
S ớm nay ra đường, bất chợt thấy gió heo may chạm nhẹ trên tóc, lay khẽ vạt áo. Tôi ngước nhìn bầu trời trong veo như lời ru cũ của bà thuở nào. Thu se sẽ về như thế. Những dịu dàng, mỏng mảnh, mát lành cứ chầm chậm len lỏi vào từng nhịp thở của đất trời. Tôi yêu mùa thu, yêu cả những trái hồng căng mọng, đỏ au, chín rộ vào những ngày trời hanh hao như thế. Bởi có những mùa thu trở về trong ký ức tôi chỉ bằng một màu duy nhất: Màu đỏ lựng của trái hồng chín trong vườn bà.
Mỗi mùa thu, tôi lại hạnh phúc “nếm” những giấc mơ ngọt ngào trong từng trái hồng. Hồng da tre, đặc sản của mùa thu xứ Trà quê tôi có vỏ xanh mỏng như tơ, mịn như má em bé. Chỉ cần chạm nhẹ đã nghe mùi thơm dìu dịu. Thức quà quý tộc này để tủ lạnh, dùng thìa xúc ăn mát lịm như thạch, vị ngon không giống bất cứ loại hồng nào. Tôi cũng thích hồng đỏ mềm mỗi lần cắn một miếng là vị ngọt tan ngay đầu lưỡi, như dòng sữa mát dịu của đất trời thấm vào tận tim. Hồng giòn lại như tiếng thu gõ cửa, tí tách trong lòng, ăn đến đâu, tôi sảng khoái nghe âm thanh rắc rắc, giòn tan tới đó. Cuối thu, tôi lại mê mẩn hồng sấy: Hương thơm nồng, vị đậm đà, mềm mại.
Những buổi bên hiên nhà xưa cũ, nằm yên trên đùi bà, tôi mơ màng trong giấc trưa. Gió lùa qua kẽ lá. Hồng chín đỏ góc vườn. Lời bà chậm rãi: Các cụ bao đời nay lưu truyền câu nói: “Mùa thu ăn một trái hồng. Một quả hồng bằng mười vị thuốc”. Lời bà như rót mật vào tuổi thơ tôi.
Khu vườn nhà ngày ấy như một miền cổ tích ngọt ngào ru những giấc mơ thơ bé của tôi. Mảnh vườn trước sân dưới bàn tay tảo tần của bà, của mẹ, bốn mùa xanh tươi các loại rau, cây trái. Trong đó, tôi đặc biệt yêu thích cây hồng lặng lẽ nơi góc vườn.
Nơi miền nhớ trong veo, tôi thấy một cô bé lên mười, đang cuộn mình trong tấm chăn mỏng, bỗng bị đánh thức không phải bởi tiếng gà gáy mà bởi một thứ ánh sáng diệu kỳ. Những tia nắng mật ong của sớm mùa thu dường như được lọc qua một tấm voan màu đỏ cam rực rỡ. Tôi dụi mắt, bật dậy nhìn ngoài ô cửa sổ, trên nền trời trong vắt như ngọc, cây hồng trước sân đã bừng tỉnh. Hàng trăm quả hồng chín mọng đang đung đưa tựa như một lễ hội đèn lồng nhỏ được ai đó thắp lên dành riêng cho tôi. Khoảnh khắc ấy, lồng ngực tôi như có hàng trăm quả hồng chín cùng lúc vỡ òa ra. Tôi reo lên: “Bà ơi, hồng chín rồi!”.
Và cứ thế, tôi lao ra khỏi giường, đôi chân trần trên nền gạch đỏ, chạy ào đi tìm bà như một ngọn gió nhỏ, háo hức muốn chia sẻ phát hiện vĩ đại của mình.Bà đang ở dưới bếp, lúi húi bên nồi bánh sắn bốc khói nghi ngút. Mùi thơm ngọt bùi của sắn quyện vào không gian. Nghe tiếng tôi, bà quay lại, tay vẫn còn vương chút bột trắng, đôi mắt ánh lên nụ cười hiền từ. Bà biết cháu gái bà đang mong chờ điều gì. Thong thả, bà rửa tay, bước chậm ra vườn. Tôi tung tăng chạy sau, cắp chiếc rổ tre lắc nhẹ bên hông như gõ nhịp theo niềm vui thơ trẻ. Miệng tôi thì không ngừng ríu rít về những “chiếc đèn lồng” ngoài vườn.
