G iờ đây, mỗi lần đi qua con đường Nguyễn Phan Chánh, nhìn hàng phượng thẳng tắp thưa thớt lá mới trồng, tôi không khỏi nghe lòng mình trào dâng một nỗi trống trải mênh mông. Nỗi tương tư ngô đồng.
Nỗi tương tư ấy dường như cồn cào da diết hơn mỗi độ thu về. Nỗi tương tư ấy dường khắc khoải hơn khi những cơn mưa tháng chín ào ào trút xuống thành phố nhỏ, khi lũ thượng nguồn cuồn cuộn đổ về đẩy con nước duyềnh mãi lên bãi bờ.
Nỗi tương tư ấy sục sạo trong kí ức tôi mà đánh thức câu thơ kinh điển của cổ nhân tưởng như đã từ lâu ngủ vùi trong trang sách:
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ tận tri thu
(Một chiếc lá ngô đồng rụng
Cả thiên hạ đều biết là mùa thu đến)
Biết rằng mang tin thu đâu chỉ có mỗi lá ngô đồng. Với mỗi miền, đất trời có những tín hiệu riêng để chuyển đến lời nhắn nhủ: thu đã về. Với mỗi người, giác quan được đánh thức để cảm nhận sự sinh sôi chuyển biến của tạo vật theo một cách riêng.
Với Hà Nội, với những ai trót đem lòng yêu Hà Nội, thu là cốm xanh thơm thảo dịu dàng trên đôi tay gầy của bà của mẹ, trên đôi tay thon mềm mại của cô gái thanh tân; là hoa sữa nồng nàn trong gió se mỗi khi đêm xuống; là sấu rụng thành thảm vàng rực sáng con phố Phan Đình Phùng mỗi sớm mai lên; là những gánh hàng hoa nên họa nên thơ trên mọi nẻo đường xuôi ngược, là sương chiều lãng đãng huyễn hoặc vờn nước Tây Hồ…
Với Hà Tĩnh quê tôi, thu bắt đầu bằng những ngày nắng gắt oi nồng từ xa xưa đã đi vào trong câu cửa miệng: “Nắng tháng tám, rám cùi bưởi”, rồi những cơn mưa như thác đổ trắng trời. Thu về mang theo bão gió lũ lụt dập dồn. Cánh đồng vừa gặt đã xác xơ chân rạ, bao la nước… Thu tròn đầy trong trái bưởi Phúc Trạch như ngàn vạn quả bóng vàng lúc lỉu treo trong vườn, chất chồng trên những sạp hàng hoa quả ở chợ, tràn vào mọi ngõ ngách phường phố, mang hương thơm vào tận mỗi căn nhà… Thu chín giòn trong từng trái hồng Yên Du ngọt lịm. Thu thanh mát ngọt dịu trong hương vị cam chanh bát ngát lưng đồi Vũ Quang,…
Có phải vì bao nhiêu hương sắc từ hoa, trái, cỏ, lá trải ra trước mắt ta, làm say đắm lòng ta khiến ngô đồng bị lãng quên trong miền cổ xưa xa ngái? Còn ai giật mình thảng thốt thu sang trên một sắc phai ngô đồng? Còn tôi bên sông vẩn vơ nỗi tương tư chút lá mong manh lênh đênh dòng nước. Nỗi tương tư ngô đồng.
Có những ngày tôi xuôi, tôi ngược trên cung đường Nguyễn Phan Chánh dài khoảng 2 km men theo bờ sông Cụt, bắt đầu từ chân cầu Vồng đến gặp cầu Đò Hà cuối đường Hải Thượng Lãn Ông. Con đường nay đã rải thảm êm mượt, vỉa hè thông thoáng và sạch sẽ. Ấy vậy mà lòng cứ gợn một nỗi trống không. Nỗi vắng thưa những bóng ngô đồng.
Năm ngoái, để chỉnh trang lại con đường, trong quá trình thi công người ta đã chặt bỏ đi những gốc ngô đồng cổ thụ hơn nửa thế kỉ soi bóng dòng sông, rồi thay vào đó một hàng phượng, nghe đâu là phượng tím. Cả quãng bờ sông dài chỉ còn lại chín cây ngô đồng mà có đến năm sáu cây trong số đó gốc nhỏ và tán hẹp. Tôi không biết về sau hàng phượng tím sẽ làm nên thơ nên mộng quãng bờ sông này đến thế nào, sẽ làm nao lòng bao vãn khách. Tôi cũng không tưởng tượng nổi về sau quãng sông này phượng có giăng một màu mây tím làm lòng tôi đắm say, làm vơi quên đi nỗi luyến tiếc những tán lá xanh um rợp bóng mỗi hè về và những chiếc lá vàng khẽ theo gió đáp xuống xào xạc con đường nhỏ, bồng bềnh mặt nước mùa thu.
Vẫn biết cuộc sống luôn đổi thay và cần thiết phải có những đổi thay. Vẫn biết những đổi thay vốn không chiều lòng những kẻ hay vẩn vơ hoài niệm. Nhưng nói đến cùng, tôi không ưa nổi những đổi thay theo lối tư duy “đồng phục” đang thịnh hành. Với tôi, mỗi con đường, ngõ phố, ngôi làng, miền quê… đều có những dáng nét, phong vị riêng, câu chuyện riêng của nó. Và câu chuyện của con đường Nguyễn Phan Chánh vốn được kể bằng lời của những bóng ngô đồng cổ thụ rợp mát, thâm u.