T huở còn thơ dại, tôi là đứa trẻ rất thích hát, hát một cách đầy bản năng. Những khúc ca không đầu không cuối, đôi khi chẳng rõ lời, cứ thế theo tôi trên từng bước chân, từng buổi chiều và bất cứ ở nơi đâu tôi cũng có thể hát. Hát những giai điệu yêu thương.

      Lên bốn tuổi thì tôi rời xa vòng tay bố mẹ, về quê Hải Phòng sống cùng ông bà nội và chú út trong những năm tháng tuổi thơ. Tôi không biết âm nhạc là gì, nhưng mỗi lần cất giọng, lòng tôi như dịu lại. Mọi nỗi buồn non nớt tựa cánh diều rơi dường như chợt tan đi trong một nốt ngân. Phải chăng âm nhạc còn là niềm an ủi, vỗ về, nuôi dưỡng tâm hồn cho con người.

      Khi đó, tôi còn quá nhỏ để hiểu hết nỗi thiếu vắng, nhưng có thể cảm nhận được một khoảng trống âm thầm đang mở ra trong lòng như cánh đồng mùa gặt vừa xong, rộng và trơ trọi. Với tôi, tiếng hát khi ấy không phải để hay, mà là cách duy nhất để tôi có thể ôm lấy chính mình trong một thế giới rất rộng và lạ, giữa những tháng ngày thiếu vắng vòng tay bố mẹ.

      Ban ngày, ông bà ra đồng sớm, chú út đi học xa. Ngôi nhà ba gian im lìm, chỉ còn tôi lặng lẽ một mình. Tiếng hát của tôi cho dù non nớt, nhưng đã trở thành người bạn vô hình, nắm tay tôi qua những chiều đơn độc, những sáng mong ngóng bước chân ông bà trở về từ đồng xa.
Có những buổi trưa lặng gió, tôi ngồi ở bậu cửa, chống tay vào cằm, mắt nhìn xa xăm qua vạt nắng nghiêng, và hát. Rồi có những buổi chiều nắng vỡ tung trên thềm gạch, tôi thả mắt ra khoảng trời nhàn nhạt phía trước, nơi đàn chim sẻ nhỏ vừa sà xuống rồi vụt bay đi. Khi ấy, không biết làm gì hơn, tôi lại cất tiếng hát. Âm thanh nhỏ nhoi ấy vang lên trong khoảng trống vắng của ngôi nhà, nhẹ như hơi thở, nhưng đủ để tôi cảm thấy không còn lẻ loi nữa.

      Chú út dường như thấu hiểu niềm yêu thích âm nhạc nên đã dạy tôi những bài hát, chú còn dạy tôi chơi đàn. Tôi rất nhớ và thuộc làu một bài hát. Lần đầu tiên tôi hát được trọn vẹn cũng như giai điệu một bài, “Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh”.

      Có lúc, tôi vừa đi vừa hát giữa con đường quê thênh thang, cánh đồng lúa vàng hoe nắng cháy. Tiếng hát vang lên xua đi cái nắng rát bỏng trên da. Đó là tiếng hát của tuổi thơ, của những buổi trưa rong chơi cháy bỏng, của những cảm xúc nguyên sơ và cả những nông nổi đầu đời nhưng rực rỡ như bao mùa phượng đỏ.

     Lớn lên, tôi vẫn giữ thói quen hát như một phần tất yếu của đời sống. Dù là khi đứng bên bếp lửa đang reo, tay đảo nồi cơm sôi, hay cả lúc khom người cho lợn ăn mỗi chiều. Đến khi lập gia đình, tôi mới thật sự thấm thía một điều tưởng như đơn giản ấy. Âm nhạc và lời ca không chỉ để vui, để yêu, mà còn để chữa lành. Nó là thứ thuốc vô hình, xoa dịu những vết xước và những tổn thương trong tâm hồn của con người. Âm nhạc với tôi như hơi thở vậy, có những ngày mệt mỏi, tôi chỉ cần nghe một bài hát cũ. Câu hát ngân lên, như thể ai đó vừa nhắc tôi rằng: “Mọi chuyện rồi sẽ qua.”Một người cha ru con ngủ bằng tiếng hát khe khẽ. Một người con gái thẫn thờ hát giữa đồng vắng. Một cụ già vừa tưới rau vừa ngân nga câu vọng cổ. Có lẽ ai trong chúng ta cũng từng hát, không phải để ai nghe, mà để lòng mình bớt cô đơn.

      Tôi đã chứng kiến điều ấy từ bố vợ tôi, người đàn ông cao lớn, điềm đạm, cả đời làm khoa học và sống bằng lý trí, nhưng lại có một tâm hồn nghệ sĩ ẩn trong những câu hát dịu dàng. Bố vợ tôi không may bị bệnh bạch cầu ở tuổi xế chiều trong lúc vẫn còn đang làm việc trong viện nghiên cứu khoa học. Từng ngày một bệnh tật lấy đi sức lực của bố, nhưng tôi thấy rõ gương mặt và sự can đảm, dù hơi thở đã mỏng như khói sương, ánh mắt đã mờ dần theo từng đợt thuốc truyền, nhưng ông vẫn luôn nở nụ cười và khe khẽ cất tiếng hát khi một mình.