Cây hồng rung rinh trong nắng sớm như chào đón. Tôi đứng ngây người dưới tán lá đã ngả màu vàng úa, ngước nhìn lên. Cây hồng này, tôi biết nó còn lớn tuổi hơn cả chị em tôi. Thân cây xù xì, mốc thếch, hằn lên những dấu vết của bao mùa mưa nắng. Lòng tôi nhảy múa khi thấy từ thân cây già cỗi ấy, từng cành lá lại vươn ra kiêu hãnh, treo lủng lẳng trên đó là cơ man nào là quả. Hồng chín sau bao ngày nắng gió, âm thầm chắt chiu đủ nồng nàn của đất trời. Như lời hứa ngọt lành giữa mùa hanh hao.
Tôi say sưa ngắm bà diện chiếc áo bà ba màu bã trầu, mái tóc trắng phơ phất, khuôn mặt hiền hậu, mà cứ tưởng tượng đó là bà tiên giữa đời thường. Đôi bàn tay gầy guộc của bà nhẹ nhàng, dứt khoát hái từng quả hồng chín mọng, đặt vào rổ. Chỉ đến khi bà nói: “Năm nay hồng sai và quả to hơn nhiều so với năm trước”, giọng đều đều, ấm áp yêu thương như tiếng thu, tôi mới bừng tỉnh. Tôi bê rổ hồng trên tay, cẩn thận như đang ôm một báu vật. Tôi được bà hướng dẫn rửa sạch và dâng lên thắp hương tổ tiên.
Những ngày thu êm đềm, trong tiết trời lành lạnh những năm ấy, lòng tôi hân hoan đón chờ khoảnh khắc bà chậm rãi lấy quả hồng chín đỏ, mềm mịn như da em bé bảo cháu ăn đi.
Và bà kể chuyện cho tôi nghe về sự tích cây hồng vườn nhà. Cây hồng đã gấp hai tuổi tôi. Nó không phải giống hồng thường mà là một kỷ vật, một lời hẹn ước. Người tặng nó là ông Điểm – bạn chiến đấu vào sinh ra tử với ông nội tôi trên mặt trận biên giới phía Bắc. Giữa lằn ranh sinh tử nơi chiến trường, giữa cái lạnh cắt da của núi rừng, hai người lính trẻ đã hứa với nhau, ngày đất nước yên bình, họ sẽ về thăm nhau, mang theo sản vật quý nhất của quê hương mình làm quà. Nhưng đó mãi mãi là lời hứa.

Ông nội tôi đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường lạnh lẽo. Vài năm sau ngày hòa bình, ông Điểm lặn lội từ Lạng Sơn, tìm về tận nhà tôi. Ông không mang theo gì cao sang, chỉ có một cây hồng giống nhỏ xíu, bọc trong lớp vải dù cũ. Ông nói, đây là giống hồng ngon nhất xứ ông, ông mang về để trồng trong vườn nhà bạn, coi như người bạn già của ông vẫn còn đây, vẫn thấy mùa thu quê nhà kết trái ngọt.
Bà tôi đã nhận lấy cây giống như nhận lấy một phần sinh mệnh của người đã khuất. Bà cùng bố tôi tự tay đào đất, vun trồng cây hồng nhỏ bé ấy ở góc vườn. Cây hồng mang theo tình đồng đội thiêng liêng và sức sống mãnh liệt của núi đá, cứ thế bám rễ sâu vào lòng đất mẹ, chẳng cần chăm bón cầu kỳ. Cũng chẳng ngại nắng mưa, sương giá. Nó cứ vùn vụt lớn lên, sẵn sàng đơm hoa kết trái như thể đáp lại tình người gửi tặng.
Cây hồng không những trở thành biểu tượng của tình đồng đội mà còn giúp gia đình tôi có bao mùa thu hạnh phúc, ngọt ngào. Sau ba mùa thu về nhà tôi, cây hồng đã cho quả và càng những năm về sau, quả càng sai trĩu, to mọng, ngọt hơn. Cũng nhờ cây hồng, gia đình tôi có thêm chút thu nhập vào mỗi vụ thu. Mọi người trong làng đều xuýt xoa: “Chưa thấy ai trồng được giống hồng vừa đỏ, vừa mềm, lại ngọt lịm như thế!”
