22 C
Hanoi
Thứ Hai, Tháng mười một 17, 2025

Viết trong bão Bualoi

Khi tôi ngồi viết những dòng này...

Phố Hoài phố nhớ

M ột buổi chiều như bao buổi thủy...

Người gieo mầm nhân ái

Người ta thường mải miết đi tìm...

Viết trong bão Bualoi

NGỌC HOÀI LÂM

Khi tôi ngồi viết những dòng này giữa phương Nam yên lành, quê hương tôi và các tỉnh miền Bắc Trung Bộ đang phải gồng mình trước cơn bão số 10. Bão Bualoi.

Là một người con Bắc Trung Bộ, tuổi thơ tôi lớn lên, chứng kiến và đi qua bao dông cuồng bão giật. Bắt đầu từ tháng bảy, tháng tám dương lịch, những cơn bão lớn nhỏ lần lượt đổ bộ vào đất liền, rú rít gầm gào trên những xóm làng vốn bình yên, bình yên như lúa trên cánh đồng chờ ngày gặt hái.

Từ trên bầu trời xám xịt, mây đen vần vũ, sấm rền vang, những tia chớp hung hãn xé toạc bầu trời, và mưa trắng xóa mù mịt đất. Người già quê tôi thường bảo: bão mà có sấm là bão to lắm!
Mưa, nước ngập qua bờ ao, bầy cá ngoài ao cha chăm sóc bấy lâu chỉ chờ ngày mẹ mang ra chợ bán để đổi cho tôi bộ quần áo mới, nay theo nước mà đi. Đồng trắng mênh mông. Đàn lợn con ngạt nước. Bò mẹ kêu hoảng loạn nhìn con bê nhỏ hốt hoảng giật dây ràng trước dòng nước cuồn cuộn đục ngầu hung hãn…

Bao của cải, vật nuôi của con người bị nhấn chìm giữa mênh mông trắng xóa. Trang sách em thơ nhạt nhòe nổi trôi. Cha tôi cặm cụi nhặt nhạnh những đồ vật có giá trị của gia đình, cố níu giữ lại bao công sức cả năm làm lụng. Trong làn mưa xối xả, vẫn nghe rõ tiếng mẹ hốt hoảng lo âu giục gọi cha trở về.
Gió, gió táp xuống cánh đồng, đè ngã rạp những bông lúa trĩu hạt ngâm mình trong đồng nước. Gió vặt trụi vườn na sắp vào kỳ mở mắt, từng làn roi của gió quất rụng nào bưởi, nào bòng, những trái ngon quả ngọt chưa kịp đủ ngày đủ tháng giờ đây nổi lềnh phềnh trong ao nước vườn nhà. Gió quật đổ, xé rách bươm vườn chuối. Gió hùng hổ giật tung cửa sổ, cửa nhà cha mới gia cố. Gió hằm hè tróc hàng loạt viên ngói trên mái nhà ném xuống sân. Gió quần thảo trên biển, giằng giật tàu thuyền, dựng những con sóng cao 5, 6 mét…
Sau sự cuồng nộ của gió là những bến thuyền xơ xác, những cánh đồng, cánh vườn tan hoang, những căn nhà đổ nát. Ngước nhìn lên thấy cả một bầu trời xám xịt. Gió mưa, bão lũ cuốn phăng bao thành quả trên mảnh đất, thửa ruộng, bờ ao, sân vườn mà người dân đã một nắng hai sương đổi bao giọt mồ hôi thấm đẫm trên lưng áo mới có được. Dù đã được dự báo trước, chính quyền địa phương và người dân đã có những sự chuẩn bị ứng phó với bão, nhưng sức mạnh khủng khiếp của nó cho thấy con người thật nhỏ bé trước những cơn cuồng phong thịnh nộ của thiên nhiên…

Ký ức ấy cứ mỗi mùa bão lại dầy thêm lên, cứ mùa bão về lại canh cánh trong lòng. Và đêm qua, không chỉ là ký ức. Đêm qua là một đêm thật dài với người dân Thanh Hóa quê hương tôi và các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Quảng Trị… Cũng thật dài với những đứa con xa quê như tôi.

Tôi ngồi đây bình an giữa Sài Gòn, nơi cách xa bão số 10 cả ngàn cây số. Ngoài trời bình yên nhưng trong lòng tôi đầy bão tố. Thông qua các phương tiện truyền thông và tin tức từ những người đang trong vùng bão, cùng với hình dung về những cơn bão trong ký ức của tuổi thơ, tôi ngồi gặm nhấm những mất mát hoang tàn, gặm nhấm nỗi sợ hãi của con người trước thiên tai.

Rồi bão cũng tan. Bà con xóm làng sẽ ào đến chia sẻ với những gia đình mất mát. Những người đàn ông sẽ cùng nhau lo dựng lại mái nhà. Các chị, các mẹ quét dọn, lau chùi nhà cửa, sắm sanh lại căn bếp. Nhà nhà sẻ chia cho nhau từng cọng rau hiếm hoi, từng ống gạo. Bão tan, có người thất thần xót của, có người thở phào khi bão đi rồi nhưng mắt rưng rưng vì nhà cửa chẳng còn gì… Rồi lại tự động viên: Sau cơn mưa trời lại sáng, nắng về sẽ hong khô những giọt nước mắt…

Bao đời nay, dải đất miền Trung mỗi năm hứng chịu biết bao cơn bão hung dữ, biết bao thiệt hại từ thiên tai. Nhưng bà con vẫn bám làng, bám quê hương xứ sở. Bởi tình yêu dành cho nơi chôn nhau cắt rốn không gì sánh được. Bởi niềm tin và ý chí con người miền Trung vốn đã son sắt kiên cường.
Bão đến, bão đi, bao đời nay vẫn thế, bao mùa nay vẫn thế, bao năm rồi vẫn thế… Chỉ có sự kiên gan, chỉ có những ánh mắt yêu thương, những nụ cười hồn hậu, cùng những đôi bàn tay nghĩa tình nắm chặt nhau ở lại. Bão tan…

Phố Hoài phố nhớ

M

ột buổi chiều như bao buổi thủy triều dềnh lên ai mà đắn đo, từ cảng Đà Nẵng tôi thập thò thả tình những con đường so gầy vai nhỏ, bàn tay con gái tôi thầm như cổ phố,  yêu Hội An như khi nỗi nhớ lòng thương chẳng kịp dông dài.Hội An – cổ kính ngự trị trong mỗi nẻo hồn.

Chẳng biết tự khi nào, điều gì đã tạc nên dáng hình ấy? Phải chăng là cơn gió mang vị mặn mòi của biển Cửa Đại, hay là cơn gió thời gian thổi từ những kinh các nguyên sơ, từ một thương cảng quốc tế sầm uất lùi về mấy trăm năm?

Gió đã mang di sản của Nhật, của Hoa, của cả châu Âu xa xôi, rồi ủ tất cả vào lòng đất này, để nảy mầm nên một kiến trúc cổ kính đến ngỡ ngàng. Tôi luôn có cảm giác mình cần phải khẽ khàng, chỉ một tiếng thở dài biết đâu hồn phố sập vào mộng mị.

Hội An hàng trăm năm là một lợi thế của phố cổ nhưng những người dân nơi đây mới thực sự làm nên một cổ phố tưởng chừng như đã điêu tàn, không giống bất kỳ nơi nào tôi đã ngang qua, cũng chẳng giống những nơi nào đời phố…

Đi trong lòng phố, tôi như đi trong một miền ký ức chung. Những bức tường vàng hươm, nhuốm màu thời gian, không phải là sự cũ kỹ của tàn phai, mà là sự lắng đọng của trầm tích.

Nét bình yên của phố như ánh sáng bao đêm vẫn lẳng lặng trong những khuôn đèn người thương lồng người nhớ, người ở lồng người đi, người cách xa vắng mặt mượn những đêm hoa đăng mà trôi dạt tìm về. Vẻ trầm tư của phố đã bao ngày thổ lộ trên những mái hiên xòe cong vòm rêu. Rêu không chỉ là rêu, mà là tấm áo choàng của thời gian, che chở cho phố qua bao mùa nắng mưa. Dáng thương ai nhớ ai của phố  vươn dài vào những con ngõ nhỏ, cảm giác lúc nào cũng có ai đó đang thao thác đường khuya, chằm chặp tìm nhau. Vậy nên Hội An chẳng nỡ cách mặt xa lòng. Và trên hết là tấm chân tình người dân phố Hội, nhỏ bé thôi mà chưa từng chật chội, đứng giữa lòng phố, trôi thêm những phố, đôi khi tôi thấy nơi đây phố đã linh hồn.

“Ai về qua phố Hội An
Nhặt giùm sợi nắng tơ vàng quê tôi
Đã đi lưu lạc khắp nơi
Vẫn không quên được khung trời nắng xưa…” (#)

Nếu như thơ ca là trang sức của thi nhân thì đèn lồng là đời thơ cho phố Hoài phố Nhớ. Những buổi chạng vạng phách nhịp dật dờ, tưởng như lòng dạ lạc loài ngẩn ngơ thì cũng là lúc muôn ngàn đèn lồng thản nhiên bật sáng. Chúng ngời lên cả một góc trời, biến Hội An thành một giấc mơ bằng lụa và ánh sáng.

Chẳng còn ai xa lạ, chẳng còn ai dửng dưng, ngập ngừng phố thở, sau lưng phố cười, tôi khoác tay phố, khúc dọc đoạn ngang, phố quên là phố, phố choàng đầy vai. Tôi nhập vào phố, hồn tôn vươn dài…Chẳng ở đâu đi giữa phố nhà người ta mà cứ đinh ninh chắc mẩm ấy phố nhà mình. Những bước chân hè phố bởi vậy thiếu gì khi loẹt quẹt mà vui.

Trăng leo mạn thuyền, sông Hoài cài bóng, tôi xô đẩy mình dọc bờ sông xưa, ngỡ như đang lần về thương cảng phồn vinh thấp thoáng. Kể cũng lạ, chỉ một vài tà áo thướt tha khi cõi lòng chập choạng, cũng đủ bay lên tên phố tên đường.

