn bà day dứt. Đã mấy mùa trăng mà người đàn ông của họ chưa trở về. Đừng nghĩ trăng sinh ra chỉ cho đàn bà. Trăng không có đàn ông thì ánh trăng cũng trở nên tẻ nhạt, như một chén ly bôi độc thân.

     Ba ngày sau thủy thủ đoàn chúng tôi phải tạm biệt Đầm Môn cũng trong một vành trăng man dại. Con tàu bẻ lái trỗi lên những hồi còi thống thiết. Bỏ lại sau lưng là những đồi cát nhạt nhòa, bỏ lại sau lưng bãi biển trải dài nhí nhố tiếng bọn trẻ trong thôn chài nô đùa. Bỏ lại sau lưng những ánh nhìn ngẩn ngơ của các cô gái đã đi bẻ xoài trên đồi cát mịt mùng cùng anh bạn tôi. Những ánh mắt đã lâu rồi không được chạm vào ánh mắt. Những ánh mắt làm cho vùng nước vịnh như sâu hơn và tận cùng thăm thẳm dưới đáy kia nếu ai đó thử thả mình xuống thì cảm giác bị đẩy ngược lại rõ rệt ngay lập tức. Nhưng đừng nhầm tưởng đó là sự nâng lên theo nguyên lý Archimedes, mà ở dưới tầng đáy hoang mang kia có một dòng chảy mặn chát hơn cả nước biển. Dòng chảy từ những đôi mắt lẻ loi như những bong bóng nitơ giãn nở đột ngột.

     Bất giác tôi nghĩ về người đàn bà của mình. Còn ai không cũng đang nghĩ về những người đàn bà thế gian? Sức hút của đàn bà không giống như sức hút của vầng trăng kia, chẳng thể định đoạt cho những chu trình phẳng lặng. Và khi vắng đi một nửa của cuộc đời mình, đàn bà cũng chỉ là một dòng hải lưu một chiều vô hướng. Tôi nhìn trăng trên đầu, tôi nghe gió trên vai, tôi thở vào vành trăng những rì rằm của biển. Làm gì cho khỏi vắng nhau? Steady as she goes…

* Port easy (Từ từ sang trái)

* Dead Slow ahead (Tốc độ tới thật chậm)

* Stop engine (Dừng hoàn toàn động cơ)

* Steady as she goes (Thẳng thế, thẳng hướng)

Vườn nhà có hàng chuối xanh non

MAI LINH LAN

B ố đẻ tôi mất sớm từ khi tôi còn là cô bé bốn tuổi nên thời thơ ấu, tôi luôn thiếu thốn tình cảm, mong ước có được sự chăm sóc của người cha.

Ngày tôi về làm dâu, tôi cảm nhận được, bố chồng không coi mình là người ngoài mà như con gái trong nhà. Tôi hạnh phúc khi bố đón tôi bằng sự bao dung, dạy tôi cách vun vén gia đình bằng những điều giản dị. Một ánh nhìn thấu hiểu, một lời nhắc nhở ân cần của bố đều khiến tôi thấy thật ấm áp. Ông không bao giờ nặng lời nhưng cũng chẳng nuông chiều. Từng lời ông nói, từng việc ông làm, đều mang theo cái tình và cái tâm của một người cha đúng nghĩa.

Tôi vẫn nhớ buổi sáng ngày mới về làm dâu, tôi thư thả ngắm ánh nắng sớm vừa nhón chân lên đầu ngõ, chợt nghe tiếng lá chuối xào xạc theo gió nhẹ, âm thanh thân thuộc như một khúc nhạc bình yên. Khi ấy, tôi nhìn thấy bố chồng tôi bước chậm rãi giữa vườn, dáng cao gầy, lưng hơi còng theo năm tháng. Ông đưa tay chạm nhẹ vào những tán lá rộng, cảm nhận lớp lá mát lành như nhịp sống nối tiếp trên từng thân cây. Rồi ông thoăn thoắt tỉa lá chuối, cắt, bó thành từng tập. Thấy tôi, ông khẽ bảo: Con gái, mang bó chuối vào sân để ráo nước giúp bố. Nghe hai từ “con gái”, tôi xúc động nghẹn ngào, lặng đi trong giây lát, cố giấu ánh mắt ươn ướt.

