Tr ong ký ức tuổi thơ tôi chái bếp của ngoại là nơi đẹp đẽ nhất, ấm áp nhất và là nơi tôi được ăn nhiều món ngon nhất trên đời.
Không phải ngẫu nhiên mà tôi lại khẳng định như vậy. Những đứa trẻ thế hệ 8X như tôi ngày đó chắc hẳn rằng cũng đều có chung suy nghĩ với tôi. Bởi chúng tôi lớn lên trong nghèo khó, ba mẹ phải chạy ăn từng bữa, chúng tôi cứ thế lớn lên quẩn quanh bên chái bếp của bà.
Chái bếp của ngoại là nơi có sức hấp dẫn đặc biệt với tôi. Chái bếp cũ kỹ bằng tranh tre nhưng ấm áp vô cùng. Tôi yêu từng sợi khói mỏng manh như tơ len lỏi trên mái tranh rồi bay la đà quyện vào làn sương mờ ảo.
Tôi yêu mùi thơm lá khô ngoại nhen mỗi sớm, mùi ẩm ướt cay nồng của củi mục lúc đông sang. Tôi yêu ánh lửa hồng bập bùng và yêu cả tiếng xèo xèo phát ra từ cành củi ướt. Tôi yêu mùi thơm của bắp, của khoai ngoại nướng, mùi cơm sôi, mùi cá kho và cả mùi ẩm mốc nơi chái bếp của ngoại. Hình ảnh ấy, mùi vị ấy là tất cả những gì tinh khiết nhất, đẹp đẽ nhất mà tôi cất giữ mỗi khi nhớ về ngoại. Tôi thích cảm giác ngày bé hay ngồi trong lòng ngoại, nghe ngoại kể những chuyện ngày xửa ngày xưa. Tình yêu văn chương ở tôi có lẽ cũng bắt đầu từ những câu ca dao, câu Kiều của ngoại. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu vì sao một người không biết chữ như ngoại lại thuộc làu những Truyện Kiều, những Lục Vân Tiên, những ca dao, tục ngữ…
Tôi nhớ những ngày đông đã xa. Những ngày mùa đông lạnh giá, những cơn gió lùa trên mái tranh xuyên vào da rét căm căm, tiếng mưa rơi lộp bộp trên mái lá, tiếng nước dột chảy rỉ rả bên chái bếp của ngoại. Không biết ngày đó do dại khờ hay ngây thơ mà anh em chúng tôi mỗi lần thấy nước dột lại reo lên thích thú. Chúng tôi đâu biết rằng ánh mắt ngoại đỏ hoe, buồn mênh mang như đồng hoang cuối buổi chiều đông. Ngoại vẫn thường hay nói cuộc đời ngoại ngoài nghèo khó, vất vả và mất mát ra thì chỉ có anh em chúng tôi là niềm vui, là hạnh phúc, là niềm an ủi lúc tuổi già. Những ngày mùa đông rất xa như thế, 3 anh em chúng tôi sẽ ngồi quanh bếp lửa nồng ấm yêu thương vừa sưởi ấm vừa nghe ngoại kể chuyện vừa chờ con rô, con tép ngoại nướng dậy lên mùi thơm.
Lúc nhỏ, cứ mỗi chiều đi học về, nơi đầu tiên tôi chạy vào là chái bếp của ngoại. Bởi tôi biết ngoại tôi sẽ ngồi đó nhóm bếp, miệng móm mém nhai trầu. Trên bếp nồi cơm đang sôi và trong đống lửa hồng reo vui kia sẽ vùi củ khoai lang nướng thơm lừng. Câu đầu tiên tôi nói khi còn chưa giáp mặt ngoại: “ngoại ơi con đói bụng quá” và ngoại sẽ mắng yêu tôi “cha cô, chỉ giỏi ăn chực”. Và tất nhiên củ khoai lang nướng thơm lừng kia hoặc quả u mơ, trái chuối, thanh kẹo giấu trong sạp gạo sẽ là của tôi. Sau này, khi lớn lên ra thành phố học, có những chiều nhớ nhà tôi nhớ quay quắt mùi khói bếp của ngoại, nhớ dáng ngoại lui cui ngoài vườn quét lá khô, nhớ mùi trầu, mùi mồ hôi muối mặn nồng trên vai áo ngoại. Những lúc như thế tôi lại vội vã trở về. Chỉ cần về đến đầu làng thấy ngọn khói trắng la đà bay lên từ chái bếp của ngoại là lòng tôi lại thấy bình yên.
Nhiều năm sau ngày ngoại mất, mỗi khi trở về, tôi lại bần thần ngồi bên chái bếp xưa. Tôi nghe trong nỗi nhớ vọng về tiếng cơm sôi, tiếng củi cháy, tiếng ngoại mắng yêu “cha cô, chỉ giỏi ăn chực”. Ngoại giờ đã hóa thành ngọn khói trắng mang theo muộn phiền phiêu diêu tận cuối trời xa. Và tôi, dù bây giờ được đi nhiều nơi, ăn nhiều món ngon nhưng mãi mãi không có món nào ngon như các món ngoại đã từng nấu tôi ăn, mãi mãi không nơi nào ấm áp bằng chái bếp cũ kỹ, đơn sơ của ngoại suốt một thời thơ dại.