Nhìn và nghe những người trẻ tuổi đang ríu ran trước mặt, tôi lại nhớ cũng dọc triền sông này, dọc con đường này, dọc những lời nguyện ước hoa đăng tháng tháng ngày ngày, nhiều đôi trai gái đã nợ nần lương duyên.

Những sớm mai, nắng gieo vàng trên những bức tường thấm tháp trần ai, thênh thang tản bộ trên đường Trần Phú tôi thấy những nét đổi thay của từng mái ngói âm đương. Một vài ngôi nhà cổ đang được trùng tu, phục chế, những mái ngói màu hồng tươi mới được lợp lên, nhưng không làm kém đi chiều sâu và nét thâm trầm của phố. Khi ấy phố choàng vai khách mà nheo mày nhíu mắt, phố làm cho đôi môi tôi im bặt, nở một nụ cười…

Buổi chiều tà, ở Hội An mà không thịnh soạn những buổi chiều thì đừng yêu cổ phố.  Dạo một vòng quanh Hội An tìm thứ gì đó lót dạ, không khó để bắt gặp cái tên ngộ nghĩnh của một món ăn khiến thực khách tò mò, cao lầu.

Khi còn chưa từng biết đến món này tôi đã thích thú mà gọi ngay một phần khám phá bởi lẽ cao lầu là đặc sản của Hội An, chỉ ở nơi phố cổ mới có và mang cái hồn cốt lầu cao. Có lẽ tới làm bạn với phố, sống những ngày hoài cổ giữa phố mà vô tình bỏ qua cao lầu thì dường như chuyến thăm đã bẽ bàng một đoạn.

Đôi khi ngày dư tháng thừa, vòng vành ở một nơi nào đó nhạt nhẽo, tôi lại nhớ ngay đến cái hương vị cao lầu, để mà mơ màng hồi tưởng, thân xác mình được món ăn tao nhã trên lầu cao kia tung tẩy cái hồn ẩm thực, rồi cũng nghênh ngang mĩ vị cao lương, cũng la đà đĩnh đạc như kẻ uy người quyền. Hội An cổ kính.

Tôi đã đi qua nhiều phố cổ nước mình cả những phố cổ một vài quốc gia tôi có dịp  ghé qua. Nếu là kẻ yếu bóng vía khi nhìn những cao ốc đồ sộ sẽ cảm thấy an lòng khi bước trong những ngõ hẹp. Hà Nội cũng nhiều ngõ hẹp đấy, nhưng Hà Nội lại dễ thâm trầm, cái vẻ thâm trầm tạo cho tôi ngưỡng vọng nhiều hơn là yêu mến.

Phố cổ ở Huế rõ là trang nghiêm và quí phái, nhưng vẳng thấy đâu đây còn ngấp ngái ngựa xe âm tướng hồn binh. Bởi ở Huế lại thấy cổ thành đài các kiêu hùng hơn là những điều bá vai thân mật. Nhiều những con phố cổ tỉnh lẻ dọc đường ngang qua tôi lại thấy quá nhạt nhòa bởi thiếu vắng linh hồn…

Về Hội An cảm giác như gặp lại một người bạn cũ từ lâu ngóng đợi, phố như choàng vai khách hàn huyên thân thiết, khách như bá vai phố mà ôn cố tri tân . Phố chẳng nỡ thâm trầm, phố chẳng quá thâm nghiêm. Phố cười hiền đời phố.

Tôi cứ hình dung khi gặp lại một không gian cổ và cũ, như một ngày trải bao dặm đường dâu bể bỗng được nhảy lên thổ mộ với nhịp gõ bình yên của vó xưa xe ngựa, rồi thả dốc về đâu những phố nhớ phố Hoài.

Người yêu Hội An bằng cả tấm lòng gọi nơi đây là phố Hoài – phố nhớ. Hội An là một nỗi nhớ, mỗi con phố thôi cũng là thương là nhớ. Thẫm đẫm thiên thu trầm mặc, qua bao ngày nắng, qua bao ngày mưa, qua bao những buổi chiều như tôi lang thang từng con phố nhỏ mỏng manh dịu dàng như bàn tay con gái mà dìu dặt.

Hình như ở đâu đó, hồn phố vẫn vọng về qua từng ánh mắt, qua từng những cái nắm tay thật chặt, qua từng chùm sáng lung linh sắc màu. Hội An không phải là một điểm đến. Nó là một trạng thái của tâm hồn. Để rồi khi rời đi, ta biết mình đã để lại một phần trái tim ở đó, và mang theo cả hồn phố trên vạn nẻo đường. Hội An cổ kính, một lần ghé qua, là ngự trị trong mỗi nẻo hồn mãi mãi.

(Tản văn được viết tháng ngày 6 tháng 11 năm 2007 chỉnh sửa lại ngày 6 tháng 11 năm 2025)

# Thơ Lê Cẩm Thanh

Người gieo mầm nhân ái

TÁC GIẢ: BÍCH HẢO

Người ta thường mải miết đi tìm những điều lớn lao mà quên rằng, thứ cốt lõi để xây nên một đời người chính là tình yêu. Mẹ tôi không kiếm tìm đâu xa. Mẹ tìm thấy tình yêu trong sự sống, trong từng trang giáo án sinh học, và rồi lặng lẽ gieo những hạt mầm nhân ái ấy vào tâm hồn chúng tôi.

          Mẹ là giáo viên sinh học. Nhưng môn học mẹ dạy không chỉ là về cấu trúc tế bào hay quy luật di truyền. Mẹ dạy học trò, và dạy tôi, cách nhìn vào sự sống bằng con mắt của yêu thương. Mẹ dạy chúng tôi về lòng nhân từ, về sự bao dung với vạn vật.

Qua lăng kính của mẹ, vạn vật đều có tâm hồn. Mẹ có thể reo lên hồn nhiên khi phát hiện một chiếc lá đột biến, hay tất tả gọi anh em tôi về xem một chương trình “Thế giới động vật”. Có lần, mẹ ngồi bất động cả giờ đồng hồ, nín thở, chỉ để quan sát hai chú chuột gặm cánh hoa rụng, sợ làm chúng giật mình. Với mẹ, từ côn trùng nhỏ bé đến muông thú khổng lồ, tất cả đều là những biểu hiện thiêng liêng của sự sống, mang trong mình bản năng sinh tồn đáng quý.

Tình yêu hồn nhiên ấy của mẹ, phải chăng được ươm mầm từ tuổi thơ chăn trâu, bắt ngao; hay được tưới tắm từ chính những trang sách mẹ đọc?

Gia tài của mẹ là giá sách đủ thể loại, không chỉ sinh học mà còn văn học, địa lý, thiên văn. Từ những năm cấp hai, tôi đã đọc hết gia tài ấy, có lẽ đã bị hút vào nguồn năng lượng của mẹ lúc nào không hay. Hình ảnh mẹ ngồi lật từng trang sách dưới ánh đèn, lặng lẽ, tỏa ra một thứ ánh sáng dịu dàng của tri thức và lòng nhân hậu. Tôi nhận ra, để tác động đến một con người, lời nói đôi khi không cần thiết. Sự ảnh hưởng đến từ hành động, từ thái độ, từ nếp sinh hoạt bình dị. Nó giản đơn, mà bén rễ sâu xa.

          Tôi lớn lên, và cũng chọn Sư phạm, ngôi trường mẹ từng gửi gắm thanh xuân. Ngày tôi báo tin đỗ đại học, mắt mẹ lấp lánh niềm tự hào. Mẹ nói say sưa về nghề giáo, mẹ bảo nghề này cần nhất là lòng bao dung, là tình yêu thương coi học trò như con ruột.

Rồi một lần, mẹ nhìn tôi thật lâu, dặn dò:

“Con nhớ nhé, ghét thói hư tật xấu, chứ đừng bao giờ ghét con người.”

Câu nói giản dị ấy đi theo tôi suốt cuộc đời. Mẹ đã trao cho tôi một báu vật, chiếc chìa khóa vạn năng để mở cánh cửa bình yên trong tâm hồn, để nhìn thấu bản chất thiện lương ẩn sau mọi lỗi lầm. Đó là tấm khiên bảo vệ tôi khỏi sự đố kỵ, ghen ghét của người đời: sự chân thành, bao dung và ánh nhìn không phán xét.

          Thời gian phủ bạc lên mái tóc mẹ. Bàn tay từng lật giở trang giáo án, từng nắn nót viên phấn, giờ đã hằn những nếp nhăn. Mẹ không còn đứng trên bục giảng. Ký ức về cô giáo trẻ với nụ cười hiền giờ chỉ còn trong tâm trí những học trò cũ. Họ, tóc cũng đã điểm sương, thỉnh thoảng vẫn ghé thăm mẹ, ánh mắt đong đầy thứ tình cảm kính trọng và biết ơn sâu sắc.

Tôi không đếm được mẹ đã gieo bao nhiêu hạt mầm nhân ái qua bao thế hệ. Những bài giảng của mẹ không chỉ là kiến thức sinh học, chúng được viết bằng cả tấm lòng, bằng ánh mắt và nụ cười vị tha.

          Mẹ vẫn sống cuộc đời giản dị như thế, với trái tim luôn đong đầy yêu thương. Có lẽ mẹ không biết, những hạt mầm mẹ gieo ngày ấy đã vươn thành cây, tỏa bóng mát trong tâm hồn bao người. Và trong tim tôi, hạt mầm đó vẫn đang lớn. Nó không chỉ nở hoa, nó trở thành một lăng kính. Cho tôi biết dùng trái tim để cảm thông, và dùng đôi mắt để nhìn thấy vẻ đẹp của sự sống, ngay cả trong những điều bình dị nhất.

Lững thững… và yêu

TÁC GIẢ: BÍCH HẢO

C

ó những buổi chiều, tôi ngước nhìn lên khoảng trời xanh ngắt, thấy vài áng mây trắng lững thững trôi. Lòng bất chợt tự hỏi, mây có cô đơn không, hay mây đang thong dong tận hưởng một cõi tự do riêng mình?