Ngồi bên bà, nghe bà kể chuyện, tay bóc vỏ từng quả hồng ăn, cảm nhận vị ngọt mát thấm vào đầu lưỡi, lòng tôi ấm áp lạ thường. Trong tâm hồn non nớt, tôi cảm nhận những trái hồng đỏ chính là món quà hạnh phúc mà bà dành cho tôi. Mỗi lần ăn miếng hồng mềm, ngọt, mát dịu mà bà đưa cho, tôi đều ngập tràn vui sướng, cứ hít hà mãi vị ngọt của món quà kỳ diệu.
Lứa hồng lộc đầu vụ, bà chọn phần đẹp nhất để thắp hương và biếu họ hàng. Những lần sau, bà xếp hồng quẩy gánh mang ra chợ bán. Tôi lũn cũn theo sau bà, phụng phịu: “Cháu ăn hồng cả cây không chán, cháu không muốn bán bà ạ!”. Bà nhanh nhẹn gồng gánh hai thúng hồng trên con đường nhỏ men giữa cánh đồng lúa chín vàng, không quên ngoảnh lại dỗ dành tôi: “Út ngoan, hồng nhà mình ngon lắm, phải chia sẻ cho nhiều người được thưởng thức nữa. Và nhất là, bán hồng để lấy tiền đong gạo về cho Út ăn cơm trắng và mua sách vở đi học chứ”.
Trên đường đi, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp người quen: “Hồng nhà bà năm nay lại được mùa, quả nào quả nấy đỏ au, nhìn đã thấy ngọt rồi!”. Bà mỉm cười, nụ cười mộc mạc và mãn nguyện. Tôi đi bên cạnh, lòng chợt thấy hãnh diện lạ kỳ.
Thời gian trôi qua thật nhanh, mang theo những kỷ niệm yêu thương về người bà đã khuất. Tôi lớn lên, rời xa quê nhà, đi học, đi làm, cuốn vào những vòng quay của cuộc sống hiện đại. Thỉnh thoảng, mẹ vẫn gửi lên cho tôi một thùng hồng nhỏ. Vị hồng vẫn ngọt như xưa, nhưng phảng phất một nỗi nhớ nhung da diết.
Bây giờ, mỗi lần trở về nhà, đi ngang qua vườn, tôi lại ngẩn người nhìn cây hồng cũ. Nó đã già đi nhiều, lá thưa hơn, cành cũng sần sùi, mốc thếch hơn xưa, nhiều cành đã khô mục. Nhưng thật kỳ diệu, cứ mỗi độ thu về, những quả hồng vẫn rực lên một màu đỏ ấm. Như thể có một nguồn sống mãnh liệt vẫn chảy trong thân cây già cỗi. Như có bàn tay ấm áp của bà vẫn lặng lẽ mỗi ngày vun trồng và chăm chút. Và như thể tình đồng đội của ông vẫn âm thầm chảy trong từng thớ gỗ, để nhắc nhở về một lời hứa không bao giờ phai.
Đứng thật lâu dưới tán hồng, như đứng giữa một khoảng trời cũ, tôi vẫn nghe đâu đây tiếng bà thủ thỉ kể chuyện, thấy nụ cười hiền và cả những ngày thơ bé dịu dàng như gió. Với tôi, quả hồng không chỉ là một thức quà quê. Nó là quả của thương yêu. Là ngọn lửa âm thầm cháy mãi trong khu vườn thân thương.
Bất giác, tôi cầm trái hồng, cảm nhận sức nặng ngọt ngào trong bàn tay và mỉm cười mơ màng áp lên má. Tôi biết, có một trái hồng chín đỏ, như ngọn đèn lồng nhỏ không bao giờ tắt, vẫn luôn được bà thắp lên từ những mùa thu năm ấy, soi sáng cho tôi con đường ấm áp đi suốt cuộc đời. Để mỗi khi lạc bước giữa phố thị ngược xuôi, tôi vẫn tìm thấy lối về khu vườn thơm ngọt, rực đỏ ngày xưa…