Về phương Nam cả tuần, tôi vẫn còn ngẩn ngơ đắm đuối như nghe tiếng sênh, phách, đàn ca văng vẳng thinh không, liêu xiêu trong mơ dáng xiêm áo ẩn hiện giữa khói hương trầm phảng phất, đưa tôi trở lại không gian huyền ảo ngôi Đình cổ Kim Ngân, trên phố Hàng Bạc đêm giao thừa…
“Phách ngọt, đàn say, nệm khói êm
Tiếng ca buồn nổi giữa chừng đêm
“Canh khuya đưa khách…”. Lời gieo ngọc
Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm… ”
(Nghe hát- Vũ Hoàng Chương)
Không biết điều gì xui khiến, phải chăng lời mời ngọt ngào có chút bí ẩn từ em Hà Nội, hay vì cảm thấy khó nhập vào đám đông nam thanh nữ tú nắm tay chen nhau dập dìu bên Hồ Gươm nghe gala âm nhạc đợi thời khắc countdown sang năm mới, tôi líu ríu theo em đi ngược dòng người, vào bên trong ngôi đình thờ Tổ nghề thợ bạc cổ kính để nghe một canh hát Ca Trù.
Đào nương như từ một trong bốn bức tranh tố nữ cầm- kỳ- thi- họa treo trên tường hiện ra, thực trong mộng, mặt hoa rạng ngời, mắt long lanh sóng nước, dáng điệu khuê các, dịu dàng nét mai, cất tiếng oanh chào quan viên.
Kép đàn cũng giống như từ trong bức gấm thêu bát tiên bước ra, ôm cây đàn đáy bảo vật, phong thái thanh thoát, cúi nhẹ lịch duyệt chào khách tri âm… Và rồi giống như một sự hòa hợp huyền hoặc đến mê đắm của giọng ca, tiếng phách, tiếng đàn, tiếng trống, một chuỗi âm thanh trau chuốt như tiếng ngọc vang trong không gian ngôi đình cổ, như đọng lại trong từng khách tri âm…
Đào nương tay róc phách mà như múa khi khoan khi nhặt, tiếng phách có lúc như âm thanh của suối reo, chim hót…, giọng ca lúc lên cao trong như tiếng ngọc, lúc xuống trầm ngọt mềm như nắng mai, câu hát dù buồn mà không thấy bi, chỉ thấy sâu lắng, thâm trầm, như thấm vào hồn khách.
Kép đàn như một tài nhân hòa trộn âm thanh, khi giai điệu đàn hòa quyện với tiếng trống, tiếng phách, tạo nên hợp âm biến ảo huyền hoặc, cứ như muốn rút gan ruột quan viên say đắm, si mê.
Ca Trù, một lối chơi tao nhã, lịch lãm của các văn nhân tài tử xưa nay, trong đó văn thơ, âm nhạc quyện vào nhau, tạo nên vẻ đẹp mộc mạc mà khúc triết tinh tế, vừa có tính dân gian xen lẫn bác học, thực đấy mà ảo huyền vi diệu. Với người phương Nam Ca Trù còn là một thế giới âm nhạc kỳ lạ, có chút bí ẩn thú vị để khám phá, có chút khí chất thần tiên để ngưỡng mộ, có chút huyền bí để mê hoặc, ám ảnh, …
Ca Trù có nhiều truyền thuyết về xuất xứ, nhưng tôi thích một truyền thuyết rất đẹp và lung linh huyền thoại về sự ra đời. Truyền rằng các vị tổ Ca Trù đã được chính hai vị tiên trong bát tiên bày cách chế tác ra cây đàn đáy, tiếng đàn có thể giải mọi phiền muộn, chữa bách bệnh cho nhân gian, và chính tiếng đàn se duyên cho hai vị tổ Ca Trù thành đôi phu thê bất tử.
Đọc sách xưa, biết đến với Ca Trù là những tâm hồn yêu tiếng hát, tiếng thơ, tiếng tơ, nhịp phách, để sẻ chia, hoà mình vào thế giới nội tâm sâu thẳm của những tri âm, để sống những giờ khắc hào hoa thanh nhã, bỏ hết bụi trần tạp niệm.
Như thực như mơ, giao thừa phố cổ Hà Nội, trăng 14 gần tròn, tỏa sáng như rắc bụi bạc vào trời đêm, giơ tay như muốn níu dài âm thanh của những khúc ca “Tự tình”, “Gặp xuân”, “Xuân tình”, “Chơi xuân kẻo hết xuân đi”, “Hồng Hồng Tuyết Tuyết”, “Tỳ Bà hành”…, những câu hát da diết với âm ngân luyến láy hòa quyện trong giai điệu của đàn đáy, tiếng sênh phách, tiếng “tom, chat” của trống quan viên tạo nên sức mê đắm lạ, cứ như muốn buộc, muốn neo hồn người miên man trong canh hát.
Bất chợt tôi nhớ trước lúc chia tay, em Hà Nội hát tặng tôi một khúc Ca Trù bài “Chơi Hồ Tây” của Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến:
“Thuyền lan nhè nhẹ một con chèo
Đủng đỉnh dạo Hồ Tây
Sóng rập rờn sắc nước lẫn chiều mây
Bát ngát nhẽ ghẹo người du lãm…”
Và tôi lạc trong mê tình Ca Trù phố cổ Hà Nội đêm giao thừa.