Từ trên cao, mây an nhiên nhìn xuống nhân gian, ngắm dãy núi trùng điệp, biển cả mênh mông và cả những ồn ào, tĩnh lặng của quả đất tròn đang xoay cần mẫn.

          Trái đất cũng lững thững như thế, hàng tỉ năm vẫn nhẹ nhàng quay quanh trục, đều đặn và bao dung. Phải chăng, chỉ có lòng người là vội vã, sốt ruột đếm từng vòng quay, hoảng sợ trước vệt bóng thời gian đổ nghiêng trên mặt đất. Người ta mải miết chơi trò đuổi bắt với thời gian, mà quên rằng thứ duy nhất có thể chạm vào chỉ là khoảnh khắc hiện tại.

Tôi tin rằng sự hiện hữu của mình, của vạn vật, đều là một phương tiện để tình yêu của vũ trụ được biểu đạt. Như đám mây kia, dù bay lơ lửng giữa trời hay một ngày trĩu nặng hóa thành mưa, cũng chỉ là một cuộc chuyển hóa an nhiên.

          Vì thế, tôi chọn làm người đứng bên lề cuộc sống, lặng lẽ quan sát dòng người hối hả ngược xuôi. Tôi không muốn tranh giành một vị trí quan trọng, không muốn chen vào guồng quay danh lợi. Tôi thích ở một mình, trong không gian chỉ có tiếng gió xôn xao, tiếng lá rì rào và nhịp đập của chính trái tim mình. Tôi thích ngắm nhìn xã hội từ xa như xem một cuốn phim sống động, nơi con người mải mê đi tìm cái gọi là “thành công” – một định nghĩa mơ hồ mà mỗi người lại vẽ ra một khác.

          Dù lòng không muốn, nhưng trách nhiệm vẫn cuốn tôi vào dòng chảy chung. Tôi vẫn đi làm, vẫn họp, vẫn cười nói trong những mối quan hệ xã giao. Nhưng sâu thẳm bên trong, tôi biết mình chỉ là cơn gió lướt qua, là chiếc lá sen trôi giữa dòng mà chẳng hề thấm nước. Tôi chạm vào cuộc đời, nhưng không để nó ghì níu tâm hồn.

Tôi đã từng mải miết đi tìm bình yên. Tôi đi qua nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người, va chạm với đủ đầy hỉ nộ ái ố. Mỗi va chạm lại tạo ra một thanh âm, khi bổng khi trầm trong tâm hồn. Để rồi tôi nhận ra, bình yên chưa bao giờ ở cuối một con đường, không nằm ở một nơi chốn hay một con người nào cả. Bình yên vốn đã ở sẵn bên trong, nơi ánh nhìn của ta trở nên thuần khiết, tôn trọng mọi trạng thái của vạn vật mà chẳng so đo, phán xét. Bình yên là khi tâm hồn mềm mại, để tình yêu được tự do trở về với bản chất nguyên sơ của nó.

          Người ta sợ cô đơn, nhưng lại thường nhầm lẫn nó với khoảnh khắc một mình. “Cô đơn” mang theo sự mong đợi, còn “một mình” là một sự độc lập trọn vẹn. Được ở một mình là món quà tuyệt vời nhất, bởi khi đó, ta thật sự lắng nghe và cảm nhận được thế giới nội tâm rực rỡ của chính mình. Những cảm xúc hỉ, nộ, ái, ố cứ thế trỗi lên rồi lại lặn xuống. Chỉ cần quan sát thôi, không níu kéo, không xua đuổi, chúng sẽ tự sinh tự diệt, như mây tụ rồi lại tan.

Trước kia, tôi ngỡ bình yên là khi cuộc sống thôi sóng gió. Giờ tôi hiểu, bình yên thật sự là khi đứng giữa muôn trùng bão tố, lòng mình vẫn tĩnh tại.

          Cuộc đời vẫn như dòng sông, miệt mài trôi. Còn tôi cứ lững thững bước, thong thả như áng mây phiêu du, chẳng biết mình sẽ dừng ở đâu, chẳng hay khi nào sẽ hóa kiếp thành mưa. Tôi thôi không tìm kiếm nữa, bởi tôi biết bình yên luôn ở đây – trong từng nhịp thở, trong ánh hoàng hôn lặng lẽ bên khung cửa, và cả trong những cơn giông tố mịt mùng.

Dòng đời cứ dập dềnh, còn tôi là một kẻ du hành không vội vã. Tôi mang trong mình nhịp thở bình yên, mở rộng trái tim để tình yêu tự do lan tỏa. Tình yêu thấm vào từng tế bào, tan vào đất trời, hòa vào vạn vật. Tôi không làm gì cả, chỉ để cho tình yêu dẫn lối, cứ thế… lững thững… giữa mênh mông đời.

Trong tiếng chuông chùa

TÁC GIẢ: NGUYỄN ÁI

T ôi giật mình tỉnh giấc. Ngoài tiếng mưa tí tách trên mái nhà, tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ, không gian vẫn còn rất im ắng, nghe rõ cả tiếng xào xạc của lá, tiếng gió lướt qua cửa nhà. “Boong…boong”, tiếng chuông chùa trầm ấm từ xa xa vọng lại. Âm thanh quen thuộc gợi về bao suy nghĩ miên man.

Nhớ ngôi nhà nhỏ ở một miền quê trù phú với hoa thơm trái ngọt bốn mùa nơi tôi lớn lên. Trong không gian xanh mát của các loại cây ăn trái, xanh tươi của các loại rau, xanh dập dờn sóng lúa là một ngôi chùa nhỏ. Cứ mỗi sáng sớm, khi tiếng chuông chùa trầm lắng ngân lên giữa không gian tĩnh mịch của màn đêm, tôi lại thức dậy, thắp chiếc đèn dầu học bài.

Chùa làng hồi đó không có sư, chỉ có một bà sãi trông coi hương đèn, lo kinh kệ, lễ lạt. Bà có một người cháu là bạn học với tôi, vì khó nuôi mà đem gởi ở chùa. Trong tiếng chuông chùa, tôi đã có những kỷ niệm ngọt ngào cùng bạn bè về một mùa thi.

Dẫu năm tháng đã phủ bụi mờ lên nhiều thứ, những ngày học cùng nhau trong tiếng chuông chùa như vẫn còn chưa bị che phủ bởi thời gian. Nhớ những ngày ôn thi năm ấy, lũ bạn cùng xóm cùng lớp rủ nhau xuống chùa ngủ lại để sáng sớm thức dậy theo tiếng chuông mà học bài. Cứ đúng ba giờ sáng, bài sãi, cô của bạn tôi mà chúng tôi cũng gọi bằng cô, lại thức dậy, mặc pháp phục, thắp nhang lên các bàn thờ, gõ những tiếng chuông đầu tiên, rồi gõ mõ tụng kinh. Bà nói, với người tu hành, tiếng chuông lời kinh đem lại sự an tịnh cho riêng mình và cầu mong sự bình an đến cho mọi người. Không biết nhờ sự thanh tịnh chốn thiền môn hay sự trợ giúp của Phật Trời mà chúng tôi đều đã vượt qua kỳ thi một cách dễ dàng. Âm thanh trầm ấm của tiếng chuông đã là một phần trong ký ức của tôi.

          Sau này, mỗi khi trong lòng có những tâm sự, những điều lo toan, tôi lại tìm đến cửa chùa dù tôi không phải là một tín đồ. Cửa chùa không hẹp hòi đã cho tôi được ghé lại và tìm một nơi chốn bình an. Trong không gian im ắng và thanh sạch của chốn tu hành, tôi thấy mình như được an ủi để lòng nghe lắng dịu hơn. Mọi muộn phiền như được rũ bỏ và tôi có thể tìm lại sự thoải mái cho tâm hồn. Trong mùi hương trầm, trong tiếng gõ mõ đều đều, trong lời kinh tiếng kệ, tôi như chìm vào những suy tư về cuộc sống. Tôi nhớ những người thân đã đi xa, tự hỏi họ đang ở đâu giữa mênh mông vũ trụ này. Họ đã đi qua cái ngắn ngủi và hữu hạn của kiếp nguời để về chốn nghỉ ngơi. Với tôi, họ như vẫn còn hiện diện dù là trong sự vô hình. Tôi từng nghĩ rằng cái chết là sự kết thúc. Tôi không tin vào sự tồn tại của cái gọi là sự sống sau cái chết cho tới lúc phải đau buồn chứng kiến những người thân ra đi. Khi mà những kỷ niệm, những yêu thương, những lời nói, việc làm, những nụ cười, ánh mắt của người thân vẫn còn nguyên trong tâm trí, làm sao để mình có thể tin được những bóng hình thân thương ấy mãi không còn nữa. Vậy nên, dẫu những hình hài đó đã nằm im dưới lòng đất lạnh, nhưng tôi tin họ vẫn đâu đây bên cạnh những người thân. Chỉ cần tim mình còn đủ yêu thương, họ sẽ ở bên trong những lúc lòng mình chông chênh nhất.

Tôi từng đọc ở đâu đó rằng, trong Phật Giáo, tiếng chuông không phải chỉ để báo hiệu giờ giấc mà nó còn đánh thức tâm linh, cho những linh hồn lầm lạc tìm về nẻo thiện mà tu hành niệm Phật. Với riêng tôi, tiếng chuông như một lời nhắc nhở về sự vô thường của cuộc sống, về sự nhiệm màu của muôn kiếp nhân sinh. Cái sống và cái chết không tách biệt mà đan xen nhau, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào dù một người còn khoẻ mạnh, còn trẻ tuổi. Bệnh tật và những tai nạn thương tâm sẽ đến theo một cách bất ngờ nhất. Khi hiểu ra những điều này, người ta có thể buông bỏ được những sân hận, hơn thua để đối đãi với nhau chân tình hơn để không phải ân hận xót xa khi âm dương cách biệt, khi mọi lời muốn nói, mọi điều muốn làm đều trở nên muộn màng. Những yêu thương chỉ còn trong tâm tưởng, không còn cơ hội để bày tỏ, sẻ chia. Đau xót khi mất đi người thân là điều không tránh khỏi, nhưng sẽ là đau đớn hơn rất nhiều khi nỗi nhớ thương đi cùng với sự ân hận, xót xa, tự trách mình.

