Gọi là quán trà, quán cóc theo thói quen chứ thực ra hầu hết là các hàng trà chén ngồi ghé đầu hè, đầu ngách, nép bên cột điện, gốc cây…, chứ chẳng có lều có quán gì! Không nhẽ gọi là “quán trà – không quán”!
Những quán trà kiểu đó thường nhỏ xíu, đồ lề gọn nhẹ vì chút vốn còm cõi, vì thân phận ngồi ghé, ngồi nhờ, và chắc còn vì để… dễ chạy công an, hình như từ lâu lắm đã trở thành một phần của nhịp sống vừa hối hả vừa thư nhàn trong lòng Hà Nội hiện đại mà xưa cũ này!
Một chiếc ấm tích cáu dày lớp cao trà đặt vừa khít trong cái ấm giỏ cũ kĩ, mấy cái chén uống trà bằng thuỷ tinh cũ kĩ nhưng luôn sạch sẽ, vài cái phích Rạng đông thường đã mất nắp ngoài, vỏ lỗ chỗ gỉ sắt, cái bật lửa lắp vừa vặn trong một ống nhựa đủ dài và nặng để khách chỉ có thể dùng mà không thể lơ đễnh cất nhầm vào túi, vài cái ghế nhựa xanh đỏ… đó là cơ ngơi của phần lớn các quán trà vỉa hè.
Phần quan trọng nhất tạo nên linh hồn của những quán trà này chính là chủ quán, những người cũng cũ kĩ và sạch sẽ như đồ lề của họ – những người thường đã qua tuổi lao động, hầu như không có dáng bươn bả, tất bật của mưu sinh mà thường thư thả, nhàn nhã như tham gia vào một thú vui, một thói quen…
Cách đây vài chục năm, trong một ngách nhỏ trên phố Tràng Thi, nhìn chếch sang Thư viện Quốc gia cũng có một quán cóc như thế. Bà chủ quán già tới mức như không còn tính được tuổi nữa, lơ đễnh như cuộc đời, tóc bạc phơ, lưa thưa, chải gọn và mượt để lộ đường ngôi cũng trắng mướt như tóc, chân chỉ, nền nã, quần áo giản dị gọn gàng …
Bà ngồi bình thản trên chiếc ghế con, lặng lẽ nhìn dòng người một chiều lướt qua đều đặn trước mặt. Nhìn đôi mắt bà, tôi hay nhớ tới những người lính “Một lần tới Thủ đô” của Trần Đăng, “ mắt mở mà không trông, tai lắng mà không nghe” – dù biết bà hoàn toàn khác họ – những người lính ở rừng nhiều năm, họ tự luyện mình thành thép đã tôi thế đấy để dằn lòng thản nhiên trước những văn minh vật chất đang bày trước mắt, họ điều tiết trái tim và cả bản năng trong mình bằng lí trí, gói kín mọi ẩn ức, khát khao trong cái thản nhiên rắn lạnh như gỗ đá… còn bà lão bán hàng nước của tôi, bà nhìn hết, nghe hết, hoàn toàn ngưng lặng, bình thản, tuyệt không cần gắng sức để nhớ hay quên, để thờ ơ hay chú ý…
Ngồi bên bà, tôi hay nhớ tới bà lão bán hàng khô ở một làng quê nghèo, trong một khu chợ nhỏ và buồn, gần ngôi trường tôi dạy hồi mới ra trường – hỏi bà để mua mấy lạng miến, bà chậm rãi cân miến, thong thả buộc miến bằng sợi dây đay, rồi nhận tiền, nhặt riêng mấy đồng xu xâu vào chuỗi xu khá dài trong hộp đựng tiền – mấy chục năm rồi tôi vẫn không quên nổi hình ảnh bà cụ ngồi trong buổi chiều hiu hắt, giữa phiên chợ nghèo vắng như trong trang sách Thạch Lam, cứ vừa lẩm bẩm tính toán gì đó, vừa lần đếm những đồng xu trong chuỗi xu chiu chắt chắc từ rất lâu rồi…
Tôi nhớ cô gái 21 tuổi là tôi lúc đó cứ ngẩn ngơ nhìn bà cụ, và tới khi nhận ra sự tương hợp kì lạ giữa bà lão, buổi chiều và cảnh chợ quê buồn bã, hình như cô gái ấy lỡ rơi một giọt nước mắt, phi lí tới mức phải vội vã chào bà và trở về khu tập thể giáo viên nằm bơ vơ giữa cánh đồng chỉ có gió và tiếng bạch đàn bên dòng sông Châu than van… Chỉ khác là bà già trong chợ chiều ngày xưa gợi nỗi buồn bã của sự lo toan tàn lụi, còn bà lão bán hàng nước bên đường Tràng Thi chỉ toát ra cảm giác an nhiên và thờ ơ, đặc biệt là cảm giác bà như nhập vào dòng thời gian, không ngưng nghỉ, không lụi tàn…
Ngày ấy, cứ mỗi lần tới thư viện, tôi lại ghé vào cái ngách nhỏ xíu của bà, dù biết có thể bà chẳng nhớ ra tôi là khách quen, mỗi khi kéo chiếc ghế gỗ nhỏ ngồi xuống quán, đỡ chén nước vàng óng, trong vắt, nóng bỏng từ bàn tay ngàn vạn nếp nhăn của bà, tôi vẫn cảm thấy ấm áp như về với ngày xưa, thân thuộc và bình yên vô cùng.