Mẹ chồng tôi đang băm thân chuối nấu cám lợn, nhìn tôi giúp bố mang từng bó lá ngoài vườn vào sân, bà giải thích: Lá chuối này được thương lái đặt mua, chở về thành phố giao cho những cơ sở làm nem, giò. Có khi, nhà mình còn phơi khô lá chuối theo đơn đặt hàng của các bà chuyên gói bánh gai ngoài chợ.

     Mẹ quay sang bố, khen ông mát tay, bởi trong xóm cũng nhiều nhà trồng nhưng người mua lúc nào cũng trả giá cao vườn chuối của bố vì lá đẹp, tán rộng, có màu xanh tươi hơn cả. Rồi mẹ kể: Ngày xưa, bố trồng chuối không phải vì tính chuyện buôn bán. Bố nói, nhà có cây chuối là có bóng mát, có lá gói bánh, có quả cúng giỗ, lại thêm nhiều món ăn cho cả người già lẫn trẻ con. Mỗi phần của cây chuối cũng đều hữu ích với nhà nông như thân cây làm cám lợn, thức ăn cho cá.

     Bố chồng tôi là một người lính từng trải qua chiến tranh. Cơ thể ông mang vết tích của những năm tháng cầm súng. Mỗi lần gió đổi mùa, trời trở lạnh, cơn đau nhức lại âm ỉ hành hạ ông. Nhưng chưa bao giờ chúng tôi thấy ông than phiền. Nhìn bố, tôi nhận ra rằng chiến tranh không chỉ để lại những vết sẹo trên cơ thể, mà còn khắc sâu vào trong tâm khảm, biến thành một sức mạnh âm thầm, bền bỉ của mỗi người lính.

Góc vườn nhà tôi quanh năm xanh tốt những cây chuối đủ loại: Chuối lá, chuối tây, chuối tiêu hồng. Từng gốc chuối mẹ rắn rỏi, cứng cáp, đỡ nâng, tán lá xòe rộng như vòng tay chở che những cây con đâm chồi, lớn lên, tiếp nối nhau vươn mình dưới nắng. Bố chồng tôi đã chăm chút vườn chuối ấy suốt mấy chục năm, như chăm chính những đứa con trong nhà, lặng lẽ, nhẫn nại, không vội vã, nhưng chưa bao giờ thiếu vắng tình thương. Có những ngày giông gió, thân chuối ngã đổ, bố mẹ tôi vội vã ra vườn, buộc cây, chằng gốc, dùng thân tre để chống buồng chuối. Nhìn dáng ông lom khom giữa mưa gió, tôi như nhìn thấy hình bóng một mái nhà kiên cường, ấm áp, che chở vững chãi cho những thành viên còn lại.

     Mười lăm năm về làm dâu, cũng là ngần ấy năm tôi chứng kiến mùa chuối ra buồng, kết trái. Những buồng chuối sai trĩu, quả ép sát vào nhau, biểu tượng của của tình thân, của sự gắn bó bền chặt. Khi chuối chín vàng, bố tôi dành nải đẹp nhất để thắp hương tổ tiên, như một lời biết ơn với những người đi trước. Sau khi thụ lộc, ông chia cho con cháu, gửi gắm những ngọt lành của đất trời vào từng món quà nhỏ bé.

     Những quả chuối chín được đặt ngay ngắn trong mâm cơm gia đình tôi mỗi ngày, là món tráng miệng giản dị mẹ chồng tôi gọi là nhân sâm của người nghèo. Tụi trẻ con thích chuối chín bởi vị ngọt thanh, người già ăn chuối chín để giữ gìn sức khỏe. Mỗi lần có ai đi xa trở về, mẹ lại bày một nải chuối ra bàn, như một lời chào đón đằm thắm, như một nhịp kết nối của tình thân.
Nhất là mùa cốm non, khi có khách đến nhà, mẹ rót nước trà thơm, đặt thêm một nải chuối trên bàn cạnh đĩa cốm. “Có chuối ăn cho ngọt miệng,” bà mỉm cười quay sang bố, nói giản dị, nhưng trong đó có cả sự hiếu khách chân thành, có cả cái tình của gia đình quê mộc mạc.