          Người cha kính yêu của tôi đã qua đời đột ngột lúc ở gần ngay tôi. Nhiều năm đi qua, tôi không thể vượt qua được cảm giác tiếc nuối, những nhớ thương đến cháy lòng. Nếu nước mắt có thể giúp người ta quay lại thời gian, làm lại những điều đã bỏ lỡ, thì có lẽ Trái Đất này sẽ thêm biết mấy sông hồ. Có lẽ vì vậy mà tôi tìm thấy ở Phật Giáo một sự an ủi, sẻ chia đầy nhân văn. Ngày rằm tháng bảy, dịp lễ Vu Lan báo hiếu, những người còn cha còn mẹ đến chùa để cầu mong cha mẹ bình an, làm công đức để hồi hướng cho cha mẹ. Người cha mẹ đã qua đời cũng có thể làm những việc thiện để hướng về cha mẹ, cầu cho cha mẹ được siêu thoát, bình an ở thế giới bên kia. Tiếng boong boong đều đều không thúc giục, không vội vã khiến người ta như sống chậm hơn, suy tư nhiều hơn về ý nghĩa của cuộc đời. Sự sống bắt đầu từ đâu và linh hồn sẽ về đâu sau cái chết. Biết bao nhiêu là câu hỏi mà mỗi người chúng ta chưa thể tìm ra câu trả lời thoả đáng.

Âm thanh của tiếng chuông hướng con người tới sự thiện lương, để họ biết sống nhân ái hơn, biết chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh, khó khăn xung quanh. Đức Phật cho rằng đời là bể khổ, để làm người ai cũng phải trải qua những khổ đau. Có những khổ đau thuộc về quy luật như sinh, lão, bệnh, tử không ai tránh được, thì có những nỗi khổ đau đến từ bên trong mỗi người. Khi mình biết sống vì mọi người, biết hoà nhập, biết thương yêu, biết bằng lòng với những gì mình có thì cuộc đời không phải là một bể trầm luân mà là khoảng thời gian ngắn ngủi của kiếp người mình có thể cho đi để có thể vui cùng niềm vui của người khác. Chỉ bằng cách nghiêng mình để thấu hiểu với những mảnh đời bất hạnh, những số phận long đong ở xung quanh thì mỗi người mới có thể trân trọng những điều mình có được, để không phải ôm những sầu não không đáng có. Niềm vui của cuộc sống là sự sẻ chia, là trân trọng từng phút giây có được bởi nó rất có thể là giây phút cuối cùng. Cuộc đời của con người dẫu có sống đến trăm năm cũng là quá ngắn ngủi so với sự mênh mông của vũ trụ. Vậy mà những vô thường lại có thể khiến nó dừng lại bất cứ lúc nào. Một người đến với thế gian bằng tiếng khóc và hai bàn tay không. Ngày họ lìa đời cũng không có gì mang theo ngoài những tình cảm tiếc thương của những người ở lại.

          Những tiếng boong boong ấy vẫn ngày ngày ngân lên, vượt qua cánh cổng nhà chùa và vang xa vào từng ngõ ngách của phố xá, làng quê. Âm thanh trầm ấm đều đều vẫn lặng lẽ đi vào lòng người, khơi gợi những điều tốt đẹp, nhân văn nhất. Trong tâm thức của tôi, nó không đơn thuần là một nghi thức tôn giáo mà là một âm thanh của yêu thương và tỉnh thức. Tiếng chuông ấy từng là một kỷ niệm của tuổi học trò, của một miền quê yên bình, vừa nhắc nhở cho tôi nhiều điều về cuộc sống. Âm thanh ấy, cùng với bao thanh âm khác của cuộc sống đã neo giữ cho mỗi chúng ta một tình yêu cuộc sống, thêm trân quý từng phút giây của cuộc đời.

Đèn lồng đỏ trong khu vườn mùa thu

MAI LINH LAN

S ớm nay ra đường, bất chợt thấy gió heo may chạm nhẹ trên tóc, lay khẽ vạt áo. Tôi ngước nhìn bầu trời trong veo như lời ru cũ của bà thuở nào. Thu se sẽ về như thế. Những dịu dàng, mỏng mảnh, mát lành cứ chầm chậm len lỏi vào từng nhịp thở của đất trời. Tôi yêu mùa thu, yêu cả những trái hồng căng mọng, đỏ au, chín rộ vào những ngày trời hanh hao như thế. Bởi có những mùa thu trở về trong ký ức tôi chỉ bằng một màu duy nhất: Màu đỏ lựng của trái hồng chín trong vườn bà.

          Mỗi mùa thu, tôi lại hạnh phúc “nếm” những giấc mơ ngọt ngào trong từng trái hồng. Hồng da tre, đặc sản của mùa thu xứ Trà quê tôi có vỏ xanh mỏng như tơ, mịn như má em bé. Chỉ cần chạm nhẹ đã nghe mùi thơm dìu dịu. Thức quà quý tộc này để tủ lạnh, dùng thìa xúc ăn mát lịm như thạch, vị ngon không giống bất cứ loại hồng nào. Tôi cũng thích hồng đỏ mềm mỗi lần cắn một miếng là vị ngọt tan ngay đầu lưỡi, như dòng sữa mát dịu của đất trời thấm vào tận tim. Hồng giòn lại như tiếng thu gõ cửa, tí tách trong lòng, ăn đến đâu, tôi sảng khoái nghe âm thanh rắc rắc, giòn tan tới đó. Cuối thu, tôi lại mê mẩn hồng sấy: Hương thơm nồng, vị đậm đà, mềm mại.

Những buổi bên hiên nhà xưa cũ, nằm yên trên đùi bà, tôi mơ màng trong giấc trưa. Gió lùa qua kẽ lá. Hồng chín đỏ góc vườn. Lời bà chậm rãi: Các cụ bao đời nay lưu truyền câu nói: “Mùa thu ăn một trái hồng. Một quả hồng bằng mười vị thuốc”. Lời bà như rót mật vào tuổi thơ tôi.
Khu vườn nhà ngày ấy như một miền cổ tích ngọt ngào ru những giấc mơ thơ bé của tôi. Mảnh vườn trước sân dưới bàn tay tảo tần của bà, của mẹ, bốn mùa xanh tươi các loại rau, cây trái. Trong đó, tôi đặc biệt yêu thích cây hồng lặng lẽ nơi góc vườn.

Nơi miền nhớ trong veo, tôi thấy một cô bé lên mười, đang cuộn mình trong tấm chăn mỏng, bỗng bị đánh thức không phải bởi tiếng gà gáy mà bởi một thứ ánh sáng diệu kỳ. Những tia nắng mật ong của sớm mùa thu dường như được lọc qua một tấm voan màu đỏ cam rực rỡ. Tôi dụi mắt, bật dậy nhìn ngoài ô cửa sổ, trên nền trời trong vắt như ngọc, cây hồng trước sân đã bừng tỉnh. Hàng trăm quả hồng chín mọng đang đung đưa tựa như một lễ hội đèn lồng nhỏ được ai đó thắp lên dành riêng cho tôi. Khoảnh khắc ấy, lồng ngực tôi như có hàng trăm quả hồng chín cùng lúc vỡ òa ra. Tôi reo lên: “Bà ơi, hồng chín rồi!”.

          Và cứ thế, tôi lao ra khỏi giường, đôi chân trần trên nền gạch đỏ, chạy ào đi tìm bà như một ngọn gió nhỏ, háo hức muốn chia sẻ phát hiện vĩ đại của mình.Bà đang ở dưới bếp, lúi húi bên nồi bánh sắn bốc khói nghi ngút. Mùi thơm ngọt bùi của sắn quyện vào không gian. Nghe tiếng tôi, bà quay lại, tay vẫn còn vương chút bột trắng, đôi mắt ánh lên nụ cười hiền từ. Bà biết cháu gái bà đang mong chờ điều gì. Thong thả, bà rửa tay, bước chậm ra vườn. Tôi tung tăng chạy sau, cắp chiếc rổ tre lắc nhẹ bên hông như gõ nhịp theo niềm vui thơ trẻ. Miệng tôi thì không ngừng ríu rít về những “chiếc đèn lồng” ngoài vườn.

Cây hồng rung rinh trong nắng sớm như chào đón. Tôi đứng ngây người dưới tán lá đã ngả màu vàng úa, ngước nhìn lên. Cây hồng này, tôi biết nó còn lớn tuổi hơn cả chị em tôi. Thân cây xù xì, mốc thếch, hằn lên những dấu vết của bao mùa mưa nắng. Lòng tôi nhảy múa khi thấy từ thân cây già cỗi ấy, từng cành lá lại vươn ra kiêu hãnh, treo lủng lẳng trên đó là cơ man nào là quả. Hồng chín sau bao ngày nắng gió, âm thầm chắt chiu đủ nồng nàn của đất trời. Như lời hứa ngọt lành giữa mùa hanh hao.

          Tôi say sưa ngắm bà diện chiếc áo bà ba màu bã trầu, mái tóc trắng phơ phất, khuôn mặt hiền hậu, mà cứ tưởng tượng đó là bà tiên giữa đời thường. Đôi bàn tay gầy guộc của bà nhẹ nhàng, dứt khoát hái từng quả hồng chín mọng, đặt vào rổ. Chỉ đến khi bà nói: “Năm nay hồng sai và quả to hơn nhiều so với năm trước”, giọng đều đều, ấm áp yêu thương như tiếng thu, tôi mới bừng tỉnh. Tôi bê rổ hồng trên tay, cẩn thận như đang ôm một báu vật. Tôi được bà hướng dẫn rửa sạch và dâng lên thắp hương tổ tiên.

