Ngày tôi sinh, ông ngoại kéo vó ao Thùng Đấu được con cá chép to bằng cái lá bàng, vàng xuộm. Bà ngoại kho riềng với khế trong cái niêu đất cổ rồi đi bộ qua mấy cánh đồng mang xuống cho con gái.
Bà đi từ chiều mà sâm sẩm tối mới tới nơi. Tối ấy trời mưa rét. Bà tôi mặc chiếc áo bông màu nâu, lấm chấm đen, có những cái khuy tết bằng vải, hình những chiếc nơ rất đẹp. Bà đứng ngoài hàng hiên, tránh những giọt nước rỏ mái gianh rất lâu để lắng nghe tiếng cháu. Nhưng tôi chưa ra đời.
Mẹ tôi trở dạ từ giờ Mùi sang giờ Tý tôi mới sinh. Người đầu tiên đón tôi là bác Lan, một bà mụ vườn mát tay có tiếng trong vùng. Cả ba chị em tôi đều do bác đỡ. Vừa trao tôi cho bà, bác vừa bảo: “lại cái đồ rắn mặt” rồi bà ạ. Bà tôi cười trong những giọt nước mắt vui sướng mà nhớ lại dăm năm về trước, cũng trong hoàn cảnh này, bác đã nói: “mừng cho cả nhà có cái đồ rắn mặt đây rồi”. Ấy là ngày sinh anh trai tôi. Lệ ở quê tôi, trẻ con mới sinh ra cứ phải dùng những cái tên thật xấu, thật tục mà gọi thì mới dễ nuôi. Bởi vậy nên thằng cu, cái hĩm, cái tí, thằng tèo… là những cái tên quen thuộc.
Chuyện này do mẹ tôi kể lại. Những ngày còn bé tôi cứ đòi mẹ kể cho nghe suốt vì sợ các anh chị gọi tôi là “cu nuôi”, không do bố mẹ sinh ra. Nghe nhiều đến nỗi khi lớn lên tôi cứ có cảm giác mình nhớ hết những gì xảy ra trong ngày cất tiếng khóc chào đời.
Trong ký ức tuổi thơ tôi, quê ngoại “xa lăm lắm”. Con đường men theo bờ ruộng trải dài những ba bốn cánh đồng từ Đún Nội sang làng Kênh qua làng Lếnh rồi mới đến làng Bóng. Tuy là xa nhưng mỗi lần được về quê ngoại là một niềm vui sướng đối với chị em chúng tôi. Nhà có độc một chiếc xe đạp nên đứa nào được bố hay mẹ cho đi cùng thì mừng còn hơn được manh áo mới. Tôi là con út nên thường được đi theo, mỗi lần giỗ chạp.
Tết mồng Năm tháng Năm năm ấy, hai bố con tôi chở cặp vịt toòng teng trên ghi-đông xe đạp lên tết ông bà; đi đến cánh đồng làng Kênh bỗng dưới dòng mương nước có đôi cá chép đang “quấn” nhau. Bố tôi bảo: Con cứ ngồi yên trên bờ mà xem bố bắt cặp cá này tết ông bà một thể. Bố tôi đắp chặn hai đầu mương nước lại từ xa rất nhẹ nhàng nên đôi cá vẫn vờn nhau, không hề hay biết. Kế đó, bố thả một ôm rạ to để dụ đôi cá vào một đầu rồi thu hẹp dần khoảng cách.
Cứ như vậy khoảng cách giữa hai con đập được thu hẹp từ từ. Hai con cá vẫn tưởng đâu sẽ yên trí trong đám rạ. Đến khi khoảng cách không cần thu hẹp nữa bố tôi mới dùng đôi bàn tay “sát cá” của mình tóm gọn cả đôi. Xong, bố bảo: Đôi cá này ngoài sông Cái mừng nước mới vào, con nhớ cách đó sau này mà “kiếm ăn”.
Hồi nhỏ có lần tôi ở nhà ngoại đến vài ba tháng. Ấy là cái đận tôi bị bệnh viêm cầu thận. Tự nhiên người sưng phù cả lên, da vàng bủng. Bố mẹ đưa tôi đi bệnh viện, người ta bảo: Bệnh này phải chạy chữa lâu ngày, nằm điều trị ở viện tốn kém lắm… Giữa lúc bố mẹ đang lo lắng chưa biết xoay sở làm sao thì ông ngoại tôi bảo: Ở gần nhà ông bà có bác sĩ Vóc làm bệnh viện trên tỉnh mới nghỉ hưu, cứ đưa thằng cu con về để bác ấy chữa cho.