     Những buồng chuối không chỉ cho quả chín ăn mà còn đi vào những bữa cơm quê bình dị của gia đình tôi. Quả chuối xanh được mẹ cắt vào làm món cá kho. Những lát chuối mềm dần, thấm đẫm vị đậm đà, hòa quyện với chút riềng, chút nước mắm quê khiến cả nhà “đổ vạ nồi cơm”. Bát canh xương hầm chuối xanh cũng không thể thiếu trong bữa cơm gia đình tôi những ngày trời trở lạnh. Ăn thìa nước canh ngọt thanh, cắn miếng chuối mềm mà ngọt bùi dư vị quê nhà, mọi người nhìn nhau cười ấm áp. Món chuối xanh nấu chín, dầm nhuyễn cùng tóp mỡ béo ngậy, thêm hương lá lốt, tía tô cũng là thức quà quê mà gia đình tôi ưa thích. Bao năm tháng qua, vị ngọt từ tình thân trong những bữa ăn gia đình đầy ắp tiếng cười đó, chúng tôi không thể nào quên.

Cây chuối lớn lên từ đất, vươn tán lá che chở, ra quả, rồi lại sinh thêm đời con nối tiếp. Mỗi lần nhìn hàng chuối, anh chị em chúng tôi lại nhớ lời bố dặn: “Mỗi cây con đều lớn từ gốc rễ vững chắc, nhờ cha mẹ nuôi dưỡng mà trưởng thành. Đến lúc đủ sức, nó lại chăm lo cho thế hệ sau. Cũng như gia đình cũng vậy, thế hệ sau tiếp bước thế hệ trước. Bố mong các con luôn biết đùm bọc, yêu thương nhau, vậy mới thành mái nhà vững vàng”.

     Tôi ngắm hàng chuối rung rinh lá trong sớm mai, mỗi ngày vẫn xanh tươi, tiếp nối nhau sinh sôi chẳng ngừng nghỉ. Và tôi nhận ra, dẫu thời gian có trôi, người vun trồng có thể sẽ khuất bóng, nhưng tình thương ông để lại vẫn sâu như rễ, rộng như tán và xanh như những mầm chuối non đang vươn mình dưới nắng, lặng lẽ nuôi dưỡng những mùa yêu thương trong gia đình tôi tiếp nối, mãi mãi…

Hạnh phúc nở hoa

d ưới chùm nắng non buổi sớm, những giọt nước li ti trong suốt đọng trên lá hắt ra thứ ánh sáng lung linh, tinh khiết. Hàng trăm tia nước mát lành đang rửa trôi lớp bụi trắng mỏng trả lại màu xanh mỡ màng cho những chiếc lá hạnh phúc.

Mấy cành dài vươn mình đón nắng khẽ rung rinh, nhảy nhót. Tôi như nghe được cả tiếng cười khúc khích dưới tàng cây.

     Vừa tưới, tôi vừa vuốt ve, ngắm nghía từng chiếc lá. Sáng sớm là khoảng thời gian tôi cho phép mình được thư thả, không lo nghĩ bất cứ chuyện gì, chỉ tập trung vào những giọt nước, những cơn gió, những chiếc lá, những bông hoa và mọi thanh âm thân thuộc của một ngày bình thường. Đó là tiếng xe chạy hối hả, tiếng rao thu mua đồ cũ, tiếng chim hót ríu rít, tiếng tắc kè nhà ai nuôi và cả tiếng trực thăng bay lượn trên bầu trời.

     Chỉ khi thực sự yêu thứ gì đó, người ta mới cảm nhận được giá trị thời gian ít ỏi mà họ phải cố xén ra giữa guồng quay cơm áo gạo tiền để toàn tâm toàn ý dành cho niềm đam mê ấy. Tôi không mê trà nên chẳng thể hiểu được cái thú khi những người yêu trà ngồi mân mê pha và thưởng thức một tách trà nhỏ xíu. Cũng như ai không yêu cây sẽ chẳng hiểu được cảm giác mân mê từng chiếc lá, ngắm nghía từng chồi xanh, hì hục nhổ đi từng cây cỏ… có thể gây nghiện như thế nào. Ngày nào cũng ngắm, cũng soi từng chi tiết trên cây thế mà vẫn có lúc ngỡ ngàng tự hỏi cái chồi này nảy lên từ khi nào, cái cành kia sao bỗng dưng dài thế nhỉ.