          Những ngày thu êm đềm, trong tiết trời lành lạnh những năm ấy, lòng tôi hân hoan đón chờ khoảnh khắc bà chậm rãi lấy quả hồng chín đỏ, mềm mịn như da em bé bảo cháu ăn đi.
Và bà kể chuyện cho tôi nghe về sự tích cây hồng vườn nhà. Cây hồng đã gấp hai tuổi tôi. Nó không phải giống hồng thường mà là một kỷ vật, một lời hẹn ước. Người tặng nó là ông Điểm – bạn chiến đấu vào sinh ra tử với ông nội tôi trên mặt trận biên giới phía Bắc. Giữa lằn ranh sinh tử nơi chiến trường, giữa cái lạnh cắt da của núi rừng, hai người lính trẻ đã hứa với nhau, ngày đất nước yên bình, họ sẽ về thăm nhau, mang theo sản vật quý nhất của quê hương mình làm quà. Nhưng đó mãi mãi là lời hứa.

Ông nội tôi đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường lạnh lẽo. Vài năm sau ngày hòa bình, ông Điểm lặn lội từ Lạng Sơn, tìm về tận nhà tôi. Ông không mang theo gì cao sang, chỉ có một cây hồng giống nhỏ xíu, bọc trong lớp vải dù cũ. Ông nói, đây là giống hồng ngon nhất xứ ông, ông mang về để trồng trong vườn nhà bạn, coi như người bạn già của ông vẫn còn đây, vẫn thấy mùa thu quê nhà kết trái ngọt.

          Bà tôi đã nhận lấy cây giống như nhận lấy một phần sinh mệnh của người đã khuất. Bà cùng bố tôi tự tay đào đất, vun trồng cây hồng nhỏ bé ấy ở góc vườn. Cây hồng mang theo tình đồng đội thiêng liêng và sức sống mãnh liệt của núi đá, cứ thế bám rễ sâu vào lòng đất mẹ, chẳng cần chăm bón cầu kỳ. Cũng chẳng ngại nắng mưa, sương giá. Nó cứ vùn vụt lớn lên, sẵn sàng đơm hoa kết trái như thể đáp lại tình người gửi tặng.

          Cây hồng không những trở thành biểu tượng của tình đồng đội mà còn giúp gia đình tôi có bao mùa thu hạnh phúc, ngọt ngào. Sau ba mùa thu về nhà tôi, cây hồng đã cho quả và càng những năm về sau, quả càng sai trĩu, to mọng, ngọt hơn. Cũng nhờ cây hồng, gia đình tôi có thêm chút thu nhập vào mỗi vụ thu. Mọi người trong làng đều xuýt xoa: “Chưa thấy ai trồng được giống hồng vừa đỏ, vừa mềm, lại ngọt lịm như thế!”

          Ngồi bên bà, nghe bà kể chuyện, tay bóc vỏ từng quả hồng ăn, cảm nhận vị ngọt mát thấm vào đầu lưỡi, lòng tôi ấm áp lạ thường. Trong tâm hồn non nớt, tôi cảm nhận những trái hồng đỏ chính là món quà hạnh phúc mà bà dành cho tôi. Mỗi lần ăn miếng hồng mềm, ngọt, mát dịu mà bà đưa cho, tôi đều ngập tràn vui sướng, cứ hít hà mãi vị ngọt của món quà kỳ diệu.

Lứa hồng lộc đầu vụ, bà chọn phần đẹp nhất để thắp hương và biếu họ hàng. Những lần sau, bà xếp hồng quẩy gánh mang ra chợ bán. Tôi lũn cũn theo sau bà, phụng phịu: “Cháu ăn hồng cả cây không chán, cháu không muốn bán bà ạ!”. Bà nhanh nhẹn gồng gánh hai thúng hồng trên con đường nhỏ men giữa cánh đồng lúa chín vàng, không quên ngoảnh lại dỗ dành tôi: “Út ngoan, hồng nhà mình ngon lắm, phải chia sẻ cho nhiều người được thưởng thức nữa. Và nhất là, bán hồng để lấy tiền đong gạo về cho Út ăn cơm trắng và mua sách vở đi học chứ”.

Trên đường đi, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp người quen: “Hồng nhà bà năm nay lại được mùa, quả nào quả nấy đỏ au, nhìn đã thấy ngọt rồi!”. Bà mỉm cười, nụ cười mộc mạc và mãn nguyện. Tôi đi bên cạnh, lòng chợt thấy hãnh diện lạ kỳ.

Thời gian trôi qua thật nhanh, mang theo những kỷ niệm yêu thương về người bà đã khuất. Tôi lớn lên, rời xa quê nhà, đi học, đi làm, cuốn vào những vòng quay của cuộc sống hiện đại. Thỉnh thoảng, mẹ vẫn gửi lên cho tôi một thùng hồng nhỏ. Vị hồng vẫn ngọt như xưa, nhưng phảng phất một nỗi nhớ nhung da diết.

Bây giờ, mỗi lần trở về nhà, đi ngang qua vườn, tôi lại ngẩn người nhìn cây hồng cũ. Nó đã già đi nhiều, lá thưa hơn, cành cũng sần sùi, mốc thếch hơn xưa, nhiều cành đã khô mục. Nhưng thật kỳ diệu, cứ mỗi độ thu về, những quả hồng vẫn rực lên một màu đỏ ấm. Như thể có một nguồn sống mãnh liệt vẫn chảy trong thân cây già cỗi. Như có bàn tay ấm áp của bà vẫn lặng lẽ mỗi ngày vun trồng và chăm chút. Và như thể tình đồng đội của ông vẫn âm thầm chảy trong từng thớ gỗ, để nhắc nhở về một lời hứa không bao giờ phai.

Đứng thật lâu dưới tán hồng, như đứng giữa một khoảng trời cũ, tôi vẫn nghe đâu đây tiếng bà thủ thỉ kể chuyện, thấy nụ cười hiền và cả những ngày thơ bé dịu dàng như gió. Với tôi, quả hồng không chỉ là một thức quà quê. Nó là quả của thương yêu. Là ngọn lửa âm thầm cháy mãi trong khu vườn thân thương.

          Bất giác, tôi cầm trái hồng, cảm nhận sức nặng ngọt ngào trong bàn tay và mỉm cười mơ màng áp lên má. Tôi biết, có một trái hồng chín đỏ, như ngọn đèn lồng nhỏ không bao giờ tắt, vẫn luôn được bà thắp lên từ những mùa thu năm ấy, soi sáng cho tôi con đường ấm áp đi suốt cuộc đời. Để mỗi khi lạc bước giữa phố thị ngược xuôi, tôi vẫn tìm thấy lối về khu vườn thơm ngọt, rực đỏ ngày xưa…

Những chuyến xe đò

N hững năm 198x, 199x, phương tiện giao thông chưa phong phú và sẵn tiện như bây giờ. Đọng trong ký ức nhiều người thuở ấy là những chuyến xe đò. Xe đò hay xe hàng, người miền Nam, miền Trung quen gọi như thế, là loại xe chạy bằng than. Và sơn sọc xanh sọc đỏ sọc cam khá lòe loẹt.

          ​Sở dĩ gọi xe đò vì có lẽ thời xưa quá ít phương tiện đi lại, nên các chuyến xe nội tỉnh, ngoại tỉnh rất thưa thớt, hành khách đợi xe “lâu như kêu đò”. Còn tên gọi xe hàng thì dễ giải thích hơn. Dù xe dùng để chở khách, nhưng trên trần xe, trong khoang xe đều chất thêm rất nhiều mặt hàng, nên người ta hay gọi xe hàng.

          Nhiên liệu xăng dầu khan hiếm nên người ta chế tạo xe chạy bằng than. Đó là sáng kiến cải tiến những chiếc xe Renault (của Pháp) thời bao cấp. Thùng than nóng hầm hập phía sau tạo ra khí “ga”. Dòng khí đốt này dẫn tới bộ hòa khí nổ máy bình thường như xăng nhưng thời gian nung nóng cho tới lúc bốc khí ga khoảng một giờ. Vì vậy, xe đò kiểu này thường được gợi là xe Đờ Nôn hay xe than.

          Việc đi lại từ quê đến phố, vì thế, hết sức khó khăn. Muốn đi, ai cũng phải lo xếp hàng mua vé. Mà tại các bến xe, nhân viên bán vé theo thứ tự ưu tiên: những cán bộ nhà nước, rồi mới đến học sinh, sinh viên và sau cùng mới đến người dân. Người ta muốn đi phải đi tới bến xe thật sớm, có khi trước cả hai, ba giờ đồng hồ, xếp hàng. Sau một hồi sắp hàng chen lấn thì đám sinh viên cũng có được tấm vé ở hàng ghế chót, ngồi sát bình than nóng hầm hập.

          ​Tôi nhớ con đường chính nối thị xã Tam Kỳ (Quảng Nam) với các huyện Tiên Phước, Trà My… thời ấy, mỗi ngày khoảng 4 -5 chuyến xe chạy lên và xuống. Mỗi xe thường có bác tài, bà chủ thu tiền và chàng lơ xe (phụ xe). Tố chất quan trọng của phụ xe là phải lanh lẹ và khỏe mạnh để mời khách lên xuống xe, khiêng chất xếp các loại hàng, đặc biệt những mặt hàng khối lượng nặng như bàn ghế, gạo, các loại gia súc gia cầm và nông sản miền núi, trung du, … Khi chạy qua đoạn đèo dốc hoặc ổ voi ổ gà, xe vồng lắc lư thì vang lên với tiếng heo eng éc, tiếng gà oác, tiếng vịt cạp cạp.

          Mặt khác, tới những đoạn đèo dốc, những anh chàng phụ xe lấm lem nhớp nháp còn kiêm thêm nhiệm vụ… phụ thắng. Là vì các loại xe đò ngày xưa, hệ thống thắng ít đảm bảo, nên khi xe lên dốc, phụ xe phải cầm một đòn kê bằng gỗ hình tam giác vừa bu sau xe, vừa cầm hờ khúc kê để nếu xe tuột thắng thì nhảy xuống kê ngay vào bánh! Nên ngày xưa, những đoạn đường nhiều đèo, dốc thường rất hay xảy ra tai nạn. Kể lại chuyện cách đây vài chục năm, có thể khiến nhiều người rùng mình.