      Rồi bố tôi sang Đức, lúc đó bệnh tình trở nên nghiệt ngã hơn. Căn bệnh máu trắng, cái tên nghe lạnh buốt, không bao giờ hứa hẹn, vẫn không thể khuất phục được bố. Hai năm sống cùng gia đình nhỏ của tôi, bố vẫn giữ cho mình thói quen dậy sớm, mở radio, nghe nhạc và hát khe khẽ. Sau đó bố tôi vẫn làm việc. Ngoài tiếp tục nghiên cứu công trình khoa học, bố còn ra đề thi cho trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội.

      Những sớm mùa đông, khi tôi ngồi trong bếp nấu nước, thường nghe thấy giọng bố tôi ngân lên theo một bản nhạc tiếng Anh xưa cũ. Giọng bố run run, đôi lúc đứt quãng, như thể từng nốt nhạc cũng đang chống chọi với sự đau đớn và cái chết. Nhưng với tôi, mỗi câu hát ấy như một lời thì thầm: “Bố tôi sống… thêm được một ngày nữa…”

      Mỗi khi tôi vào phòng tôi lại nghe được tiếng hát của bố, giọng hát mong manh như sợi tơ trời. Bố không bao giờ than thở, không muốn ai nhìn thấy sự yếu đuối của mình. Mệt đến mấy, bố vẫn gượng dậy âm thầm nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa, như thể ông vẫn còn nguyên vẹn sức lực của một người khỏe mạnh. Một buổi chiều, tôi đi làm về và bắt gặp bố đang giặt áo cho tôi dưới vòi nước lạnh, đôi bàn tay gầy guộc tím tái trong làn nước. Bố vợ tôi vừa giặt vừa hát. Tôi chạy đến, nghẹn ngào:- Bố à… bố đừng làm nữa, bố rất mệt rồi..! Tôi thấy mình ứa nước mắt từ lúc nào mà không biết. Đáp lại lời tôi bố nói. ”Tớ thích làm cho cậu, cậu yên tâm nhé!”

      Bố vợ tôi dù bệnh nặng, nhưng những ngày cuối đời vẫn miệt mài bên trang giấy, những đề thi tiếng Anh vẫn cặm cụi ngồi soạn, những sổ tay nghiên cứu gạch ghi chi chít. Bố vẫn cất lời ca theo những bài hát ở Radio. Bố vợ tôi sống như chưa từng biết đến giới hạn của sự sống. Cống hiến như thể thời gian vẫn còn rất dài, dù từng khoảnh khắc đã tính bằng giờ, bằng phút.

      Ngày bố vợ tôi mất, thế giới như chùng xuống, lặng đi một nhịp. Không còn tiếng nói cười thường nhật, trong tôi chỉ còn sự im lặng đặc quánh, như làn sương đọng lại trên mi mắt, khiến lòng không thôi thổn thức. Bố ra đi nhẹ như chiếc lá rời cành khi mùa thu khép lại sau một đời xanh mướt, hiền lành, và trọn vẹn.

      Bố tôi không phải là người thích nói nhiều về bản thân. Nhưng ông để lại một di sản không dễ gì phai mờ, một đời cống hiến cho khoa học, cho đất nước, cho những lớp học trò chưa một lần chạm tay mà vẫn kính phục. Tiến sĩ Trần Hợp Thanh, không chỉ là một nhà khoa học tận tụy, mà còn là một người cha, một người thầy, một người đàn ông biết sống bằng trái tim và bằng tiếng hát.

      Tiếng hát của bố vợ tôi không phải là bản nhạc cầu kỳ, mà là những câu hát mộc mạc, nhỏ nhẹ cất lên giữa gian bếp sớm, giữa sân nhà chiều gió, và trong căn phòng lạnh giữa những ngày bệnh tật. Mỗi câu ca ông cất lên như một giọt sương rơi vào lòng đất nứt nẻ, khiến tâm hồn người bên cạnh trở nên dịu lại, ấm áp.

      Âm nhạc không thay đổi được số phận, nhưng nó làm cho số phận ấy trở nên đáng sống hơn, âm nhạc là cây cầu bắc qua những khoảng lặng, là nhịp thở nối giữa người với người. Tôi hát như thể chạm tay vào tuổi thơ xa ngái, nơi mái ngói rêu phong của ngôi nhà ông bà nội, nơi trái tim non nớt của một đứa trẻ bốn tuổi đã biết thế nào là nỗi nhớ mẹ cha. Tôi hát để nhớ một người cha vợ đáng kính, người từng dạy tôi rằng: sống là phải biết rung động, ngay cả trong khổ đau. Tôi hát để nhớ đến chú út, người dạy tôi từng nốt nhạc đầu tiên.

      Tôi hát không phải vì mình hát hay, mà vì trong từng giai điệu, tôi thấy lại chính mình, mềm mại, biết ơn, còn đủ yêu thương để sống tiếp giữa một cuộc đời nhiều mất mát. Hát để biết rằng lòng mình chưa khô cạn. Hát để cảm ơn cuộc đời, dù đôi khi thật mỏi mệt, vẫn còn đẹp, vẫn còn đáng để yêu thêm lần nữa…

      Mai này con tôi lớn lên, tôi chẳng mong con phải hát hay, càng không mong con được nổi tiếng. Tôi chỉ mong, khi buồn, mỏi mệt, hay thấy lòng chùng xuống giữa những tháng năm bấp bênh… con vẫn còn có thể hát. Một câu thôi cũng được…Để thấy lòng mình dịu lại. Để thấy đời vẫn đáng sống. Để nhớ rằng, trong mỗi người chúng ta, luôn có một bài hát cất lên từ nơi sâu thẳm nhất của yêu thương.

CÙNG MỘT TÁC GIẢ