     Hôm nay, tôi phát hiện cây hạnh phúc của mình ra hoa. Nếu không chú ý, tôi đã chẳng nhìn thấy chùm nụ màu xanh nhạt hơn màu cốm ẩn sâu trong mấy cành um tùm lá cũng màu xanh kia. Điều làm tôi bất ngờ không phải là việc mình vô tình tìm ra bí mật của cây mà là “hạnh phúc”, một loại cây yêu thích của tôi cũng có thể ra hoa. Hoá ra, tôi vẫn chưa hiểu hết đặc tính của cái cây mà tôi đã phải lòng cách đây năm năm.

     Tôi tưởng rằng mình thấy bản thân yêu nó, chăm sóc nó mỗi ngày, lau từng cái lá của nó… thế là yêu. Mà tôi quên mất rằng yêu là phải hiểu cặn kẽ, hiểu chi tiết, là phải biết nó cần gì, muốn gì, nó có yêu mình không. Tôi cũng chưa bao giờ tự hỏi mình yêu nó như vậy đã đủ chưa? Chỉ thấy lá vẫn xanh, chồi mới vẫn lên là ung dung tự hào về tình yêu của mình. Hay là tôi yêu hạnh phúc chỉ vì “trend”?

     Có một dạo, người ta đổ xô đi mua hạnh phúc vì nghe nói trồng hạnh phúc sẽ hạnh phúc và hạnh phúc dễ chăm, dễ sống. Thật vậy, hạnh phúc ưa sáng nhưng ở nơi không có ánh nắng trực tiếp, cây vẫn có thể phát triển bình thường. Hạnh phúc có tán sum suê, lá màu xanh đậm, căng bóng rất đẹp. Vì vậy, hạnh phúc thường được chọn để trang trí cho các văn phòng, sảnh lễ tân ở ngân hàng, khách sạn hay để tạo thêm không gian xanh cho phòng khách, phòng làm việc ở nhà. Hạnh phúc không khó tính, đỏng đảnh, không rực rỡ, sắc màu, không toả ra mùi thơm gì hết nhưng màu xanh mướt của hạnh phúc mang lại cảm giác sức sống căng tràn. Nếu thực sự ngắm màu xanh của hạnh phúc, hẳn ai cũng sẽ thấy lòng mình dịu lại.

     Chỉ cần có đủ ánh sáng dù là ánh sáng nhân tạo, hạnh phúc cũng lặng lẽ sống “hạnh phúc” như cái tên của nó. Ở mỗi cành, hạnh phúc sẽ ra các chùm nhỏ gồm ba lá xếp thành hình trái tim. Tuy không ai trồng hạnh phúc để lấy hoa hay hương nhưng người ta vẫn chọn hạnh phúc. Người ta chọn hạnh phúc bởi cái tên của nó làm người ta hi vọng hay người ta chỉ đơn giản muốn chọn một cái cây ưa nhìn mà dễ tính như lời người bán tư vấn? Mà suy cho cùng, dù lý do là gì, miễn sau đó người ta vẫn chăm sóc tốt cho nó là được. Phải không nhỉ? Yêu hay không có quan trọng không?

Cái tên hạnh phúc của nó có lẽ do một người yêu nó thực sự đặt cho. Thật ra, tôi chưa từng tìm hiểu hay nghiên cứu nghiêm túc về nó. Vậy mà tôi luôn tự nhận mình yêu nó. Xấu hổ thật! Giờ thì tôi suy đoán bằng cảm giác, một cảm giác thật lòng khi tôi nghĩ về hạnh phúc chứ không phải bằng sự hiểu biết của tôi về nó.

     Phải chăng bởi hạnh phúc toả ra thứ tình yêu thuần khiết trong từng cành từng lá của mình nên người ta mới gọi nó là hạnh phúc. Cái gì đi từ trái tim sẽ dễ chạm đến trái tim. Hạnh phúc đã chinh phục tôi bằng chất mộc đơn sơ của mình như thế. Mà có lẽ, chính bởi sự “dễ tính” của mình nên ít ai mang hạnh phúc ra trồng ở ngoài trời, nơi có nắng.

     Thành phố mà, chen nhau để sống, những nơi có nắng như vậy đâu có nhiều. Và cho nên, những nơi có nắng hiếm hoi ấy phải để dành cho những cây cần nắng mới sống được. Chắc là… hạnh phúc hiểu điều đó dù sống trong nhà, nó sẽ khó mà trổ bông. Thực vật hoá ra cũng giống con người – cần thay đổi và thích nghi, sẵn sàng chấp nhận được mất, hài lòng với hiện tại thì mới có thể “hạnh phúc” sống và cống hiến cho đời.