          Dân gian xứ Quảng có câu “Hắn chạy đến Huế rồi!”, để chỉ ước lệ Huế là nơi rất xa trong tưởng tượng (có lẽ do kinh đô triều Nguyễn nơi đây; người ta đi học, đi thi và ra làm quan cũng ở đấy). Tôi đậu Đại học ở “nơi xa nhất” đó. Con đường đi học của tôi từ huyện Tiên Phước, Quảng Nam đến Huế khoảng 200km. Thời sinh viên của tôi gắn liền với những chuyến xe đò và phải đổi xe nhiều chặng mới ra đến cố đô:

Tiên Phước – Tam Kỳ; Tam Kỳ – Đà Nẵng; Đà Nẵng – Huế. Đi mấy chặng từ sáng sớm tới chiều tối mới đến. Những con đèo đã trở thành huyền thoại với bao khúc ngoặt như khuỷu tay: Hải Vân, Phú Gia, Phước Tượng, đối với tụi sinh viên thì chẳng có gì đáng ngại, nhưng với các o các mệ thì nguy hiểm vô cùng. Nhớ mỗi lần xe uốn lượn rẽ ngoặt gấp hoặc chết máy lưng chừng dốc, anh tài phụ nhảy xuống hờ hờ mấy khúc kê gỗ chỗ bánh sau thì mấy mệ liên tục chắp tay niệm Phật.

          Tôi nhớ cái mùi xe than đặc biệt khó tả: mùi mồ hôi, mùi gà vịt, mùi mắm cá các loại cuộn trong sự chật chội của xe. Những lúc say xe, cái mùi ám ảnh khiến người ta dễ bị nôn nhất là bánh mì xíu hòa trong cái mùi tổng hợp đó. Và hiệu ứng lây lan cảm giác say xe là điều nhiều hành khách sợ hãi, đặc biệt lúc xe chật, có khi phải đứng chen chúc vì không còn sự lựa chọn…
​Giờ đây, phương tiện vận tải khá phong phú và chất lượng phục vụ tốt hơn xưa rất nhiều. Tàu hỏa, xe khách, taxi, grab… mọi người tùy điều kiện mà lựa chọn. Việc đi lại cũng khá dễ dàng và không tốn quá nhiều thời gian như xưa. Nhưng những chuyến xe đò ngày trước vẫn đọng lại trong nhiều người cảm xúc đẹp.

          ​Ký ức của chúng ta, đôi khi ánh lên như viên kim cương tỏa ra thứ hào quang vô cùng ấm áp. Hồi ức về những chuyến xe đò một thuở xa xăm chợt hiện về sống động khi ai đó nhắc đến, hay những người luống tuổi, ngồi với nhau bên ấm trà ôn lại chuyện xưa.

Hát những giai điệu yêu thương

T huở còn thơ dại, tôi là đứa trẻ rất thích hát, hát một cách đầy bản năng. Những khúc ca không đầu không cuối, đôi khi chẳng rõ lời, cứ thế theo tôi trên từng bước chân, từng buổi chiều và bất cứ ở nơi đâu tôi cũng có thể hát. Hát những giai điệu yêu thương.

      Lên bốn tuổi thì tôi rời xa vòng tay bố mẹ, về quê Hải Phòng sống cùng ông bà nội và chú út trong những năm tháng tuổi thơ. Tôi không biết âm nhạc là gì, nhưng mỗi lần cất giọng, lòng tôi như dịu lại. Mọi nỗi buồn non nớt tựa cánh diều rơi dường như chợt tan đi trong một nốt ngân. Phải chăng âm nhạc còn là niềm an ủi, vỗ về, nuôi dưỡng tâm hồn cho con người.

      Khi đó, tôi còn quá nhỏ để hiểu hết nỗi thiếu vắng, nhưng có thể cảm nhận được một khoảng trống âm thầm đang mở ra trong lòng như cánh đồng mùa gặt vừa xong, rộng và trơ trọi. Với tôi, tiếng hát khi ấy không phải để hay, mà là cách duy nhất để tôi có thể ôm lấy chính mình trong một thế giới rất rộng và lạ, giữa những tháng ngày thiếu vắng vòng tay bố mẹ.

      Ban ngày, ông bà ra đồng sớm, chú út đi học xa. Ngôi nhà ba gian im lìm, chỉ còn tôi lặng lẽ một mình. Tiếng hát của tôi cho dù non nớt, nhưng đã trở thành người bạn vô hình, nắm tay tôi qua những chiều đơn độc, những sáng mong ngóng bước chân ông bà trở về từ đồng xa.
Có những buổi trưa lặng gió, tôi ngồi ở bậu cửa, chống tay vào cằm, mắt nhìn xa xăm qua vạt nắng nghiêng, và hát. Rồi có những buổi chiều nắng vỡ tung trên thềm gạch, tôi thả mắt ra khoảng trời nhàn nhạt phía trước, nơi đàn chim sẻ nhỏ vừa sà xuống rồi vụt bay đi. Khi ấy, không biết làm gì hơn, tôi lại cất tiếng hát. Âm thanh nhỏ nhoi ấy vang lên trong khoảng trống vắng của ngôi nhà, nhẹ như hơi thở, nhưng đủ để tôi cảm thấy không còn lẻ loi nữa.

      Chú út dường như thấu hiểu niềm yêu thích âm nhạc nên đã dạy tôi những bài hát, chú còn dạy tôi chơi đàn. Tôi rất nhớ và thuộc làu một bài hát. Lần đầu tiên tôi hát được trọn vẹn cũng như giai điệu một bài, “Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh”.

      Có lúc, tôi vừa đi vừa hát giữa con đường quê thênh thang, cánh đồng lúa vàng hoe nắng cháy. Tiếng hát vang lên xua đi cái nắng rát bỏng trên da. Đó là tiếng hát của tuổi thơ, của những buổi trưa rong chơi cháy bỏng, của những cảm xúc nguyên sơ và cả những nông nổi đầu đời nhưng rực rỡ như bao mùa phượng đỏ.

     Lớn lên, tôi vẫn giữ thói quen hát như một phần tất yếu của đời sống. Dù là khi đứng bên bếp lửa đang reo, tay đảo nồi cơm sôi, hay cả lúc khom người cho lợn ăn mỗi chiều. Đến khi lập gia đình, tôi mới thật sự thấm thía một điều tưởng như đơn giản ấy. Âm nhạc và lời ca không chỉ để vui, để yêu, mà còn để chữa lành. Nó là thứ thuốc vô hình, xoa dịu những vết xước và những tổn thương trong tâm hồn của con người. Âm nhạc với tôi như hơi thở vậy, có những ngày mệt mỏi, tôi chỉ cần nghe một bài hát cũ. Câu hát ngân lên, như thể ai đó vừa nhắc tôi rằng: “Mọi chuyện rồi sẽ qua.”Một người cha ru con ngủ bằng tiếng hát khe khẽ. Một người con gái thẫn thờ hát giữa đồng vắng. Một cụ già vừa tưới rau vừa ngân nga câu vọng cổ. Có lẽ ai trong chúng ta cũng từng hát, không phải để ai nghe, mà để lòng mình bớt cô đơn.

      Tôi đã chứng kiến điều ấy từ bố vợ tôi, người đàn ông cao lớn, điềm đạm, cả đời làm khoa học và sống bằng lý trí, nhưng lại có một tâm hồn nghệ sĩ ẩn trong những câu hát dịu dàng. Bố vợ tôi không may bị bệnh bạch cầu ở tuổi xế chiều trong lúc vẫn còn đang làm việc trong viện nghiên cứu khoa học. Từng ngày một bệnh tật lấy đi sức lực của bố, nhưng tôi thấy rõ gương mặt và sự can đảm, dù hơi thở đã mỏng như khói sương, ánh mắt đã mờ dần theo từng đợt thuốc truyền, nhưng ông vẫn luôn nở nụ cười và khe khẽ cất tiếng hát khi một mình.

      Rồi bố tôi sang Đức, lúc đó bệnh tình trở nên nghiệt ngã hơn. Căn bệnh máu trắng, cái tên nghe lạnh buốt, không bao giờ hứa hẹn, vẫn không thể khuất phục được bố. Hai năm sống cùng gia đình nhỏ của tôi, bố vẫn giữ cho mình thói quen dậy sớm, mở radio, nghe nhạc và hát khe khẽ. Sau đó bố tôi vẫn làm việc. Ngoài tiếp tục nghiên cứu công trình khoa học, bố còn ra đề thi cho trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội.

      Những sớm mùa đông, khi tôi ngồi trong bếp nấu nước, thường nghe thấy giọng bố tôi ngân lên theo một bản nhạc tiếng Anh xưa cũ. Giọng bố run run, đôi lúc đứt quãng, như thể từng nốt nhạc cũng đang chống chọi với sự đau đớn và cái chết. Nhưng với tôi, mỗi câu hát ấy như một lời thì thầm: “Bố tôi sống… thêm được một ngày nữa…”

      Mỗi khi tôi vào phòng tôi lại nghe được tiếng hát của bố, giọng hát mong manh như sợi tơ trời. Bố không bao giờ than thở, không muốn ai nhìn thấy sự yếu đuối của mình. Mệt đến mấy, bố vẫn gượng dậy âm thầm nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa, như thể ông vẫn còn nguyên vẹn sức lực của một người khỏe mạnh. Một buổi chiều, tôi đi làm về và bắt gặp bố đang giặt áo cho tôi dưới vòi nước lạnh, đôi bàn tay gầy guộc tím tái trong làn nước. Bố vợ tôi vừa giặt vừa hát. Tôi chạy đến, nghẹn ngào:- Bố à… bố đừng làm nữa, bố rất mệt rồi..! Tôi thấy mình ứa nước mắt từ lúc nào mà không biết. Đáp lại lời tôi bố nói. ”Tớ thích làm cho cậu, cậu yên tâm nhé!”

      Bố vợ tôi dù bệnh nặng, nhưng những ngày cuối đời vẫn miệt mài bên trang giấy, những đề thi tiếng Anh vẫn cặm cụi ngồi soạn, những sổ tay nghiên cứu gạch ghi chi chít. Bố vẫn cất lời ca theo những bài hát ở Radio. Bố vợ tôi sống như chưa từng biết đến giới hạn của sự sống. Cống hiến như thể thời gian vẫn còn rất dài, dù từng khoảnh khắc đã tính bằng giờ, bằng phút.