Thế là tôi trở thành bệnh nhân của bác sĩ Vóc. Xem kết quả khám bệnh của tôi xong, ông bảo: Phải tiêm trong vòng vài ba tháng, ngày đầu hai mũi, sau giảm dần… Hằng ngày tôi được ông bà, cậu mợ và các dì cưng chiều, chăm sóc. Sáng sáng bà ngoại đưa tôi sang nhà bác Vóc để tiêm thuốc.
Hồi đó chưa có kim tiêm sử dụng một lần nên phải dùng đi dùng lại mũi kim cũ. Không bao giờ tôi quên được mũi kim của bác, mũi kim to và cùn, mỗi lần tiêm là một lần tôi khóc thét. Bà ngoại phải giữ người tôi thật chặt và bảo nhìn đi chỗ khác. Vừa giữ tôi bà vừa thủ thỉ: Làm con trai phải cứng rắn lên chứ con, bác sĩ tiêm có đau mới khỏi bệnh được.
Tôi nghe lời bà, nhưng nỗi sợ hãi thì không sao nguôi ngoai đi được. Sau mỗi lần ở nhà bác Vóc về, những vết bầm tím trên mông cứ dầy lên. Bà ngoại phải lấy chai nước nóng chườm cho tôi. Thế rồi nhờ bàn tay mát lành của bác Vóc và tình yêu thương vô bờ của ngoại, bệnh tình của tôi cũng từ từ thuyên giảm và khỏi hẳn lúc nào không biết.
Nhưng cho đến tận bây giờ, nỗi ám ảnh về mũi kim tiêm của bác sĩ Vóc vẫn hằn đậm trong tâm trí tôi. Nhớ lời bà dạy, mỗi lần phải tiêm hay lấy máu, tôi đều nhìn thẳng vào mũi kim để rèn luyện sự “cứng rắn” của mình. Và tôi biết rằng chính bà là người thầy đầu tiên dạy cho tôi về lòng dũng cảm.
Cũng trong thời gian này tôi được ông ngoại, một nhà nho có tiếng trong vùng dạy cho học thuộc lòng một bài học dài, học mãi không hết: Thiên trời, địa đất, cử cất, tồn còn, tử con, tôn cháu, lục sáu, tam ba, gia nhà, quốc nước, tiền trước, hậu sau, ngưu trâu, mã ngựa, cự cựa, nha răng, vô chăng, hữu có, khuyển chó, dương dê, quy về, tẩu chạy…
Mãi về sau này tôi mới biết đó là sách Tam thiên tự của cụ Đoàn Trung Còn. Ông ngoại tôi còn dạy tôi học thuộc nhiều câu cách ngôn, câu đối… bằng chữ nho. Ông bảo: Con chịu khó học thuộc, sau này có khi dùng đến, lúc đó thì ông ngoại đã đi xa rồi. Quả đúng như vậy, bây giờ mỗi khi đọc những câu như: Thủ hiếu đễ thứ kiến văn, kỷ sở bất dục vật thi ư nhân… thì hình ảnh ngoại tôi với chòm râu bạc lại hiện về trong tâm trí.
Nhà ngoại tôi có khu vườn rất rộng. Ở góc vườn ông tôi trồng cây bồ kết để bà và các dì, các mợ lấy quả gội đầu. Những chùm gai bồ kết tua tủa mọc đều từ dưới gốc lên đến ngọn. Bên bờ ao có cây bưởi ngọt nhưng nhà ngoại tôi không gọi là bưởi mà gọi là cây thanh hiên. Giống bưởi thanh hiên này thường cuối năm mới chín, ăn ngọt ngay như đường phèn.
Ở giữa vườn có cây hồng ngâm và một cây na mọc bên bể nước. Những cây này ở nhà tôi không có nên rất háo hức được ăn. Đến mùa quả chín bà chia đều cho các cháu, đứa lớn đứa nhỏ, ở gần ở xa cháu nào cũng có phần. Nhà đông con, nhiều cháu nhưng ông bà tôi dành tình yêu thương công bằng cho tất cả. Sau này khi đã trở thành bà nội, bà ngoại, mẹ tôi cũng làm y như bà và càng ngày tôi càng thấy mẹ giống bà như khuôn đúc.