     Đến hôm nay, khi vô tình nhìn thấy những nụ hoa hạnh phúc đầu tiên, tôi mới giật mình mở máy vào mạng tra cứu thông tin về hạnh phúc. Càng tìm hiểu tôi càng ngỡ ngàng nhận ra mình chưa bao giờ hiểu hết về hạnh phúc. Hoá ra, trước giờ tôi chưa đủ yêu hạnh phúc như tôi vốn tự hào và vốn tưởng.

     Vì chưa đủ yêu nên chưa đủ hiểu. Tôi chẳng hề biết rằng hạnh phúc nếu sống ở ngoài tự nhiên có thể cao tới 30m, y học phương Đông còn dùng nó như một vị thuốc trị sốt, trị thương và một số bệnh khác. Tôi chẳng hề biết rằng nếu được sống trong môi trường lý tưởng, được hấp thụ đủ nắng, đủ dinh dưỡng, hạnh phúc cũng có thể ra hoa… Không ra hoa, hạnh phúc vẫn xanh lá nhưng có phải ra hoa thì sẽ trọn vẹn hơn không? Sống một đời, ít nhất cũng được một lần ra hoa chứ nhỉ? Phải vậy thì cuộc đời mới biết thêm một loài hoa – hoa hạnh phúc.

     Nói chuyện cây lại nghĩ chuyện người. Bạn có tự hỏi hạnh phúc mà chúng ta vẫn thường nói đến, thường mơ đến liệu đã nhận đủ “nắng” để ra hoa chưa? Chúng ta đã yêu ai đó, thứ gì đó đủ chưa? Còn tôi liệu đã đủ tình yêu cho những gì gọi là hạnh phúc?

Giếng Vừng thương nhớ

T ôi vừa bắt gặp những ngọt ngào thơ cũ qua hình ảnh một cái giếng đồng phủ đầy rong rêu. Một bà mẹ quê mặc đồ bà ba, đội nón cời khom mình múc nước. Cạnh bờ giếng là đôi thùng cũ kỹ. Quanh đó là ruộng lúa, bờ tre xanh ngắt đến nao lòng. Hình ảnh quá quen thuộc của khung cảnh làng quê xưa làm tôi bỗng xôn xao nhớ, bỗng vời vợi thương.

     Nhớ làng. Thời tôi còn bé, làng Lộc Yên có khoảng chưa tới mười cái giếng. Vì các bậc cao niên rất thận trọng trong việc chọn nơi có long mạch. Tên giếng thường gắn với tên gia chủ, như giếng ông Tưu, giếng ông Huyền, giếng ông Gương… Duy chỉ có một cái giếng đặc biệt, từ cái tên đến vị trí của nó trong tâm hồn tôi, đó là giếng Vừng. Không biết ai đã đặt tên cho giếng. Chỉ biết rằng, giếng Vừng là nguồn nước ngon và quý nhất làng.

     Giếng Vừng của nhà chú Tư Mão. Đó là một chi tiết của tổng thể kiến trúc nhà cổ gồm nhà vườn, sân gạch, ngõ đá, bờ đá dẫn ra tận giếng. Vị trí rất đắc địa chắc hẳn là ý đồ của chủ nhân mấy đời ở nhà chú Tư. Tôi không hiểu lắm về phong thủy, nhưng tôi nghĩ ai đến cũng sẽ bị mê hoặc bởi nơi này. Nhà chú có hai phía hướng ra ruộng, lưng vườn tựa vào rẫy ông Phương vững chãi, bờ vườn, bậc ngõ được chất bằng đá núi rất công phu. Cuối con ngõ sau, hướng về phía đông là cái giếng Vừng

     Men theo bờ ngõ ấy là một hồ sen nhỏ, không gian trữ tình nối nhà với đồng ruộng. Giếng Vừng, vì thế, rất nên thơ. Đó là chưa kể cây dừa quỳ góc hồ, cạnh giếng. Ngày ngày bóng nắng nghiêng về phía tây, rồi ngả về phía đông như những điệu múa đều đặn, dịu dàng. Buổi trưa, bóng dừa chính là chiếc dù lớn che mát cả vùng giếng, mấy tảng đá để tắm giặt, để thùng gánh nước và một góc hồ sen.