      Ngày bố vợ tôi mất, thế giới như chùng xuống, lặng đi một nhịp. Không còn tiếng nói cười thường nhật, trong tôi chỉ còn sự im lặng đặc quánh, như làn sương đọng lại trên mi mắt, khiến lòng không thôi thổn thức. Bố ra đi nhẹ như chiếc lá rời cành khi mùa thu khép lại sau một đời xanh mướt, hiền lành, và trọn vẹn.

      Bố tôi không phải là người thích nói nhiều về bản thân. Nhưng ông để lại một di sản không dễ gì phai mờ, một đời cống hiến cho khoa học, cho đất nước, cho những lớp học trò chưa một lần chạm tay mà vẫn kính phục. Tiến sĩ Trần Hợp Thanh, không chỉ là một nhà khoa học tận tụy, mà còn là một người cha, một người thầy, một người đàn ông biết sống bằng trái tim và bằng tiếng hát.

      Tiếng hát của bố vợ tôi không phải là bản nhạc cầu kỳ, mà là những câu hát mộc mạc, nhỏ nhẹ cất lên giữa gian bếp sớm, giữa sân nhà chiều gió, và trong căn phòng lạnh giữa những ngày bệnh tật. Mỗi câu ca ông cất lên như một giọt sương rơi vào lòng đất nứt nẻ, khiến tâm hồn người bên cạnh trở nên dịu lại, ấm áp.

      Âm nhạc không thay đổi được số phận, nhưng nó làm cho số phận ấy trở nên đáng sống hơn, âm nhạc là cây cầu bắc qua những khoảng lặng, là nhịp thở nối giữa người với người. Tôi hát như thể chạm tay vào tuổi thơ xa ngái, nơi mái ngói rêu phong của ngôi nhà ông bà nội, nơi trái tim non nớt của một đứa trẻ bốn tuổi đã biết thế nào là nỗi nhớ mẹ cha. Tôi hát để nhớ một người cha vợ đáng kính, người từng dạy tôi rằng: sống là phải biết rung động, ngay cả trong khổ đau. Tôi hát để nhớ đến chú út, người dạy tôi từng nốt nhạc đầu tiên.

      Tôi hát không phải vì mình hát hay, mà vì trong từng giai điệu, tôi thấy lại chính mình, mềm mại, biết ơn, còn đủ yêu thương để sống tiếp giữa một cuộc đời nhiều mất mát. Hát để biết rằng lòng mình chưa khô cạn. Hát để cảm ơn cuộc đời, dù đôi khi thật mỏi mệt, vẫn còn đẹp, vẫn còn đáng để yêu thêm lần nữa…

      Mai này con tôi lớn lên, tôi chẳng mong con phải hát hay, càng không mong con được nổi tiếng. Tôi chỉ mong, khi buồn, mỏi mệt, hay thấy lòng chùng xuống giữa những tháng năm bấp bênh… con vẫn còn có thể hát. Một câu thôi cũng được…Để thấy lòng mình dịu lại. Để thấy đời vẫn đáng sống. Để nhớ rằng, trong mỗi người chúng ta, luôn có một bài hát cất lên từ nơi sâu thẳm nhất của yêu thương.

CÙNG MỘT TÁC GIẢ

Đời nến

K

ý ức con người là một thứ vô cùng đặc biệt. Nó có thể được khơi dậy và tái hiện ở bất cứ thời điểm nào bởi cả năm giác quan: nghe, ngửi, nếm, sờ, nhìn. Một giọng nói, âm thanh quen thuộc. Một mùi hương quen thuộc. Một mùi vị quen thuộc. Một cảm giác quen thuộc hoặc có thể là một hình ảnh quen thuộc cũng đủ để gợi nhắc và gọi về cả một bầu trời ký ức. Và cũng bởi vì thế, khi ta còn sống, ký ức vẫn sẽ luôn tồn tại.

     Một buổi sáng cuối Xuân, khi tiết trời vẫn còn vương vấn chút ẩm ướt và se lạnh còn sót lại, tôi ngồi bên ấm trà, đọc dở cuốn sách có tên Những Ngọn Nến Cháy Tàn của Márai Sándor. Và thật kỳ lạ làm sao, vào lúc ấy, tôi đã tưởng tượng ra xung quanh mình hình như có mùi nến cháy.

     Tất nhiên nó không phải là mùi nến thơm mà bây giờ người ta vẫn hay sử dụng. Đó là một thứ mùi khen khét, nồng nồng rất khó diễn tả của những cây nến thường có hai màu trắng và đỏ mà chúng tôi đã từng dùng rất nhiều khoảng hơn chục năm trở về trước.

     Mùi hương thoang thoảng ấy đã dẫn dắt ký ức của tôi trở về với những buổi tối tuổi thơ ngồi dưới ánh nến. Ấy là những năm đèn đường còn thưa thớt, hệ thống điện chập chờn, khu phố nhà tôi thường xuyên bị mất điện vì quá tải. Ngày ấy, không có nhiều nhà cao tầng và tất nhiên các hộ gia đình cũng không cổng kín tường cao như bây giờ. Chỉ cần mất điện, ngay lập tức có thể sẽ nghe thấy rất nhiều giọng nói vang lên cùng lúc: “Ơ, mất điện rồi à!”; “Chán thật, vừa mới cắm được nồi cơm”; “Thế là hôm nay không được xem phim rồi” cùng với những tiếng thở dài chậc lưỡi… Và rồi chỉ vài phút sau: bóng tối dần xua tan bởi ánh nến. Hồi ấy, rất ít những gia đình có máy phát điện. Chúng tôi khi ấy nhà ai cũng phải dự trữ sẵn một vài cây nến trong nhà dùng để thắp vào mỗi dịp như thế này và cứ mỗi lần như vậy, cả dãy phố nhà tôi giống như một bức tranh sống động lung linh hiện lên trong ánh nến.

     Ngọn nến soi tỏ, hắt lên tường những hình thù ngộ nghĩnh mà lũ trẻ chúng tôi thường cùng nhau đùa nghịch. Mấy anh chị em cùng thi nhau trỏ lên tường, đứa thì khoe mình đang tạo bóng con thỏ, đứa lại nói mình đang tạo bóng hình con chim, con chó … Lúc ấy tôi còn nghịch dại, tranh thủ vân vê những giọt sáp nến nóng chảy chưa kịp đông lại để nặn thành đủ thứ hình dạng mặc cho hơi nóng bỏng rát cả tay. Tuổi thơ tôi cứ như thế, lần lượt được hiện ra sắc nét dưới ánh nến trong mùi nến cháy thân thuộc.

     Gia đình tôi nấu cơm bằng thứ ánh sáng mờ mờ ấy, quây quần ăn cơm cùng nhau cũng dưới ánh lửa yếu ớt bao trùm. Hồi bé, có lẽ đứa trẻ nào cũng sợ mất điện vì sợ tối, sợ sẽ không được xem những chương trình ti vi yêu thích nhưng thực ra khi lớn lên rồi, nhiều khi nghĩ lại chỉ thèm muốn một cảm giác ấm áp và quây quần như thế. Dưới ánh nến, bữa cơm còn chả nhìn rõ món gì với món gì mà vẫn ăn vội ăn vàng, vui vẻ. Dưới ánh nến, người ta chẳng còn mỗi người một công việc như ngày thường, chỉ tập trung cùng nhau ngồi trò chuyện rôm rả để giết thời gian chờ đến khi có điện. Hàng xóm quây quần, anh em ríu rít.

     Mỗi một dịp đến Tết Trung Thu, trẻ con chúng tôi đứa thì xách theo đèn lồng tự chế từ các hộp xà phòng, giấy bìa, lon nước, đứa có điều kiện hơn thì được bố mẹ mua cho đèn ông sao, con cá. Nhưng hầu như các loại đèn ấy đều thắp sáng bằng lửa nến, và là loại nến cây truyền thống chứ không giống như những thứ đồ chơi rực rỡ ánh đèn như bây giờ. Nhiều năm trôi đi, những ánh nến cứ tưới tắm lên tuổi thơ của chúng tôi những ngọn đèn kì diệu và huyền ảo dưới vầng trăng cổ tích để rồi cho đến tận bây giờ, ánh đèn ấy thi thoảng vẫn xuất hiện trong giấc mơ của những chàng trai, cô gái đã lớn khôn.

     Chúng tôi cứ thế lớn dần lên, những ánh nến ngày đó cũng dần dần được thay thế bằng ánh đèn hoặc các loại nến thơm, nến cốc khác. Tuổi thơ chúng tôi cũng lùi xa từ lâu cùng với những điều đã trở thành quá vãng. Đời nến cũng giống như đời người. Kể từ thời khắc được thắp sáng, ánh nến chứa đựng cả những hào quang rực rỡ xen lẫn giữa những tiếc nuối bi ai của sự lụi tàn ngắn ngủi. Khi ngồi trước ánh nến, với tuổi trẻ là niềm thích thú hiếu kì trước ánh lửa bập bùng như đang nhảy nhót đùa vui, với tuổi trưởng thành lại là sự chững chạc tĩnh lặng, quan sát một cây nến còn đang cháy dở mà cứ ngỡ như đang được chứng kiến, thấu tỏ cả một cuộc đời.

     Ngồi trong một căn phòng trước ánh nến, có đôi lúc tôi bỗng giật mình thảng thốt, chợt nhận ra, những cây nến của ông, của bà, của bác tôi đều đã lụi tàn và cháy hết. Thay vào đó, trên bầu trời lại xuất hiện thêm một vài ngôi sao mới. Tôi lặng nhìn những cây nến còn lại đang cháy dở với đủ kích thước dài ngắn khác nhau, có lẽ, chúng đều đã và đang cháy hết mình cho một cuộc hành trình ý nghĩa. Những cuộc hành trình đầy đủ thăng trầm…

Những ánh trăng quê

N hìn ánh trăng chảy tràn trrên khắp đường làng ngõ xóm, tôi bần thần tự hỏi, trăng có tự bao giờ, trăng có trước hay loài người có trước. Trăng từ ngày đã đi vào thơ ca nhạc họa, đi vào đời sống của người làng quê chúng tôi.