Quê ngoại tôi có dải đất ven sông Đún phì nhiêu màu mỡ, ở đó gọi là làn sông. Làng tôi không có sông nên mỗi lần về quê ngoại, chị em tôi rất thích chạy lên triền đê, trốn tìm trong những làn dâu xanh mát, những vườn mía thẳng đều tăm tắp. Người làng biết chị em tôi về, hỏi chuyện ríu ran, có đôi khi còn cho quà bánh. Có lần chị em tôi được nhà bác Đồng cho ăn cây mía kĩa, đây là giống mía mà có lẽ suốt đời tôi không bao giờ quên được. Giống mía này chỉ to hơn cây mía lau một tẹo, da vàng khươm, gióng dài ngoằng, ăn được cả đốt (đầu mặt) mà giòn tan, ngọt lịm. Cái vị ngọt của nó đậm đà đến mức khé đặc trong cuống họng, hằn sâu trong ký ức tôi không bao giờ phai nhạt.
Bỗng một chiều mùa Đông năm ấy, chẳng hiểu vì sao nhà bác Đồng bị cháy. Trong cơn gió hanh heo, căn nhà mái rạ đỏ bùng lên nghi ngút một góc trời. Dân làng hò nhau cứu cháy nhưng không kịp, đám cháy lan rộng sang đống rơm, ra vườn mía kĩa. Tôi nhớ bác Đồng gái vật vã khóc bên đàn con nhỏ. Chẳng hiểu vì sao tôi cũng khóc, có lẽ bởi trái tim non nớt của tôi không chịu đựng nổi một cảnh tượng tang thương, hãi hùng nhường vậy.
Rồi tôi đi vào bộ đội xa nhà, xa ngoại. Những đêm trăng hạ tuần, trong phiên gác khuya trên đỉnh đồi Lương Sơn, Hoà Bình nhớ nhà, nhớ ngoại da diết. Hồi đó gia đình chúng tôi chưa có điện thoại nên tôi thường hay biên thư. Những lá thư tôi gửi về, ngoại cất cẩn thận trong chiếc rương gỗ mít có những đường vân vàng rất đẹp. Ngoại bảo, đây là những kỷ vật quý giá nhất của ngoại. Khi nào ngoại về theo ông thì ngoại sẽ mang theo. Tôi biết ngoại thương tôi nhiều lắm. Từ ngày tôi nhập ngũ đến khi tôi vào miền Nam công tác, ngoài mẹ tôi ra thì ngoại là người khóc nhiều nhất.
Mỗi khi tôi về phép, lần nào cũng vậy, ngoại căn dặn tôi đủ điều. Từ chuyện đề phòng gió máy làm sao đến chuyện đi đứng ăn ở thế nào. Rồi ngoại dặn: Con đi xa chốn hòn tên mũi đạn phải biết giữ mình và khiêm cẩn. Tôi nhanh nhảu trả lời: Bà ơi bây giờ là thời bình rồi làm gì còn hòn tên mũi đạn nào nữa ạ.
Bà tôi mắng: Cha bố anh chứ thời nào thì thời nhưng việc của nhà binh là không thể đùa được. Con phải học tập, công tác thật tốt, hàng ngày bà sẽ cầu trời, khấn Phật cho con được bình an vô sự. Tôi nghe lời ngoại nhưng vẫn nói đùa: Bà ơi con lớn rồi, con biết tự xoay sở thế nào mà, bà lo cho con nhiều như “lo bò trắng răng” vậy làm gì cho mệt.
Câu nói vô tình ấy của tôi đã khiến ngoại buồn. Hướng đôi mắt già nua nhìn về phía xa xăm nào đó, ngoại bảo: Bây giờ bà già rồi chẳng biết có sống được đến ngày con có gia đình riêng hay không. Hàng ngày ở nhà một mình bà chỉ biết lo lắng cho con vậy thôi chứ chẳng thể làm được điều gì khác. Rồi ngoại khóc, nước mắt của người già lặn sâu vào trong tâm, âm thầm, lặng lẽ.
Về sau này tôi mới biết đó là những tình cảm, những suy nghĩ của tuổi già trong nỗi cô đơn, nhớ thương đằng đẵng. Ai rồi cũng trở thành người già, lạc hậu. Thương con nhớ cháu rất nhiều nhưng “lực bất tòng tâm” chỉ còn biết cầu mong cho con cháu mình được mọi điều tốt đẹp.
Bây giờ thì cả ông và bà tôi đã thành người thiên cổ. Về lại khu vườn xưa ngập đầy kỷ niệm, lòng chúng tôi rưng rưng niềm thương, nỗi nhớ. Cảnh cũ còn đây nhưng còn đâu hình bóng ngoại năm nào, còn đâu người lo lắng cho con từ những điều nhỏ bé nhất trong cuộc đời này…