     Giếng Vừng rất đặc biệt. Tuy là một cái giếng sâu chưa đến 3m, và nằm ở bên đồng ruộng cạn, nhưng nó chưa bao giờ hết nước. Dù là vào mùa hạn hán đến nứt nẻ hết ruộng, cây cỏ héo khô, giếng vẫn đủ nước cho cả làng. Người dân làng tôi cứ tin rằng, nước giếng Vừng là nơi hội tụ của những mạch nước lành, bắt nguồn từ trên đỉnh Bằng Mây, từ Hố Chò hay đỉnh Hố Hay. Không biết làm sao tả hết cái vị thanh ngọt, trong trẻo, mát lành của giếng. Trưa trưa, các bác nông dân đi làm về, tạt ngang qua đó, vục cái đài mo xuống và xách lên uống. Cứ gọi là ừng ực mới đã cơn khát. Từng ngụm nước mới thấm thía làm sao. Mạch nước lành len lỏi tưới tắm đến từng tế bào của cơ thể.

     Có lẽ mỗi giọt nước là hương đất hương rừng; là hương của lúa cỏ mênh mang quyện hương sen thơm ngát. Nhưng nếu đem về đun sôi, nước sẽ giảm đi vị ngọt thanh vốn có, dù nó vẫn ngon. Nước đã sôi, ngon nhất là dùng để hãm ấm trà xanh. Thức uống dân dã mà đậm đà này nhà ai cũng sẵn. Hàng xóm cùng nhau khề khà lúc nghỉ ngơi, hay uống cho đã khát khi xuống đồng.

     Nhớ những mùa hạn ròng hạn rã. Cả mấy tháng không thấy một giọt mưa. Cỏ cây khô héo hết, đất đai khô như nướng. Không gian khô khốc oi nồng. Mực nước giếng hạ xuống thấp nhất, còn cỡ vài tấc. Thế nhưng, mạch nước giếng chưa bao giờ tắt hẳn. Cả ngày lẫn đêm, dù bận rộn đến đâu, dân làng cũng tranh thủ thay phiên nhau lấy nước uống. Tiếng múc nước sột soạt từ gàu nhựa hay gàu mo cau và những gánh nước đi về khắp làng. Giếng Vừng ngày hạn thành nơi gặp gỡ của cả xóm. Vì các giếng kia đã cạn trơ đáy. Nhà tôi ở gần hơn, nên chị em tôi thường đợi đến khuya, hoặc sáng tinh mơ mới quảy đôi thùng tôn qua gánh nước. Mẹ vẫn dặn chị tôi lấy lá sen úp lên thùng nước cho sạch và thơm. Nước giếng Vừng gánh về đổ ảng, cứ thoải mái múc uống bằng gáo dừa vẫn thanh khiết và mát lạnh. Sau này đi học, anh em nhà tôi cứ băn khoăn về lời cô giáo dạy “không được uống nước lã”. Chúng tôi đã uống không biết cơ man nào là nước lã giếng Vừng. Có hề hấn gì đâu? Nên vì thế, giếng Vừng, tự bao giờ, đã thành máu thịt và thấm đẫm cảm xúc trong trẻo của cái tuổi vô tư. Cũng không biết bao nhiêu lần, lũ trẻ chúng tôi đã soi mình xuống giếng, hét thật to cho giọng mình vang vọng mà tưởng mình cũng là con hổ ngốc trong cổ tích.

     Giếng Vừng là một thức quà đặc biệt tạo hóa dành cho làng tôi, dành cho tuổi thơ tôi. Thế nhưng, tiếc thay, bây giờ giếng Vừng không còn “huy hoàng” như ngày xưa yêu dấu. Chú Tư đã già, con cái đều đi làm xa, nên các anh chị đã khoan thêm một cái giếng sát nhà cho tiện bề sinh hoạt. Làng tôi cũng có thêm rất nhiều giếng đào, giếng khoan…

     Giếng Vừng bây giờ bị lãng quên. Hồ sen bên giếng cũng tàn dần vì không có người chăm sóc. Thỉnh thoảng, có dịp về quê, tôi cũng qua thăm giếng Vừng. Nhưng chính tôi cũng ngồi buồn mà “khóc tuổi thơ bay”.
Mạch nguồn dịu ngọt lặng lẽ âm thầm như giếng Vừng thương nhớ…