     Ông bà cụ kỵ tôi sinh ra đã có ánh trăng rồi. Tôi lớn lên đã có trăng đi vào trong lời ru ngọt ngào của bà của mẹ. Trăng đã ở trong truyện cổ tích, đưa tôi vào những giấc mơ kỳ diệu.Tự ngàn xưa trăng đã là bầu bạn của loài người, hay ít ra cũng là nơi quê hương yên lành của làng quê tôi.

Có những hôm trăng tròn như cái mâm bằng bạc nhô lên khỏi dãy núi đàng đông. Trăng nhô lên khỏi ngọn tre, đúng trong nhà nhìn ra cứ tưởng những ngọn tre cong như chiếc cần câu đang treo cái đèn lồng rực rỡ. Ánh trăng ngời ngời rải một màu vàng lên trên nền trời bắt đầu sẫm lại. Một thứ ánh sáng huyền diệu thả xuống làng quê đang chuẩn bị bữa cơm chiều muộn.

     Mẹ dọn cơm ra sân, ánh trăng thay ánh đèn dầu rọi sáng khắp sân nhà. Cả nhà quây quần bêm mâm cơm, bao nhiêu chuyện trong ngày các con đua nhau kể, bữa ăn mới thú vị làm sao. Trăng trung tuần vời vợi, ăn cơm xong anh em chúng tôi kê chiếc chõng tre ra sân nằm ngữa nhìn trăng. Hình cây đa chú Cuội rõ mồn một. Bài hát đồng dao “ Chú Cuội nằm gốc cây đa, bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời, tối về cha đánh ba roi, đánh xong rồi lại bắt ngồi trông trâu.”. Mấy đứa lại xuýt xoa thương cho chú cuội, quanh năm suốt đời không được học hành vui chơi mà chỉ quanh quẩn bên gốc cây đa chỉ có chị Hằng làm bầu bạn.

     Ngày mùa ở nông thôn trăng là bạn bè thân thiết. Cơm tối xong cha rủ lúa bông ra sân để trục. Chúng tôi tha hồ chạy nhảy lên sân lúa đang nguyên hạt, tiếng hạt lúa rụng sào sạo dưới những đôi chân trần nhỏ bé. Ánh trăng theo vòng quay cót két của cái trục đá làm cho ánh sáng loang loáng như những tia chớp hắt ngược lên bầu trời cao tít đầy sao. Đêm trăng sáng đội sản xuất tổ chức sinh hoạt, mọi người ngồi dưới ánh trăng, bên ấm nước chè xanh điếu thuốc lào thi nhau nhả khói.

     Trung thu không những là niềm háo hức đợi chờ của bọn trẻ mà còn là niềm vui của người lớn. Cha tôi ngồi tỉ mẩn tì mần trau chuốt từng cái nan tre. Mẹ đi chợ mua mấy tờ giấy màu. Cha cắt dán cho tôi cái đèn lông xinh xinh. Trung thu ánh trăng sáng vằng vặc, bọn trẻ con tập trung rước đèn lồng vòng quanh đường làng ngõ xóm. Tiếng trống ếch vang vang, ánh trăng rung rinh theo nhịp chân nhịp nhàng của trẻ nhỏ. Trăng đồng hành cùng bọn trẻ chúng tôi, soi rõ từng bước chân nhỏ xinh xinh. Sau khi phá cỗ vui chơi thỏa thích ở đình làng, trăng ân cần theo chân từng đứa trẻ vào đến tận ngõ.

     Mẹ quảy đôi gánh đi nhổ mạ đêm, tiếng giũ đất soàn soạt, hạt đất rải tung tóe lên nón đội đầu làm cho ánh trăng tan ra từng mảnh nhỏ. Hạt đất nhỏ bắn tung tóe làm cho ánh trăng vỡ vụn nhuộm ánh trăng như có ngàn ngàn mảnh sao băng lấp lánh. Ban ngày nắng nóng, các bà các chụ rủ nhau đi cấy ban đêm. Tiếng cắm mạ xuống mặt ruộng nghe lách tách hòa lẫn với tiếng ếch nhái râm ran tạo nên một âm thanh huyền bí. Ánh trăng vỡ loang ra trên mặt ruộng tạo thành những con sóng vàng nho nhỏ chạy vào xung quanh bờ. Đêm khuya thanh vắng ánh trăng tự mình tan chảy thành dòng xuống đường làng. Ánh trăng tràn trề như dòng ánh sáng chảy mãi chảy mãi vào cuối tận đường làng xa tít. Dưới tán lá cây ánh trăng len lỏi thả xuống đường từng vũng sáng trông như những bông hoa to bằng bạc. Cơn gió thoảnh qua lá cây ánh trăng lay động làm các bông hoa vỡ ra chảy lênh loang trên mặt đất.

     Có những đêm mùa đông, ánh trăng như đông cứng lại trên các cành cây ngọn cỏ. Trời lạnh vạn vật dường như cũng lười vận động, tôi tưởng như đưa tay ra là có thể vốc được từng nắm ánh sáng bỏ vào trong túi áo. Đêm càng về khuya ánh trăng càng sáng. Bờ cây bụi cỏ ban ngày trông bình thường, đêm qua ánh trăng chỗ sáng chỗ tối tạo nên những hình thù kì dị. Gió lay động làm cho chúng nhảy múa, đàn chó trong làng thấy lạ thi nhau sủa trong rấm rẳn. Những đêm như vậy mẹ tôi bảo, đó là tiếng chó cắn ma làm cho chúng tôi rúc đầu vào tấm chăn mà không dám thò đầu ra. Bao nhiêu là chuyện kể về trăng, chúng tôi nghe đi nghe lại đến thuộc làu.

     Đêm trăng sáng, tôi theo mẹ đi gánh nước đêm. Tay cầm cái gàu múc nước bằng mo cau, mắt nhìn lên trời thấy trăng đang bước theo mình từng bước. Ra đến giếng làng ngó xuống, tôi thấy trăng mằm tận dáy giếng tự khi nào. Chiếc gàu nhẹ nhàng thả xuống, ánh trăng tan ra hàng ngàn mảnh lay động theo sóng nước, cái giếng bỗng sáng lấp lóa giống như một giếng vàng ai đã nung chảy. Ánh trăng sóng sánh theo đôi thùng nước nhún nhẩy về nhà. Những giọt nước văng ra mang theo ánh trăng rơi xuống đất hòa lẫn với muôn vàn ánh sáng đang rờ rỡ dưới đôi bàn chân thoăn thoắt của mẹ. Có nhiều đêm mặt trăng bị khuất, mẹ bảo, mặt trăng bị “Trai ăn”. Chúng tôi không biết “Trai” là gì nhưng giận Trai và thương trăng vô cùng.

     Trăng đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của người dân quê tôi. Các cụ cao niên trông trăng để doán biết thời tiết, “ Trăng quầng thị hạn, trăng tán thì mưa.”. Mẹ tôi trông trăng theo tục ngữ ông cha truyền lại, canh thời gian để dàn xếp công việc. “ mồng một lưỡi trai, mồng hai lá lúa, mồng ba câu liêm…” cứ như vậy cũng đủ biết trăng gần gũi thân thương đến mức nào rồi.

     Trăng khuyết lại tròn. Cái quy luật của thiên nhiên nhưng gieo vào lòng người một niềm tin hy vọng. Con người ta trong cuộc sống có nhiều lúc gặp khó khăn nhưng luôn tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng, cũng như ánh trăng tròn rồi lại khuyết. Con người bầu bạn cùng trăng, nhưng có lẽ mặt trăng cũng rất quyến luyến loài người. Có những ngày đầu tháng mặt trời đã lên cao nhưng mặt trăng cũng chần chừ không chịu lặn. Mặt trời đàng đông, mặt trăng lơ lửng đàng tây như đang luyến tiếc một hành trình dang dở. Trăng thân thương được ví như một người mẹ dịu hiền, “Một mẹ sinh được ngàn con, sáng ra chỉ thấy còn lại một cha, mặt mẹ như hương như hoa, mặt cha nhăn nhó chẳng ma nào nhìn.”. Trăng là đề tài cho các thi nhân ngâm vịnh. Thú chơi ngắm hoa thưởng nguyệt của những tao nhân mặc khách, đã có từ xưa luôn luôn tồn tại và phát triển.

     Trăng treo vời vợi trên trời cao, nhưng đã chứng kiến cho bao cuộc trao duyên hò hẹn. trăng tác thành duyên chồng vợ. Trăng thao thức cùng với người vợ, người mẹ trông ngóng những người chồng người con đang ngoài mặt trận. Trăng khuyết rồi đầy, củng cố niềm tin sắt đá, mọi chuyện dù khó khăn đến mấy rồi cũng sẽ đến ngày viên mãn. Người thương tính từng tuần trăng một để đợi chờ người thương.

     Đêm nay tôi ra sân ngẩng mặt lên nhìn trời. Trăng chơi vơi giữa bầu trời rộng lớn. Không còn những bờ tre có cây tre cao vút cong như cái cần câu để kéo trăng lên khi trăng vừa mờ mọc. Trăng vẫn tròn vành vạnh đang thả xuống nhân gian một ánh vàng rười rượi. Bầu trời hình như chật lại. Cũng có thể là tôi đã lớn, đã già. Cũng có thể là làng xóm đã mọc lên các nhà cao tầng che khuất sự phóng khoáng muôn đời của ánh trăng. Tiếng gió xào xạc như tiếng thở dài, tiếc thương cho một thời xưa cũ. Những đứa trẻ thế hệ bây giờ ánh điện đã thay mất những ánh trăng xưa. Sau khi học bài xong chúng không còn nô đùa dưới ánh trăng như thế hệ chúng tôi, mà chỉ có những trò chơi trên mạng internet. Nhưng tôi tin rằng vẫn còn có những người chung thủy với ánh trăng xưa, những mùa trăng thương nhớ. Ánh trăng đã in vào ký ức một thời không thể nào quên.