Hỏi bà vài câu về thời tiết nắng mưa, những câu hỏi và lời đáp luôn như sự hiện hữu rõ nhất cái trống thênh của hư vô – người hỏi không cần nghe thông tin, người đáp không cần khớp ý, những tương tác không thể coi là vô nghĩa dù nội dung thông tin hầu như luôn vô nghĩa – Mấy nay lạnh quá bà nhỉ! – Ừ lạnh thật đấy! – và kì lạ là một người vốn hay bận tâm tới ý nghĩa của những diễn ngôn như tôi lại thấy chuỗi lời rỗng nghĩa ấy giàu chất thơ hơn bất kì bài thơ nào trên đời.
Tôi luôn đọc ra ở đó nhịp trôi chảy bình dị ngọt ngào của cuộc sống, luôn tìm thấy ở đó nguồn năng lượng vô tận của thời gian vô tận, thấy như được tham dự vào dòng miên viễn của cuộc sống, để chút nữa, khi sang Thư viện, cảm nhận rõ hơn sự ân thưởng khi dõi tìm cái ngưng lặng hiện hữu những khoảnh khắc trí tuệ hay cảm xúc của tiền nhân trên trang sách.
Sau vài câu hỏi đáp quen thuộc, bà lặng lẽ ngắm nhìn dòng người, xe một chiều, tôi lặng lẽ tận hưởng vị chát ngọt mềm tan của trà, hương thơm quen thuộc vương vấn trong làn khói rất nhẹ từ miệng chén, hơi ấm toả lan trong lòng bàn tay… bà ngắm hiện tại trước mặt, tôi ngắm quá khứ ngay trên gương mặt và trong chén trà của bà… Lạ là những người khách dừng lại bên quán của bà, người nào cũng lặng lẽ như bà vậy, xin chén nước, chào hỏi xong, uống từng ngụm óng vàng lẫn với nắng đông trong vắt, và im lặng, hình như họ cũng sợ làm thanh động cái bình yên dịu ngọt nơi đây.
Một sáng mùa đông mấy mươi năm sau, nắng trong ngần như ngọc, đủ để sóng sánh sắc trà vàng óng, gió lạnh đủ để se sắt khiến hơi nóng toả từ tách trà càng ấm nồng, gió và nắng dan díu đong đưa cho sợi tóc thêm loà xoà, ánh mắt thêm xa xăm, và lời thơ Heine hình như chưa chịu ứng nghiệm bởi mùa hè vẫn cứ nồng cháy đâu đây dẫu trời đã sang đông và tóc xưa đã ngả bạc!
Quả là những “quán trà – không quán” này đem tới cho người ta cảm giác không thể tìm thấy ở bất cứ đâu khi rõ ràng ngồi giữa phố đông, hoàn toàn nhập thế với người xe qua lại, với bụi và tiếng ồn, với nắng và gió… mà vẫn như đang miên man cõi khác, yên tĩnh xa lạc với hoang vu…
Bỗng nghĩ tới một ngày dừng lại, sắm ấm chén và dăm chiếc ghế nhựa, ngồi một góc hè phố nào đó, nhìn thời gian…